Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.35 KB, 31 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về xếp hạng doanh nghiệp đối với các tổ chức kinh tế trong nền
kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm xếp hạng doanh nghiệp
1.1.1.1. Xếp hạng doanh nghiệp
Xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp là việc so sánh, đối chiếu các
thông tin, dữ liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã được phân
tích theo một số tiêu chuẩn chung nào đó, để đưa ra vị trí, thứ hạng của doanh nghiệp
đó trong tổng thể thứ hạng đã được quy định sẵn.
Phân tích hoạt động kinh doanh doanh nghiệp là quá trình nghiên cứu các thông
tin, dữ liệu có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Quá trình đó được tiến hành từ bước khảo sát thực tế đến tư duy trừu
tượng, tức là thong qua việc quan sát thực tế, thu thập thông tin dữ liệu, xử lý phân tích
các thông tin dữ liệu đó để tìm nguyên nhân và đề ra các định hướng hoạt động, các giải
pháp, biện pháp thực hiện các định hướng đó.
Việc xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp bao gồm hai công đoạn độc
lập là phân tích và xếp hạng, nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết hữu cơ. Phân tích
doanh nghiệp là tiền đề, cơ sở cho việc xếp hạng.
Quá trình xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp diễn ra phổ biến và
thường xuyên tại các chủ thể kinh tế, chúng mang nhiều tính chất khác nhau và phụ
thuộc vào đối tượng cũng như giải pháp quản lý mà chủ thể áp dụng. Do đó, không có
một phương pháp xếp hạng cụ thể nào đối với mỗi đối tượng nghiên cứu được quy định
chung cho các chủ thể kinh tế [6,7,12].
“CREDIT RATING” là một thuật ngữ bằng tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt
bằng nhiều cách khác nhau như: xếp hạng doanh nghiệp, xếp hạng tín nhiệm, xếp hạng
tín dụng, định hạng tín dụng, xếp loại tín dụng, xếp hạng rủi ro tín dụng, chấm điểm tín
dụng và xếp hạng khách hàng,... [28,29,30], thực ra bản chất thì đều giống nhau, là một
quá trình gồm 2 công đoạn: phân tích và xếp hạng. Để tiện trong việc nghiên cứu, sau
đây Luận văn thống nhất tên gọi chung quá trình này là xếp hạng doanh nghiệp.
Xếp hạng doanh nghiệp là sử dụng một số các tiêu thức, chỉ tiêu theo mục đích
nghiên cứu để phân loại hay xác định doanh nghiệp theo một trật tự nào đó.


Xếp hạng thực chất là phân loại, song phân loại một cách liên tục thành trật tự
thứ hạng theo một hay nhiều tiêu thức khác nhau.
Việc xếp hạng doanh nghiệp là một quá trình từ khi xác định mục đích nghiên
cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin, đánh giá chất lượng thông tin và đưa ra kết quả
về thứ hạng của doanh nghiệp theo một số tiêu chuẩn chung.
Bản chất của việc xếp hạng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng ngân hàng là
việc áp dụng các phương pháp, công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh
giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó cũng như
đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với khoản vay
nhất định như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn, nhằm xác định rủi ro trong hoạt động
cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng doanh nghiệp và được xác định
thông qua qui trình xếp hạng bằng thang điểm, tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định
và phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở dựa vào các thông tin tài chính và phi tài
chính của doanh nghiệp đó tại thời điểm xếp hạng.
1.1.1.2. Mục tiêu của việc xếp hạng doanh nghiệp
Trong quá trình thực hiện, tùy theo giác độ nghiên cứu của chủ thể, có thể có
mục tiêu khác nhau về xếp hạng doanh nghiệp. Đứng trên giác độ hoạt động ngân hàng
thì việc xếp hạng doanh nghiệp có một số mục tiêu chính sau:
Thứ nhất, là đánh giá khả năng tin cậy về tài chính của doanh nghiệp khi đứng
trên giác độ ngân hàng. Dựa trên cơ sở số liệu, các báo cáo tài chính và báo cáo khác
của doanh nghiệp để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng
thanh toán trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi
vốn và lãi vay. Nói cách khác, mục đích của việc xếp hạng doanh nghiệp là đo lường
trước các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng để đưa ra các quyết định hợp lý
về lãi suất, hạn mức tín dụng, các quyết định cho vay, không cho vay, hay thu hồi nợ....
Thứ hai, là phục vụ công tác điều hành quản lý của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), giúp NHNN có thêm thông tin hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách tiền tệ
tín dụng hợp lý và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, xếp hạng doanh nghiệp còn giúp cho chính các doanh nghiệp biết được

tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và của bạn hàng để có những quyết
định chính xác trong tương lai.
1.1.1.3. Yêu cầu của việc xếp hạng doanh nghiệp
Việc xếp hạng doanh nghiệp phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Tính đầy đủ: thông tin đầu vào phải đảm bảo kịp thời, trung thực, tin cậy, đây là
yêu cầu hàng đầu đối với mọi nguồn thông tin nói chung. Tính đầy đủ xác của thông tin
được hiểu theo nghĩa là thông tin đó phải xác thực, có nguồn cung cấp rõ ràng, đáng tin
cậy và phải thường xuyên được cập nhật. Tính đầy đủ còn thể hiện qua việc tính toán
tất cả các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá đúng đối tượng cần nghiên cứu.
Tính chính xác: xếp hạng doanh nghiệp và các chỉ tiêu phân tích phải khoa học,
được áp dụng rộng rãi, được thừa nhận trong khu vực, quốc tế và phù hợp với hoàn
cảnh thực tiễn của Việt Nam, phù hợp với khả năng trình độ nhưng phải có tính khả thi
cao.
Tính khách quan: kết quả xếp hạng doanh nghiệp được công bố rộng rãi và phải
do các tổ chức xếp hạng trung gian đứng ra thực hiện để đảm bảo tính khách quan,
không có liên quan về lợi trong việc đưa ra kết quả xếp hạng.
Tính trung thực: trong quá trình phân tích và xếp hạng, các thông tin, dữ liệu sử
dụng để phân tích, cũng như kết quả xếp hạng đối doanh nghiệp phải được đảm bảo
trung thực, giữ nguyên bản chất, không được làm sai lệch thông tin theo ý muốn chủ
quan của bất kỳ đối tượng nào.
1.1.1.4. Chủ thể trong xếp hạng doanh nghiệp
Thực tế hiện nay trên thế giới và các nước trong khu vực thường có 2 loại chủ
thể trong xếp hạng doanh nghiệp gồm: các công ty chuyên xếp hạng doanh nghiệp
(hoặc công ty thông tin tín dụng) và các Ngân hang thương mại (NHTM).
Các công ty xếp hạng tín dụng có thể là các công ty lớn có tính toàn cầu như:
Moody’s, Standard and Poor, First Rating, hoặc có thể là những công ty nhỏ hơn ở tại
từng nước như Credit Bureau Singapore, Joint Credit Information Center Taipei. Ở Việt
Nam, CIC có mô hình hoạt động như các công ty của Singapore hay Taipei.
Chủ thể chính được đề cập trong Luận văn là CIC, với mục tiêu phục vụ công
tác quản lý, điều hành của Thống đốc NHNN, giúp các TCTD trong công tác quản trị

rủi ro tín dụng và giúp các tổ chức khác trong việc đánh giá năng lực hoạt động của
doanh nghiệp. Ngoài ra, việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện tại CIC nhằm đa
dạng hoá sản phẩm của CIC, phục vụ các đối tượng sử dụng thông tin.
1.1.1.5. Đối tượng xếp hạng doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, một tập hợp gồm những bộ phận
gắn bó với nhau, có vốn và các phương tiện vật chất, kỹ thuật, hoạt động theo những
nguyên tắc và mục tiêu thống nhất, thực hiện hạch toán kinh doanh hoàn chỉnh, có
nghĩa vụ và được hệ thống pháp luật thừa nhận cũng như bảo vệ.
Vì vậy, đối tượng xếp hạng doanh nghiệp là các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, đang hoạt động tại Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp
1.1.2.1. Đối với tổ chức tín dụng
Hoạt động của TCTD trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động
kinh tế có nhiều rủi ro. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời
với quá trình hoạt động của TCTD trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân
lên gấp đôi, bởi vì TCTD không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên
nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn
nữa, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tổn thất to lớn cho nền kinh
tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lây lan của nó có
thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế của một quốc gia và theo phản ứng dây
chuyền nó có thể tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia trên toàn thế giới.
Việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện nhằm hỗ trợ TCTD trong việc:
Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất,
biện pháp bảo đảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt.
Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ;
xếp hạng doanh nghiệp cho phép TCTD lường trước những dấu hiệu cho thấy khoản
vay đang có chất lượng xấu đi hay xem khía cạnh tốt lên và có những biện pháp áp
dụng kịp thời.
Giảm chi phí và tiết kiệm thời gian quyết định một món vay.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, xếp hạng doanh nghiệp còn

