NHỮNG NGƢỜI THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn Thị Yến
Bộ môn Luật Thƣơng mại - Khoa Pháp luật Kinh tế
Thƣ ký đề tài:
Ths.NCS Nguyễn Ngọc Anh
Bộ môn Luật Thƣơng mại - Khoa Pháp luật Kinh tế
Các tác giả chuyên đề khoa học
1. PGS.TS. Nguyễn Viết Tý và Ths. Nguyễn Thị Minh Chuyên đề 1
Hà - Khoa Pháp luật Kinh tế
2. TS. Nguyễn Thị Yến và Ths.NCS Nguyễn Ngọc Anh Chuyên đề 2
- Khoa Pháp luật Kinh tế
3. TS. Nguyễn Thị Yến – Khoa Pháp luật Kinh tế và Chuyên đề 3
Ths. Nguyễn Văn Chƣơng – Tòa án nhân dân huyện
Thanh Trì
4. TS. Trần Thị Bảo Ánh và Ths. Nguyễn Thị Minh Hà - Chuyên đề 4
Khoa Pháp luật Kinh tế
5. Ths.NCS Nguyễn Nhƣ Chính và Ths. Nguyễn Thị Chuyên đề 5
Huyền Trang - Khoa Pháp luật Kinh tế
6. Ths. Vũ Thị Hòa Nhƣ và Ths. Lê Ngọc Anh - Khoa Chuyên đề 6
Pháp luật Kinh tế
1
MỤC LỤC
PHẦN 1 - BÁO CÁO TỔNG QUAN
4
PHẦN 2 - CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU
62
Chuyên đề 1: Những vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật về phá sản
63
Chuyên đề 2: Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phá sản – thực tiễn thi
90
hành và kiến nghị hoàn thiện
Chuyên đề 3: Thủ tục nộp, thụ lý đơn, mở thủ tục phá sản, hội nghị chủ nợ
112
trong giải quyết phá sản – Thực tiễn thi hành và kiến nghị hoàn thiện
Chuyên đề 4: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh – Thực tiễn thi hành
133
và kiến nghị hoàn thiện
Chuyên đề 5: Thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã –
157
Thực tiễn thi hành và kiến nghị hoàn thiện
Chuyên đề 6: Thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh
182
nghiệp, hợp tác xã – Thực tiễn thi hành và kiến nghị hoàn thiện
Danh mục tài liệu tham khảo
214
2
PHẦN 1
BÁO CÁO TỔNG QUAN
3
BÁO CÁO TỒNG QUAN
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG
"Thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 và kiến nghị hồn thiện"
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phá sản là hệ quả tất yếu của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị
trƣờng. Khi các doanh nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) không thể cạnh tranh
trên thị trƣờng, các chủ thể này sẽ bị phá sản, chấm dứt hoạt động kinh doanh,
hoàn tất các nghĩa vụ bằng tổng số tài sản cịn lại của mình. Việc phá sản đối
với DN, HTX kéo theo nhiều hệ luỵ, vì có thể DN, HTX đó đã khơng thể
thanh tốn hết các khoản nợ do mình tạo ra, kéo theo sự phá sản tiềm năng
của nhiều doanh nghiệp do không nhận đƣợc hoặc nhận khơng đủ khoản nợ
của mình. Vì thế, Luật Phá sản (LPS) của Việt Nam từ khi ban hành đã có
nhiều quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ,
ngƣời lao động và các chủ thể có liên quan. Cũng vì lẽ đó, việc nghiên cứu
các quy định của LPS, về thực tiễn thực thi LPS từ khi Luật ra đời đến nay
ln là vấn đề thời sự, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Với bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu đề tài xuất phát từ một số lý do
cấp thiết sau:
Một là: Xuất phát từ bối cảnh thực tiễn hiện nay của Việt Nam
Bối cảnh và điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trƣờng đầy cơ hội
nhƣng cũng khơng ít những thách thức. Hoạt động cạnh tranh khốc liệt giữa
các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập tất yếu dẫn đến hậu quả những doanh
nghiệp không đủ năng lực sẽ bị đào thải khỏi thị trƣờng. Mặc dù LPS đã đƣợc
xây dựng và ban hành từ năm 1993, nhƣng có thể đánh giá một cách khái quát
rằng, cho đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ DN, HTX bị yêu cầu mở thủ tục phá
sản còn ít, chƣa phản ánh đúng thực trạng tài chính thực tế của các chủ thể
kinh doanh. Tình trạng nhiều doanh nghiệp thua lỗ nhƣng không đƣợc xử lý
4
bằng thủ tục phá sản mà lại xử lý bằng thủ tục thu hồi nợ dân sự, thủ tục hành
chính và các thủ tục khác vẫn còn phổ biến1.
