Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.08 KB, 29 trang )

Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái
1.1.Định nghĩa và cơ chế xác định tỷ giá
1.1.1.a.Định nghĩa:
Trong phạm vi thị trường của một nước ,các phương tiện thanh toán quốc tế được
mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một tỷ giá
nhất định .Do đó có thể hiểu tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền tệ một được biểu hiện
bằng số lượng đơn vị tiền tệ của nước khác hay là bằng số lượng ngoại tệ nhận được
khi đổi một đơn vị nội tệ hoặc bằng số lượng nội tệ nhận được khi đổi một đơn vị
ngoại tệ .Các nước có giá trị đồng nội tệ thấp hơn giá trị ngoại tệ thường sử dụng cách
thứ hai .Chẳng hạn ở Việt Nam người ta thường nói đến số lượng đồng Việt nam nhận
được khi đổi một đồng USD, DEM hay một FFR …Trong thực tế ,cách sử dụng tỷ giá
như vậy thuận lợi hơn .Tuy nhiên trong nghiên cứu lý thuyết thì cách định nghĩa thứ
nhất thuận lợi hơn
Tỷ giá dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về mặt giá cả của các đồng
tiền các nước khác nhau . Có hai loại giá : giá trong nước (giá quốc gia ) phản ánh
những điều kiện cụ thể của sản xuất trong một nước riêng biệt ,và giá ngoại thương
( giá quốc tế ) phản ánh những điều kiện sản xuất trên phạm vi thế giới . Do phạm vi
,điều kiện sản xuất cụ thể trong mỗi nước và trên phạm vi thế giới khác nhau nên hàng
hoá có hai loại giá : giá quốc gia và giá quốc tế . Giá trị quốc gia được biểu hiện dưới
hình thức giá cả trong nước bằng đơn vị tiền tệ của nước đó . Giá trị quốc tế biểu hiện
qua giá cả quốc tế bằng các ngoại tệ trên thị trường thế giới .Tiền tệ là vật ngang giá
chung của toàn bộ khối lượng hàng hoá và dịch vụ trong nước . Vì vậy trong sức mua
của đồng tiền được phản ánh đầy đủ các quan hệ tái sản xuất trong nước đó ,hay nói
cách khác ,sức mua của một đồng tiền do mức giá cả của toàn bộ các loại hàng hoá
dịch vụ trong nước đó quyết định.Tỷ giá thể hiện sự tương quan giữa mặt bằng giá
trong nước và giá thế giới . Do sự khác nhau giữa hai loại giá cả trong nước và giá cả
thế giới mà tiền tệ vừa làm thước đo giá trị quốc gia vừa làm thước đo giá trị quốc tế.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại khi tính đến vấn đề hiệu quả kinh tế ,thì phải
thường xuyên so sánh đối chiếu hai hình thức giá cả với nhau : giá quốc gia và giá


quốc tế. Muốn thế phải chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác , phải so sánh giá
trị đồng tiền trong nước với ngoại tệ thông qua công cụ tỷ giá .Tỷ giá dùng để tính toán
và thanh toán xuất , nhập khẩu ( không dùng để ổn định giá hàng hoá sản xuất trong
nước ) . Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết để mua một lượng
hàng xuất khẩu tương đương với một đơn vị ngoại tệ .Tỷ giá hàng nhập khẩu là số
lượng tiền trong nước thu được khi bán một lượng vàng nhập khẩu có giá trị một đơn
vị ngoại tệ.
Tỷ giá là tỷ lệ so sánh giữa các đồng tiền với nhau . Do đó muốn so sánh giá trị
giữa các đồng tiền với nhau ,cần phải có vật ngang giá chung làm bản vị để so sánh
.Tiền tệ là vật ngang giá chung để biểu hiện giá trị của các hàng hoá ,nhưng giờ đây
đến lượt cần so sánh giá cả giữa các đồng tiền với nhau lại phải tìm một vật ngang giá
chung làm bản vị để so sánh.
1.1.1.b.Cơ chế xác định tỷ giá :tuỳ thuộc vào chính sách tỷ giá mỗi quốc
gia
● Cơ chế thị trường : tỷ giá cũng là một loại giá cả, nó được xác định dựa trên
các lực lượng cung cầu nội ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối là nơi mua bán trao đổi đồng nội và ngoại tệ.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 1
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
- Xuất hiện việc cung tiền của nước A trên thị trường ngoại hối so với đồng tiền
nước B khi người dân nước A mua hàng nhập khẩu từ B hoặc khi người dân nước A
đầu tư sang nước B .
Đường cung về tiền có độ dốc dương trong không gian hai chiều tỷ giá và lượng
cung tiền
e*
Q*
Q (VND)
Q (VND)
e