nhằm mục đích: phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít
rủi ro hơn. Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng
rủi ro tín dụng. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác với tư cách là
một nhà đầu tư sử dụng xếp hạng doanh nghiệp làm một tiêu chuẩn quan trọng khi
quyết định cho vay, tài trợ dự án, thoả thuận swap…
1.1.2.2. Đối với các doanh nghiệp
Nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh và độ tín nhiệm của mình trong
sản xuất, kinh doanh nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Việt Nam, thì việc xếp
hạng tín dụng là rất cấp thiết và cần thiết. Khi các doanh nghiệp tham gia đánh giá tín
dụng doanh nghiệp sẽ nhận được những thông tin đánh giá hết sức độc lập, khách quan
về tình hình sản xuất kinh doanh của mình, tự mình hiểu được mình về năng lực tài
chính, khả năng thanh toán, công nợ... Mặt khác, doanh nghiệp còn nhận được những
dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý, thị trường... Kết quả xếp hạng doanh nghiệp hàng năm
do cơ quan xếp hạng doanh nghiệp đưa ra sẽ tôn vinh các doanh nghiệp có vị trí xếp
hạng cao, đồng thời doanh nghiệp cũng phải có giải pháp khi bị tụt hạng. Điều này sẽ
góp phần rất lớn trong việc quảng bá và phát triển thực lực của doanh nghiệp trên thị
trường trong nước cũng như ở nước ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tín dụng ngân hàng (tín dụng giữa các
ngân hàng với doanh nghiệp), còn xuất hiện và phát triển hình thức tín dụng thương
mại. Đây chính là quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau trong quá trình
mua bán hàng hóa. Chính vì thế, thông tin về xếp hạng doanh nghiệp sẽ giúp các doanh
nghiệp tìm hiểu rõ hơn đối tác của mình, từ đó quyết định các giao dịch mua bán chịu
hàng hoá, hợp tác liên doanh….
1.1.2.3. Đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán
Xếp hạng doanh nghiệp có thể cung cấp cho thị trường chứng khoán một hệ
thống xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ, từ đó giúp cho
các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so sánh, đối chiếu trước khi ra quyết định đầu tư
cuối cùng, đầu tư vào những công cụ nào? Vì thế, hệ thống xếp hạng mà các cơ quan
xếp hạng đưa ra đóng vai trò bảo vệ các nhà đầu tư, giảm bớt rủi ro khi đầu tư vào
chứng khoán.