Theo kết quả công bố trong Doing Business 2008, về thủ tục chấm dứt
hoạt động kinh doanh (trong đó có thủ tục phá sản), Việt Nam xếp thứ 124
trên tổng số 178 nền kinh tế thế giới; thủ tục phá sản vẫn bị coi là kéo dài
(trung bình là 05 năm), hiệu quả thu hồi nợ thấp (thông thƣờng chủ nợ chỉ thu
hồi khoảng 18% số nợ)2. Điều đó có nghĩa rằng, mục đích hỗ trợ các DN,
HTX chƣa đạt đƣợc những kết quả và ý nghĩa trên thực tế.
Hai là: Xuất phát từ bối cảnh thực trạng pháp luật về phá sản
Có thể nói, mặc dù các chế định liên quan đến phá sản đã xuất hiện từ
khá sớm tại Việt Nam trong các đạo luật cổ3, nhƣng hệ thống pháp luật về phá
sản của Việt Nam hình thành và phát triển muộn hơn so với các nƣớc khác.
Phải đến đầu những năm 1990, khi các chế định pháp lý về doanh nghiệp, đầu
tƣ, kinh doanh đƣợc hình thành cơ bản thì đến năm 1993, chế định về phá sản
mới đƣợc hình thành. Tuy nhiên luật này đƣợc xây dựng trong điều kiện nƣớc
ta mới chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế thị trƣờng nên bộc lộ nhiều bất cập,
không phù hợp với thực tế khách quan. Khắc phục tình trạng đó, LPS năm
2004 ra đời. Sau một thời gian áp dụng, LPS năm 2004 cũng thể hiện nhiều
điểm chƣa phù hợp với thực trạng nền kinh tế. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 7, Quốc
hội XIII, LPS năm 2014 đã chính thức đƣợc thơng qua ngày 19/06/2014 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015, thay thế cho LPS năm 2004. Đây có
thể coi là bƣớc tiến đáng kể của Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật, cải
thiện môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng doanh
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ƣơng (2014), Đặc san tuyên truyền pháp
luật, Chủ đề Pháp luật phá sản tại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 2014,
trang 28.
2
Bộ Tƣ pháp, Trung tâm tƣ vấn pháp luật và bồi dƣỡng nghiệp vụ, GTZ (MPI-GTZ SME
DEVELOPMENT PROGRAM) (2008), Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hồn thiện mơi
trường pháp luật về kinh doanh tại Việt Nam, trang 27.
3
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ƣơng (2014), Đặc san tuyên truyền pháp
luật, Chủ đề Pháp luật phá sản tại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, trang
12,13.
1
5
nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết. LPS năm 2014 là
văn bản luật hoàn chỉnh và đầy đủ nhất trong việc giải quyết các vấn đề phá
sản của doanh nghiệp4. Tuy nhiên, LPS năm 2014 vẫn chƣa tạo ra "lá chắn an
toàn" cho các nhà kinh doanh, chƣa phải là sự lựa chọn tốt nhất cho các chủ
thể bị xâm phạm về quyền lợi khi DN, HTX mất khả năng thanh toán. Do
vậy, nghiên cứu về phá sản, pháp luật phá sản và thực tiễn thi hành LPS từ khi
đƣợc ban hành, nhất là đối với LPS hiện hành nhằm đánh giá những mặt ƣu
điểm cũng nhƣ những hạn chế, tồn tại của pháp luật phá sản trong quá trình
triển khai trên thực tiễn là cơng trình nghiên cứu cần thiết, có ý nghĩa thời sự
trong bối cảnh hiện nay.