- Xuất hiện về cầu tiền nước A trên
B mua hàng xuất khẩu từ nước A hoặc
khi người nước người dân nước B đầu
tư sang nước A. Đường cầu về có độ
dốc âm trong không gian hai chiều tỷ
giá và lượng tiền .
Sự cân bằng cung cầu tiền đạt được khi
hai đường này giao nhau và tỷ giá cân
bằng được xác định.

● Cơ chế hành chính : ở những nước theo đuổi chính sách kiềm chế tài chính và
kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn thường đưa ra một mức tỷ giá neo cố định .Tỷ giá này
có thể được thay đổi điều chỉnh song không phải do các lực lượng thị trường quyết
định. Nó được ấn định lại khi các nhà quản lý cần thấy phải thay đổi nó để phục vụ cho
một mục đích nào đó.
1.1.2. Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trường
Để nhận biết được tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nền
kinh tế nói chung ,hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng ,người ta thường phân loại tỷ
giá theo các tiêu thức sau đây :
* Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý :
-Tỷ giá chính thức : đây là loại tỷ giá được biết đến nhiều nhất và là tỷ giá được
nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng do ngân hàng công bố chính thức trên thị
trường để làm cơ sở tham chiếu cho các hoạt động giao dịch , kinh doanh ,thống kê…
-Tỷ giá thị trường : tỷ giá được hình thành thông qua các giao dịch cụ thể của
các thành viên thị trường .
-Tỷ giá danh nghĩa : là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau ,đồng
này đổi được bao nhiêu đồng kia .
-Tỷ giá thực: là tỷ giá phản ánh tương quan giá cả hàng hoá của hai nước được
tính theo một trong hai loại tiền của hai nước đó hoặc là giá trị tính bằng cùng một
đồng tiền của hàng xuất khẩu so với giá hàng nhập khẩu..v.v.. Tỷ giá hối đoái thực tế

(er) được xác định er = en * Pn/Pf
Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
-Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát
giữa các nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước.
* Dựa trên kỹ thuật giao dịch : cơ bản có hai loại tỷ giá :
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 2
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
-Tỷ giá mua/bán trao ngay, kéo theo việc thay đổi ngay các khoản tiền
-Tỷ giá mua/bán kỳ hạn ,kéo theo việc trao đổi các khoản tiền vào một ngày
tương lai xác định.
Bên cạnh đó ,trong quá trình theo dõi hoạt động kinh doanh của ngân hàng
,người ta còn đưa ra các khái niệm tỷ giá :
-Tỷ giá điện hối : tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện ,thường được niêm
yết tại ngân hàng . Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác.
-Tỷ giá thư hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư .
-Tỷ giá của séc và hối phiếu trả tiền ngay : được mua và bán theo một tỷ giá mà
cơ sở xác định nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi của giá trị toàn bộ của séc và
hối phiếu phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để chuyển séc từ nước này sang
nước khác và theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu được
trả tiền .
-Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh tính
từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu đó được trả tiền .Thời hạn này
thường là bằng thời hạn trả tiền ghi trên hối phiếu cộng với thời gian chuyển tờ hối
phiếu đó từ ngân hàng bán hối phiếu đến ngân hàng đồng nghiệp của nó ở nước của
con nợ hối phiếu .Thông thường lãi suất được tính theo mức lãi suất của nước mà đồng
tiền được ghi trên hối phiếu.
1.1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở .
Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia ( nếu có sự liên kết và có đồng tiền