Mặc dù thị trường chứng khoán ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành và
phát triển, nhưng tương lai đó là một thị trường tài chính cao cấp trong nền kinh tế thị
trường, nó cũng là công cụ cao cấp nhất của thị trường tài chính.
Hệ thống xếp hạng doanh nghiệp không những có lợi cho các nhà đầu tư mà còn
mang lại lợi ích cho các công ty chứng khoán. Xếp hạng doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện
cho việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực hiện được dễ dàng, thuận lợi
hơn. Mà còn góp phần quan trọng vào việc giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho người
phát hành. Xếp hạng doanh nghiệp thúc đẩy nhà phát hành nâng cao hơn trách nhiệm
đối với các nhà đầu tư. Việc xếp hạng doanh nghiệp liên quan chặt chẽ đến uy tín với
nhà phát hành, điều đó thúc đẩy người phát hành thực hiện tốt hơn các cam kết đối với
các nhà đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi và tiền vốn vay.
Xếp hạng doanh nghiệp là nhân tố quan trọng khi đánh giá mối quan hệ giữa rủi
ro và lợi nhuận. Nhà đầu tư so sánh đánh giá lợi nhuận – rủi ro giữa các công cụ đầu tư
để tìm ra công cụ có lợi nhất vừa có hiệu quả vừa an toàn.
1.1.2.4. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Thông tin xếp hạng doanh nghiệp giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước đánh
giá được đối tượng quản lý của mình, có cơ sở thông tin để so sánh theo ngành kinh tế,
lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp. Là nguồn thông tin tốt giúp cho việc định giá
doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá. Bên cạnh vai trò như là một công cụ quản lý,
các tổ chức xếp hạng doanh nghiệp còn đóng vai trò như là một tiêu chuẩn quản lý
chính thức. Là cơ sở giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra những giải pháp thích
hợp nhất để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các doanh nghiệp trong từng ngành
kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, nhằm bảo đảm một môi trường kinh
tế hoạt động lành mạnh.
Đối với NHNN việc xếp hạng doanh nghiệp có thể biết được mức độ rủi ro theo
từng ngành kinh tế, từ đó có chính sách tiền tệ, tín dụng thích hợp, và tổ chức thanh tra
giám sát các TCTD.
1.1.2.5. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các đối tác nước ngoài trước khi vào
Việt Nam đầu tư, liên doanh liên kết, họ hầu hết đều phải thông qua một tổ chức nào đó

để xác định độ tin cậy của đối tác trong nước. Ở Việt Nam hiện chưa có một tổ chức
nào làm được các “cầu nối” quan trọng này. Do vậy, có thể một trong những nguyên
nhân mà các nhà đầu tư nước ngoài chưa mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam là họ thiếu
những thông tin cơ bản ban đầu về thị trường Việt Nam cũng như thông tin về các
doanh nghiệp Việt Nam.
Dựa trên kết quả xếp hạng doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới có căn cứ để thẩm
định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo tình hình phát triển doanh nghiệp và đưa ra
quyết định đầu tư. Thông qua kết quả xếp hạng doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ hiểu rõ hơn
về sức mạnh tài chính của các công ty, đánh giá năng lực tổ chức, các mối quan hệ kinh
doanh hoặc quan tâm tới việc mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoản của các công ty
này.
1.2. Một số nội dung cơ bản của xếp hạng doanh nghiệp
1.2.1. Các phương pháp dùng trong xếp hạng doanh nghiệp
1.2.1.1.Phương pháp phân tích thống kê
Phương pháp phân tích thống kê thường được sử dụng bao gồm:
Phương pháp so sánh chủ yếu dựa trên sự đối chiếu, so sánh các giá trị của
doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác, so sánh các giá trị của cùng một chỉ tiêu
tại các thời kỳ khác nhau, hoặc so với các giá trị trung bình của ngành hay thị trường.
Phương pháp loại trừ (hay còn gọi là phương pháp thay thế) là phương pháp xác
định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng nghiên cứu bằng cách loại trừ
dần ảnh hưởng của các nhân tố khác. Có thể dùng cách thay thế liên hoàn, có thể xác
định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác
định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi.
Phương pháp liên hệ cân đối, là phương pháp xác định chỉ tiêu kinh tế thông qua
xác định mối quan hệ của chúng với các nhân tố khác.
Phương pháp phân tích thống kê là phương pháp phân tích các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp căn cứ vào các chỉ tiêu kinh tế được xây dựng dựa vào các số
liệu thống kê thu thập trong các kỳ kinh doanh đã qua của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này được thực hiện bằng cách thu thập ý kiến của các chuyên gia