Ba là: Xuất phát từ nhu cầu của đào tạo của Trường
Hiện nay, trong chƣơng trình đào tạo cử nhân chất lƣợng cao của trƣờng
Đại học Luật Hà Nội, cụ thể là môn học Luật Phá sản và giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh, chế định phá sản là một nội dung chính để giảng dạy và nội
dung này đang thu hút sự quan tâm nhiều sinh viên khi họ mong muốn đƣợc
lựa chọn đề tài này để học tập, nghiên cứu. Hơn thế nữa, pháp luật về phá sản
đang đƣợc triển khai giảng dạy với tƣ cách là một vấn đề trong Luật Thƣơng
mại 1 - mơn học bắt buộc của hệ đào tạo chính quy, vừa làm vừa học, liên
thông. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài là cơ sở lý luận, học thuật quan trọng; là
tài liệu để giảng viên, học viên, sinh viên nghiên cứu, học tập – bổ sung
nguồn học liệu cho môn học Luật Thƣơng mại; là tài liệu hữu ích cho những
ngƣời làm thực tiễn; là cơng trình nghiên cứu góp phần thiết thực cho cơng
tác lập pháp trong bối cảnh đề tài này hiện còn rất mới trong giới luật học
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
LPS năm 2014 mới có hiệu lực thi hành đƣợc hơn 03 năm. Các cơng
trình nghiên cứu về thực tiễn thi hành LPS một cách tồn diện chƣa có. Một
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ƣơng (2014), Đặc san tuyên truyền pháp
luật, Chủ đề Pháp luật phá sản tại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, trang 22.
4
6
số cơng trình nghiên cứu trong nƣớc đã triển khai nghiên cứu về khía cạnh
thực tiễn thi hành LPS năm 2014 nhƣng mới chỉ dừng lại ở một vài vấn đề cụ
thể nhƣ thi hành án, hành nghề quản lý, thanh lý tài sản… Có thể kể đến một
số cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nƣớc liên quan đến đề tài nghiên cứu
khoa học nhƣ sau:
2.1. Tài liệu tiếng Việt
- Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Trung tâm
nghiên cứu khoa học (10/2013), Chuyên đề nghiên cứu: Kinh nghiệm nước
ngoài về phá sản doanh nghiệp, Hà Nội:
Cơng trình đề cập đến hai nội dung cơ bản là khái quát chung về pháp
luật phá sản ở các nƣớc, một số bài học kinh nghiệm nƣớc ngoài về pháp luật
phá sản cho Việt Nam. Cơng trình đã giới thiệu chung về pháp luật phá sản
các nƣớc theo chủ đề: thứ nhất, tên gọi và phạm vi điều chỉnh; Thứ hai, tiêu
chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; Thứ ba, cơ quan
có thẩm quyền giải quyết phá sản và mục đích của việc tiến hành thủ tục giải
quyết phá sản; Thứ tư, chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
Thứ năm, thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lý; Thứ sáu, ngƣời quản lý, thanh
lý tài sản.
- Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ƣơng, Đặc san
tuyên truyền pháp luật (số 9/2014), Chủ đề Pháp luật phá sản tại Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội:
Cơng trình có đề cập đến ba nội dung quan trọng liên quan đến đề tài
nghiên cứu khoa học này: Thứ nhất, cơng trình có nêu về tình hình thực hiện
LPS năm 1993 và LPS năm 2004 tại Việt Nam, đi kèm là những minh chứng
và số liệu rất cụ thể; Thứ hai, giới thiệu chi tiết về LPS năm 2014; Thứ ba,
giới thiệu pháp luật về phá sản một số nƣớc trên thế giới nhƣ Nhật Bản, Hàn
Quốc, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Đài Loan, Pháp, Nga.
7
- Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), “Pháp luật về phá sản doanh nghiệp
có yếu tố nước ngồi: Kinh nghiệm nước ngoài và những gợi ý đối với Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật:
Luận văn trình bày về thực trạng pháp luật về phá sản doanh nghiệp có
yếu tố nƣớc ngồi của Việt Nam trên những vấn đề lớn nhƣ: quy định về việc
mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi; trình tự thủ tục tiến
hành phá sản doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi. Đồng thời luận văn đã nêu
kinh nghiệm giải quyết phá sản có yếu tố nƣớc ngoài tại một số quốc gia nhƣ
Pháp, các nƣớc thuộc Liên minh Châu Âu (trừ Đan Mạch), Luật mẫu về tình
trạng mất khả năng thanh tốn có yếu tố nƣớc ngoài theo Ủy ban của Liên
Hợp quốc về Luật Thƣơng mại Quốc tế soạn thảo và thông qua.
Luận văn cũng kiến nghị sửa đổi Luật Phá sản năm 2014 theo những vấn
đề cụ thể: trách nhiệm của ngƣời quản lý doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi
lâm vào tình trạng phá sản; cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải
quyết thủ tục phá sản có yếu tố nƣớc ngồi; việc thực hiện quản lý tài sản của
doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi trong q trình giải quyết phá sản; hồn
thiện quy định về đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm đối với
doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi; hƣớng dẫn về xử lý tài sản đƣợc cầm cố,
thế chấp của doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi; hƣớng dẫn về xử lý quyền
sử dụng đất của doanh nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi lâm vào tình trạng phá
sản.