chung ) thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm hàng đầu chính là tỷ giá giữa đồng tiền của
chính quốc gia đó ,hay nhóm các quốc gia đó (đồng nội tệ) với các đồng tiền của các
quốc gia khác ( các đồng ngoại tệ) Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh
tế.Sự vận động của nó có tác động sâu sắc mạnh mẽ tới mục tiêu,chính sách kinh tế vĩ
mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, TGHĐ và ngoại thương:Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan
trọng đối với mỗi quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất
nhập khẩu của chính quốc gia đó.Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá(Tăng trị giá
so với đồng tiền khác)thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng
hoá nước ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn.Ngược lại khi đồng tiền một nước sụt
giá,hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài
tại nước đó trở nên đắt hơn(các yếu tố khác không đổi).Tỷ giá tác động đến hoạt động
xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc
thặng dư cán cân.
Thứ hai,TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát.Tỷ giá hối đoái không
chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thương ,mà thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động
đến các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong nước ,lạm phát khả
năng sản xuất , công ăn việc làm hay thất nghiệp…
Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản (vốn) từ quốc
gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục đích kiếm
lời nhuận và tránh rủi ro. Do đó, nếu tỷ giá giảm trong trường hợp người ta dự đoán
tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia tăng và tư bản xuất khẩu sẽ
giảm .
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 3
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Với mức tỷ giá hối đoái 1USD =10500VND của năm 1994 thấp hơn mức 1USD
= 13500VND của năm 1998 ,tức tiền Việt Nam sụt giá và nếu giả định mặt bằng giá
thế giới không đổi ,thì không chỉ có xe con khi nhập khẩu tính thành tiền Việt Nam
tăng giá mà còn làm tất cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi vào tình trạng tương tự và

trong đó có cả nguyên vật liệu ,máy móc cho sản xuất . Nếu các yếu tố khác trong nền
kinh tế là không đổi,thì điều này tất yếu sẽ làm mặt bằng giá cả trong nước tăng lên .
Nếu tỷ giá hối đoái tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm ( đồng nội tệ Việt Nam
liên tục mất giá ) có nghĩa lạm phát đã tăng . Nhưng bên cạnh đó , đối với lĩnh vực sản
xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước ,thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ
giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này , giúp phát triển sản xuất và từ đó
có thể tạo thêm công ăn việc làm , giảm thất nghiệp ,sản lượng quốc gia có thể tăng
lên . Ngược lại , nếu các yếu tố khác không đổi thì lạm phát sẽ giảm ,khả năng cạnh
tranh của các lĩnh vực trong nước cũng có xu hướng giảm ,sản lượng quốc gia có thể
giảm ,thất nghiệp của nền kinh tế có thể tăng lên … nếu tỷ gá hối đoái giảm xuống
( USD giảm giá hay VND tăng giá )
1 .2.Nhân tố tác động đến tỷ giá và tầm quan trọng của tỷ giá
1.2.1.Nhân tố tác động tới tỷ giá.
a)Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động,mức giá cả
tương đối ở thị trường trong nước,thuế quan và hạn mức nhập khẩu,ưa thích hàng nội
so với hàng ngoại.
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc
ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ.NSLĐtrong nước tăng lên tương đối so
với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ giá thành sản phẩm,
dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập,dẫn đến sự gia tăng mức cầu của
hàng nội địa so với hàng ngoại nhập,làm cho hàng nội địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội
tệ tăng lên(TGHĐ)giảm xuống và ngược lại. Thực tế trên thị trường thế giớiTGHĐ của
đồng tiền phụ thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó.Một nền kinh tế
phát triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng
giá của đồng tiền nước đó.
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ dùng
để điều tiết và hạn chế nhập khẩu.Chính công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm
tăng giả cảcủa hàng ngoại nhập,làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp
phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước.Những công cụ mà
nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của

đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước ngoài
về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng
giá,bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ.Cầu
đối với hàng xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá.
-Năng suất lao động : Năng suất lao động cao làm giá hàng của một nước rẻ
tương đối so với các nước khác . Cầu hàng xuất nước đó cao lên kéo theo sự tăng giá
của đồng tiền nước đó. Về lâu dài , do năng suất lao động của một nước cao hơn
tương đối so với nước khác , nên đồng tiền của nước đó tăng giá.
-Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến tỷ giá : Phần lớn các nước đang phát triển
đều phải đối mặt với tình trạng “Đôla hoá” trong nền kinh tế.Đó là sự mất niềm tin vào
đồng bản tệ , người dân và các tổ chức kinh tế găm giữ đôla và chỉ tín nhiệm đồng tiền
này trong thanh toán trao đổi . Do vậy cầu USD rất lớn và giá các đồng bản tệ xuống
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 4
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
thấp các nước luôn trong tình trạng căng thẳng về dự trữ ngoại hối đảm bảo khả năng
thanh toán nợ đến hạn .
-Tỷ lệ lạm phát: Nếu tỷ lệ lạm phát nước A cao hơn tỷ lệ lạm phát nước B,nước A
cần nhiều tiền hơn để đổi lấy một lượng tiền nhất định của nước B.
-Giá đồng tiền nước A giảm xuống .
-Cán cân thương mại: Nó liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu .Xuất khẩu
lớn tỷ giá lên giá
b)Các nhân tố thuộc về ngắn hạn
-Lãi suất : Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều chỉ tiêu
khác nhau trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Trong
một nước nếu lãi suất nội tệ tăng trong khi lãi suất thế giới ổn định sẽ làm cho các
luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều vì mức lãi suất quá hấp dẫn . Do vậy cầu tiền nước này
tăng lên và tỷ giá tăng theo .
-Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường

cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong
điều kiện thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi
hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày.
-Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung- cầu về
ngoại tệ trên thị trường ,do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái . Bội thu
cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và bội chi cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ
giá tăng.
1.2.2. Tầm quan trọng của tỷ giá.
Bất kì một quốc gia nào cũng luôn luôn tìm cách để đạt được hai mục tiêu lớn
của nền kinh tế : Đó là mục tiêu cân bằng ngoại (cân bằng ngoại thương) và mục tiêu
cân bằng nội(cân bằng sản lượng,công ăn việc làm và lạm phát)
Ta biết rằng, tỷ giá tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và
hàng hoá nước ngoài . Khi đồng tiền của một nước tăng giá (Tăng giá trị so với đồng
tiền khác ) thì hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên đắt hơn và hàng hoá nước ngoài
trở lên rẻ hơn(giá nội địa tại hai nước giữ nguyên ) . Ngược lại, khi đồng tiền của một
nước sụt giá , hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên rẻ hơn trong khi hàng hoá nước
ngoài tại nước đó trở lên đắt hơn.
Từ đó tỷ giá ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu của các quốc gia
và trở thành yếu tố chính ảnh hưởng tới việc thực hiện 2 mục tiêu lớn của nền kinh tế .
Điều này có thể nhận thấy một cách rõ ràng khi xem xét nền kinh tế Việt Nam. Hiện
nay,đồng VND đang được coi là tăng giá tương đối so với các đồng tiền trong khu vực
( do đồng tiền của các nước này giảm giá so với đồng USD ) nên giá cả của hàng Việt
Nam trên thị trường quốc tế đang cao hơn so với hàng hoá cùng chủng loại của các
nước trong khu vực dẫn đến bị cạnh tranh một cách gay gắt và thực tế là tổng kim
ngạch xuất khẩu của nước ta trong năm 2000 và mấy tháng đầu năm 2001 là không
tăng mà có tăng thì cũng chỉ tăng một lượng nhỏ.
1.3.Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế.
1.3.1.a.Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 5
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc

Anh
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu chi ngân sách.
Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà
nước công bố thường cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời điểm công bố mức
tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức mua của đồng tiền
tính chung thời kỳ 1985 - 1988, 1rúp mua trên dưới 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD
trên dưới 3.000VND, trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất
nhập khẩu giữ mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất khẩu
phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất khẩu của năm
1987là 650 triệu R-USD trong đó khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD
150 triệu, Ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương
càng giao nhiều hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước
càng phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ trong việc
thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng và càng thiếu
vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về
nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân với mức
giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và 225VND/USD nêu trên). Như vậy,
các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được
hưởng phần giá thấp còn ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc
thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng
xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn để có thể
đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì mức lỗ của ngân sách
cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho
việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao
hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất
định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể.
+Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ không bán
ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ chức đại diện nước ngoài
hoặc cá nhân nước ngoài cũng không chuyển tiền tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà

thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị
trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị
thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế
cho Nhà nước vừa làm phát sinh thêm những tiêu cực trong đời sống xã hội. Đồng thời
nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ giữa các
đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ
giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ do nhà nước qui định không tính đến biến
động giá trên thị trường đang bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ
hàng xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản lý
ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại tệ
bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được.
+Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân sách Nhà
nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát của ngân
sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại
tệ.
+Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam so với
ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt
Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 6
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
nhập khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà
nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
+Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp
tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức
kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho
các cơ quan và tổ chức được Nhà nước cấp cũng được tăng lên tương ứng với mức mất
giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
+Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã bỏ
chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất

- nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ giá thị trường. Ngân hàng nhà nước
công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở
đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh
lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ giá chính thức.
+Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với thị trường
khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực và chính xác
hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và
trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn.
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và quản lý ngoại
tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không tốt đến quản lý, điều hành
ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã khiến cho
lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ tăng của
cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quỹ
ngoại tệ chưa được tăng cường.
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không ổn định thì
không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân sách bằng ngoại tệ
theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị trường, điều hành Ngân sách Nhà
nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi
phải giải quyết.
1.3.1.b.Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ. Trước
năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92 triệu USD (tỷ giá 216
Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho
Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài
ra, vào thời điểm 1987 trở về trước còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ
Yên, tương đương 125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên
lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua
sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm
thiệt thòi cho người đi vay.

Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở nước
ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động mạnh đến khả năng thanh
toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989 - 1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 7
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9
triệu USD, tỷ giá lúc này là 130 Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra
USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá,
nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đến yếu tố lãi suất
tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố, rong đó có
yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo phương thức
này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh nghiệp kể
trên là vay đồng Yên của các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý nghĩa đặc
biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài
nếu không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với
nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền
quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về trách
nhiệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân công quyền
trước các khoản vay và khoản trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui định Nhà nước vay Nhà
nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không gánh hộ nợ doanh
nghiệp.
Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào cũng chấp
nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì
khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất

khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất
khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà
nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay, không thể chấp
nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến việc trả giá, đặc biệt phải chú
trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ cho
vay là để lấy lãi chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để giải
quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ không chỉ quy
định trách nhiệm mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản
lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm quan
trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này-
vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải được quản lý
chặt chẽ. Những khoản viện trợ của nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền
phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ
riêng. Tuy các khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá quan
trọng góp phần giải quyết các vấn đề của đất nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án ngoài ngân
sách và các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân sách để quản lý và chỉ cấp
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 8
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát
bằng ngoại tệ.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp quản lý
nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện trợ, tài trợ của chính
phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh
tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải
chỉ có nợ chính phủ mới nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân

các của nước cũng phải đưa vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả
nền kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên
quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác động đến sự cân bằng của cán cân thanh toán. là
quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong tương lai còn phải vay và
đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý
nghĩa chiến lược to lớn.
1.3.1.c.Thực trạng tác động của tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi
suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng
ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm
tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà
nước phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách về thanh toán
lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kinh
doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu
chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh doanh
trong khi đó ngân sách phải tiếp tục thanh toán lãi suất về huy động tiền gửi. Kinh
nghiệm của một số nước châu á (như Malaixia, Thái lan, Indonexia) cho thấy việc xử
lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ được
biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh xu hướng
nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ USD, và do
đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi
chúng ta cần có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm bảo
cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam cho thấy, tình
hình tài chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có
quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện
tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn
tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có
ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua

nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt vấn đề lựa
chọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu như
không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành của quốc gia.
1.3.1.d.Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết kế chính sách tỷ giá hối đoái nhằm duy trì
sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu bền.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 9
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Bằng cách tăng giá các hàng thương mại hoá dược so với các hàng hoá không thương
mại hoá dược; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các
hàng hoá không thương mại hoá dược, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá
thương mại hoá dược, và do đó giảm bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá
dược (tức là cải thiện được vị thế của cán cân vãng lai). Ngoài tác động của chính sách
chuyển đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối
lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn
giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đối với việc duy trì sức cạnh tranh đối với
bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khởi điểm cân bằng của nó. Bởi vì điểm
cân bằng này được xác định nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác
động của các cơn sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập
đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên
cứu tác động của các cơn sốc bên trong và bên ngoài lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ
tập trung vào chính sách cụ thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp cận
đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh. Nguyên lý
trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá tương
đối giữa một nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là đối với sức mua so sánh
giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ số

thích hợp cho cân bằng tỷ giá giữa các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay
đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao gồm
việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại
lượng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của
nó sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân
bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực như là giá so
sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không mậu dịch hoá dược, nó đưa
ra thước đo các động lực quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng
yếu này của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa so với hàng hoá
không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được phân phối lại sang khu vực hàng
hoá thương mại hoá và cán cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì
điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại
hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng
ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh
toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một
cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tàng lên quan đến biến
động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay
đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng của
tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cẩu
chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan,
thay đổi trong điều hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế) lên
cân bằng của tỷ giá thực.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 10
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động quan trọng
đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao động tăng nhanh hơn trong
khu vực hàng hoá thương mại hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại hoá, thì

giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất của tiền
lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng hoá thương mại hoá thị trường quốc tế quy
định thì tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có
tốc độ tăng năng suất thấp các nước đang phát triển thường chịu các cơn sốc về điều
kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương xấu đi vì sự giảm giá tương đối của
hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên dư thừa cung đối với hàng hoá không thương
mại hoá và dư thừa cầu đối với hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu
đi. Mất cân bằng cán cân vãng lai được điều chỉnh lại qua việc giảm giá tương đối của
hàng hoá không thương mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa từ
hàng hoá không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm thuế nhập khẩu
thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cân bằng. về phương diện định tính thì tác
động của tự do hoá nhập khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương
(do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giảm giá tương đối của hàng
nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với hàng hoá này, và dư thừa cung đối với hàng
hoá xuất khẩu. để đưa về cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương mại
hoá sẽ giảm. Như vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái
thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách, ngay cả khi
thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng
làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu chính phủ cho hướng thành phần chi
tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng như vậy, một
sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác động tới tỷ giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch
chuyển của hành vi đầu tư-tiết kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp
của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân bằng ngân sách tổng thể, nhưng
với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá
hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và thu
của chính phủ quy định.
Một sự tăng lên lãi suất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng của tỷ giá hối
đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới chế độ tỷ giá cố định thì lãi suất trong

nước tăng lên để giữ được mức so sánh với lãi suất quốc tế, do đó làm giảm chênh lệch
giữa đầu tư và tiết kiệm. Một sự cải thiện cán cân vãng lai như vậy sẽ gây nên việc
giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc nước đó là chủ nợ hay con nợ
ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh sự thay đổi tương ứng của sự thay đổi vị
thế chuyển giao các nhân tố thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ giá
thực cân bằng là không rõ ràng, nếu một nước là con nợ lớn. Tác động của lãi suất
quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu chính phủ
làm trung hoà tác động của ngân sách lên sự thay đổi lãi suất bằng cách giảm chi tiêu
hàng hoá thương mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướng giảm trong dài hạn.
mặt khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi suất được tài trợ bằng cách tăng
thuế, hoặc nếu kèm theo việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không thương
mại hoá.
1.3.1.e.Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát,cán cân thanh
toán của quốc gia
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 11

×