để đánh giá về một nội dung cần đánh giá nào đó. Phương pháp này gồm 3 bước cơ bản
sau:
Bước 1 - Chuẩn bị đánh giá bao gồm lập danh sách những chuyên gia được hỏi ý
kiến và xây dựng bảng câu hỏi.
Bước 2 - tập hợp các ý kiến trả lời, phân tích và hình thành bảng tổng hợp kết
quả đánh giá.
Bước 3 - Tổng hợp các ý kiến đánh giá lần thứ hai.
1.2.1.3. Phương pháp chi tiết
Việc phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế theo những tiêu thức khác nhau
như theo yếu tố cấu thành, theo địa điểm phát sinh và theo thời gian nhằm giúp cho việc
đánh giá chúng được chính xác và cụ thể, qua đó xác định được nguyên nhân cũng như
chỉ ra được trọng điểm của công tác quản lý.
Hơn nữa, phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế theo địa điểm phát sinh
nhằm phát hiện nguồn gốc hình thành của chúng, do vậy xác định được trọng điểm của
công tác quản lý.
1.2.1.4. Phương pháp logic biện chứng
Dựa vào thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ kinh
doanh mà rút ra quy luật hoạt động của doanh nghiệp, cộng với nghiên cứu các nhân tố
tác động, các dự báo kinh tế mà đưa ra những đánh giá, kết luận về tình hình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.5. Phương pháp khảo sát thực tế
Là phương pháp khảo sát thực tế hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình sản
xuất kinh doanh để tạo cơ sở thực tiễn sát thực nhằm giúp củng cố các đánh giá nhận
định về tình hình hoạt động kinh doanh của cdoanh nghiệp.
1.2.2. Trình tự xếp hạng doanh nghiệp
Qua nghiên cứu những điểm chung nhất, có tính phổ cập, quá trình xếp hạng
doanh nghiệp được thực hiện và tiến hành theo trình tự sau:
Sơ đồ 1.01- Các bước tiến hành xếp hạng doanh nghiệp
Phê chuẩn
và công bố

kết quả xếp
hạng
Đưa ra kết quả phân
tích và xếp hạng
doanh nghiệp theo
tiêu chuẩn nhất định
Phân tích các
thông tin thu
thập được và
cho điểm
Xác định
ngành kinh tế
và quy mô
doanh nghiệp
Thu
thập
thông
tin
1.2.2.1. Thu thập thông tin
Thu thập thông tin bao gồm: Nguồn thông tin thu thập, phương pháp, quy trình
thu thập thông tin.
Nguồn thu nhập: CIC thường xuyên cập nhập thông tin về khách hàng có quan
hệ với các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm các NH thương
mại, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài, các công ty tài chính, công ty cho thuê
tài chính và các tổ chức khác có hoạt động NH…. Nguồn dữ liệu đầu vào còn được bổ
sung và cập nhật thông qua việc kết nối và trao đổi thông tin với các kho thông tin dữ
liệu của của các bộ ngành như: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Nội vụ, Bộ
Công an, Tổng cục thuế, Tổng cục thống kê, Tổng cục hải quan, Uỷ ban chứng khoán,
Cục đang ký giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp….. và khai thác trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu về thông tin các doanh nghiệp nước

ngoài CIC thương xuyên mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trao đổi với các hãng thông
tin quốc tế, mua lại thông tin từ các tổ chức lưu trữ, kinh doanh thông tin quốc tế.
Phương pháp thu thập thông tin: để thu thập TTTD được chính xác, kịp thời
CIC đã sử dụng một số phương pháp sau: nối mạng máy tính với các TCTD lớn, xây
dựng các phần mềm client-sever thực hiện gửii nhận TTTD qua mạng internet theo
chuẩn của CIC. Đối với những TCTD khác thu thập qua các thiết bị nhớ như CD, đĩa
mềm, file… hoặc bằng các văn bản; bằng văn bản, FAX, điện thoại hoặc điều tra trực
tiếp đối với các nguồn thông tin khác; mua thông tin từ các tổ chức như Cục thuế, Sở
đầu tư….và các tổ chức kinh doanh thông tin trong và ngoài nước.
Quy trình thu thập: một số TCTD có điều kiện (TCTD quốc doanh, TCTD cổ
phần) tổng hợp thông tin từ chi nhánh sau đó truyền file trược tiếp vế trung tâm; các
TCTD còn lại truyền file qua chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố sau đó chi nhánh NHNN
truyền file về Trung tâm thông tin tín dụng.
1.2.2.2. Xác định ngành kinh tế và quy mô của doanh nghiệp
Xếp hạng doanh nghiệp dựa trên tiêu chí xác định doanh nghiệp theo ngành kinh
tế, do mỗi ngành có những đặc điểm khác nhau như cơ cấu chi phí, mức độ trưởng
thành, tính chu kỳ, khả năng sinh lời,...
Qui mô doanh nghiệp được phân thành 3 loại: lớn, vừa và nhỏ. Tình hình tài
chính doanh nghiệp tại kho dữ liệu CIC cho thấy, doanh nghiệp có qui mô khác nhau có
tình hình về vốn, tài sản, lao động... cũng khác nhau và có sự cách biệt tương đối rõ nét.
Chính vì vậy, phân loại doanh nghiệp theo qui mô là việc làm không thể thiếu được
trước khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để có thể đi đến xếp hạng doanh nghiệp. Hay
nói cách khác, việc xếp hạng doanh nghiệp là việc so sánh doanh nghiệp này với doanh
nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng chúng về tín dụng, việc so sánh đó phải
được đặt trong điều kiện quy mô cùng loại.
1.2.2.3. Phân tích các chỉ tiêu và cho điểm
Áp dụng các phương pháp phân tích nêu ở phần trên để phân tích các chỉ tiêu tài
chính và phi tài chính của doanh nghiệp thu thập được. Trên cơ sở đó, dựa vào các tiêu
chuẩn được định sẵn nhất định nào đó để cho điểm đối với từng chỉ tiêu đã được phân
tích.