- Dƣơng Kim Thế Nguyên (2015), “Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng
theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh:
Luận án đã phân tích thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về thủ
tục phá sản tổ chức tính dụng, cụ thể về vấn đề: kiểm soát đặc biệt với tính
chất là thủ tục phục hồi đối với tổ chức tín dụng mất khả năng thanh tốn, mất
khả năng chi trả; các quy định đặc thù trong thủ tục phá sản tổ chức tín dụng
tại Tịa án ở Việt Nam hiện nay. Luận án kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
8
thủ tục phá sản tổ chức tín dụng ở Việt Nam: hồn thiện mơ hình và cấu trúc
của pháp luật về thủ tục phá sản tổ chức tín dụng; hồn thiện các quy định
liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp can thiệp với tổ chức tín dụng
mất khả năng thanh tốn nhằm hạn chế phá sản; hồn thiện các quy định về
thủ tục xử lý phá sản tại tịa án. Bên cạnh đó, luận án kiến nghị nâng cao các
điều kiện để đảm bảo thực hiện pháp luật về thủ tục phá sản tổ chức tín dụng
ở Viêt Nam nhƣ: điều kiện về nhận thức của cộng đồng, năng lực giải quyết
phá sản của đội ngũ cán bộ tham gia xử lý phá sản, đội ngũ quản tài viên và
doanh nghiệp quản lý tài sản, hoạt động giám sát hỗ trợ của Ngân hàng nhà
nƣớc Việt Nam, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
- Vũ Thị Tâm Hồng, “Những bất cập trong thi hành Luật Phá sản 2014
nhìn từ góc độ thi hành án”, đăng trên Cổng thơng tin điện tử Tổng cục Thi
hành án Dân sự - Bộ Tƣ pháp, 7/12/2016:
Bài nghiên cứu đã chỉ ra 02 điểm mới quan trọng liên quan đến thi hành
án của LPS năm 2014 so với LPS năm 2004. Bên cạnh đó bài nghiên cứu
cũng nêu bất cập, hạn chế liên quan đến việc thi hành án quyết định tuyên bố
phá sản khi thực hiện các quy định của LPS năm 2014. Cụ thể là: Thứ nhất,
về thời hạn ra quyết định thi hành án; Thứ hai, vấn đề chủ nợ có đƣợc hƣởng
các quyền thi hành án hay khơng và Chấp hành viên có phải thực hiện việc
thơng báo các quyết định về thi hành án và các văn bản liên quan đến việc thi
hành án cho chủ nợ hay không; Thứ ba, thẩm quyền của Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong việc định giá; Thứ tư, các trƣờng hợp
định giá lại; Thứ năm, bán đấu giá tài sản; Thứ sáu, trình tự thủ tục khi Chấp
hành viên thực hiện việc thanh lý tài sản; Thứ bảy,chi phí thực hiện phá sản.
Cuối nội dung bài nghiên cứu, tác giả đề xuất Tòa án nhân dân tối cao cần
phối hợp với Bộ Tƣ pháp sớm ban hành Thông tƣ liên tịch để hƣớng dẫn các
quy định liên quan đến thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
- Văn Thị Tâm Hồng, “Một số khó khăn, vướng mắc khi Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án đang phải thi
9
hành án cho các tổ chức tín dụng”, bài viết đƣợc đăng trên cổng thông tin
điện tử Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tƣ pháp, ngày 27/02/2017:
Công trình nghiên cứu chỉ ra rằng, theo quy định của LPS năm 2014 và
Điều 49 Luật Thi hành án dân sự, nếu ngƣời phải thi hành án là DN, HTX bị
Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, cơ quan thi hành án dân sự phải ra
quyết định đình chỉ thi hành án và chuyển hồ sơ vụ việc thi hành án cho Tòa
án nơi tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết. Việc đình chỉ thi hành án đối
với các vụ việc thi hành án cho các tổ chức tín dụng trong trƣờng hợp này dẫn
đến hệ lụy nhƣ sau: Thứ nhất, kéo dài thời gian xử lý tài sản; Thứ hai, tăng
chi phí để xử lý tài sản; Thứ ba, LPS chƣa có quy định rõ ràng trong trƣờng
hợp tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng là của bên thứ 3 thì xử lý nhƣ thế
nào để không làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của các tổ chức tín dụng.
Cơng trình nghiên cứu kiến nghị Bộ Tƣ pháp và Tòa án nhân dân tối cao
nghiên cứu và sớm có hƣớng dẫn chỉ đạo việc thi hành án đối với các vụ việc
ngƣời phải thi hành án là DN, HTX mất khả năng thanh toán và ngƣời đƣợc
thi hành án là các tổ chức tín dụng khi Tịa án thụ lý, mở thủ tục tuyên bố phá
sản đối với DN, HTX mất khả năng thanh toán cũng nhƣ cần tách bạch việc
giải quyết phá sản đối với ngƣời phải thi hành án và tiếp tục xử lý tài sản của
ngƣời thứ ba để bảo đảm thi hành án. Ngồi ra, cơng trình kiến nghị sớm ban
hành Luật hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu.
- Ths. Nguyễn Thị Dung, “Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam
– Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, đăng trên cổng thông tin điện tử Viện
Nghiên cứu lập pháp, ngày 29/6/2017:
Cơng trình đã chỉ ra rằng trong thực tiễn thi hành thời gian qua, LPS năm
2014 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định, đặc biệt là các vấn đề liên
quan đến việc thống nhất giữa các luật. Cụ thể: Thứ nhất, về thời hạn ra quyết
định thi hành án; Thứ hai, vấn đề “chủ nợ” có đƣợc hƣởng các quyền của
ngƣời đƣợc thi hành án hay khơng và chấp hành viên có phải thực hiện nghĩa
vụ thông báo quyết định về thi hành án và văn bản khác liên quan đến việc thi
10
hành án cho chủ nợ hay không chƣa đƣợc làm rõ; Thứ ba, thẩm quyền của
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong việc định giá; Thứ
tư, các trƣờng hợp định giá lại; Thứ năm, bán đấu giá tài sản; Thứ sáu, trình tự
thủ tục khi Chấp hành viên thực hiện việc thanh lý tài sản; Thứ bảy, chi phí
thực hiện phá sản.
Bên cạnh đó, cơng trình đã nêu một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật về phá sản hiện nay ở Việt Nam: Thứ nhất, sớm ban hành Thơng tƣ liên
tịch do Tịa án nhân dân tối cao và Bộ Tƣ pháp phối hợp xây dựng để hƣớng
dẫn; Thứ hai, cho phép sử dụng án lệ trong giải quyết phá sản; Thứ ba, bổ
sung tài sản, quyền tài sản thu đƣợc từ giao dịch vơ hiệu, tài sản mới có thể
phát sinh trong q trình kinh doanh sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản… vào danh mục tài sản phá sản theo quy định LPS năm 2014; Thứ tư, có
kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Thƣ
ký Tòa án, Quản tài viên; tuyên truyền phổ biến pháp luật đến ngƣời dân, DN,
HTX trong cả nƣớc.
- Nguyễn Đình Tiến, Phó Chánh tịa Tịa Kinh tế Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội, “Thực tiễn thi hành các quyết định của Luật Phá sản liên quan
đến Thẩm phán và Quản tài viên, công ty quản lý thanh lý tài sản”, Tài liệu
Toạ đàm về hành nghề quản lý thanh lý tài sản, Hà Nội, ngày 18/05/20185
Tài liệu chỉ ra một số vƣớng mắc liên quan đến hoạt động nghiệp vụ của
thẩm phán và quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản về: Thứ
nhất, chi phí phá sản và tài khoản nộp tạm ứng chi phí phá sản; Thứ hai, khái
niệm “khoản nợ”; Thứ ba, luật phá sản chƣa có quy định về thủ tục giải quyết
án phá sản trong trƣờng hợp vắng mặt ngƣời đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp; Thứ tư, về tài liệu nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; Thứ
năm, về chế định quản tài viên; Thứ sáu, về trƣờng hợp chủ nợ, con nợ ở
nƣớc ngoài.