1.2.2.4. Đưa ra kết quả xếp hạng
Trên cơ sở bảng điểm của các chỉ tiêu, tổ chức xếp hạng đưa ra kết quả xếp hạng
đối với doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn được định sẵn nhất định nào đó, tùy theo mục
đích của chủ thể đánh giá.
1.2.2.5. Phê chuẩn và công bố kết quả xếp hạng
Căn cứ vào kế quả xếp hạng, tổ chức xếp hạng căn cứ vào các tiêu chuẩn xem
xét lần cuối và phê chuẩn kết quả xếp hạng và tổ chức công bố theo quy định hoặc theo
yêu cầu của chủ thể sử dụng kết quả xếp hạng.
1.2.3. Nguồn thông tin sử dụng trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp
1.2.3.1. Thông tin tài chính của doanh nghiệp
Thông tin tài chính của doanh nghiệp bao gồm: Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo kết quả
kinh doanh, Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ.
1.2.3.2. Thông tin phi tài chính
Thông tin phi tài chính bao gồm: tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng; thông tin
pháp lý (địa chỉ, số điện thoại, fax, email, web, số đăng ký kinh doanh, quyết định thành
lập doanh nghiệp, ngày cấp, nơi cấp, loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh,
thông tin tranh chấp tại tòa án...); thông tin về trụ sở làm việc (đi thuê hay sở hữu, diện
tích, địa thế...), thông tin về ban lãnh đạo (họ tên, tuổi, năm kinh nghiệm, trình độ...),
thông tin trình độ công nghệ; thông tin sản phẩm; thông tin chi nhánh và công ty con
(nếu có); thông tin sở hữu doanh nghiệp; thông tin lao động (số lượng, trình độ...).
1.2.4. Hệ thống chỉ tiêu dùng để xếp hạng doanh nghiệp
1.2.4.1. Chỉ tiêu tài chính
Các tỷ số về khả năng thanh toán
* Khả năng thanh toán hiện hành
Tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền các chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng (tương đương tiền) các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho) còn nợ ngắn
hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn NHTM, các TCTD khác, các khoản phải
trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác… Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn
hạn đều có thời gian nhất định tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là
thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp nó cho biết mức độ các

khoản nợ của các chủ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành
tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
* Tỷ số khả năng thanh toán nhanh
Là tỷ số giữa tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh
là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm: tiền, chứng khoán
ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành
tiền hơn trong tài sản ngắn hạn và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy tỷ số khả năng
thanh toán cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc
bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản ngắn hạn trừ phần
dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn.
Các tỷ số về khả năng cân đối vốn
* Tỷ số nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan
trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu công
ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở
hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn thì rủi ro xảy ra trong sản
xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác bằng cách tăng vốn thông
qua vay nợ các chủ doanh nghiệp vẫn nằm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp.
Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ
doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể.
* Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản
Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản (hệ số nợ) được sử dụng để xác định nghĩa vụ
của doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ
thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được
đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ sở hữu doanh
nghiệp ưa thích tỷ số cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền
kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ số nợ quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.
* Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi

Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên lãi vay. Nó cho biết
mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được
các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Các tỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau
như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ liên quan tới

×