5
Bộ Tƣ pháp (2018), Tọa đàm về hành nghề quản lý thanh lý tài sản, Hà Nội ngày 18/05/2018
11
- Ths Quản Văn Minh, Công ty quản lý & Thanh lý tài sản số 5 – Quốc
gia, “Thực tiễn và vướng mắc của Quản tài viên trong quá trình hoạt động
hành nghề”, đăng trên Cổng thông tin điện tử Tạp chí Dân chủ và Pháp luật:
Bài nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn, vƣớng mặc của hoạt động
hành nghề của Quản tài viên trên thực tế: Thứ nhất, trong giai đoạn tiếp nhận
vụ việc phá sản; Thứ hai, công việc của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài
sản sau khi nhận chỉ định tham gia vụ việc phá sản đến khi Tòa án tuyên bố
doanh nghiệp phá sản; Thứ ba, công việc của doanh nghiệp quản lý và thanh
lý tài sản sau khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản đến khi định giá, bán
tài sản; Thứ tư, về lệ phí phá sản và chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản; Thứ năm, việc thực thi thời hiệu trong LPS năm 2014 của
các chủ nợ, ngƣời mắc nợ và các bên liên quan có yếu tố nƣớc ngồi; Thứ
sáu, vấn đề cung cấp tài liệu, chứng cứ của ngƣời tham gia thủ tục phá sản và
của cá nhân, tổ chức liên quan.
2.2. Tài liệu tiếng Anh
- Donald R.Korobkin (1991), “Rehabilitating Values: A Jurisprudence of
Bankruptcy”, Columbia Law Review Association, Inc:
Bài nghiên cứu nói về các giá trị phục hồi – một vấn đề pháp lý về phá
sản với ba nội dung lớn: (i) Nghiên cứu logic và giới hạn của hạch toán kinh
tế, trong đó đề cập đến các vấn đề cụ thể: thứ nhất, bức tranh kinh tế của vấn
đề thu nợ; thứ hai, sự thất bại của hạch toán kinh tế; thứ ba, sự khác biệt của
LPS theo hạch toán kinh tế; thứ tư, sự bình đẳng của việc phân phối và mặc
cả của chủ nợ; (ii) Nghiên cứu về tổ chức lại và phục hồi doanh nghiệp; (iii)
Nghiên cứu về hạch toán dựa trên giá trị của LPS: đƣa ra khái niệm “sự túng
quẫn về tài chính”, sự khác biệt của LPS theo hạch toán dựa trên giá trị, cấu
trúc cơ bản của cuộc thoả thuận phá sản, khái niệm phục hồi, bối cảnh cuộc
thoả thuận về phá sản.
- Elizabeth Warren (1993), "Bankruptcy Policymaking in an Imperfect
World", The Michigan Law Review Association:
12
Bài viết khẳng định cả hai văn bản pháp luật là LPS liên bang và Luật
chủ nợ - con nợ của bang xác định các nguyên tắc thu nợ, nhƣng mục tiêu của
cả hai hệ thống khác nhau rõ rệt, dẫn đến các quy tắc áp dụng rất khác nhau
trong mỗi hệ thống. Tại thời điểm nghiên cứu, luật thu thuế và LPS liên bang
cùng nhau tạo thành một hệ thống đặc biệt, linh hoạt. Để khuyến khích các
chủ nợ làm việc với các con nợ và tránh việc luật bang thu hồi tài sản làm
lãng phí tài sản và đẩy con nợ đến phá sản, LPS đƣợc thiết kế để không công
nhận việc chủ nợ dùng mọi cách để thu hồi nợ. Thay vào đó, hệ thống thu nợ
và phá sản của bang cung cấp các quy tắc chính thức, thay thế để xử lý thu nợ.
- Vannessa Fine (2009), Corprate Insolvency Law: Perspectives and
Principles, CamBridge University Press:
Bài nghiên cứu gồm 5 nội dung lớn: Thứ nhất, chƣơng trình nghị sự và
mục tiêu; Thứ hai, bối cảnh của LPS doanh nghiệp: tài chính và thể chế; Thứ
ba, sự điều tra về vòng xoay; Thứ tư, thu thập và phân phối tài sản; Thứ năm,
tác động của phá sản doanh nghiệp...
Qua việc tìm kiếm và tham khảo nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình
đánh giá tình hình nghiên cứu, có thể thấy những cơng trình nghiên cứu cụ thể
về thực tiễn thi hành LPS tập trung ở một vài lĩnh vực cụ thể nhƣ doanh
nghiệp có yếu tố nƣớc ngồi, tổ chức tín dụng, thi hành án, hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản. Số lƣợng cơng trình nghiên cứu trong nƣớc về thực tiễn thi
hành LPS năm 2014 mang tính tồn diện và ở quy mơ lớn là chƣa có. Các
cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Anh đƣợc thực hiện từ cách đây rất lâu, chủ
yếu mang tính lý luận kinh điển với các vấn đề giá trị phục hồi, tổ chức lại
doanh nghiệp, chính sách phá sản chung và gắn liền với pháp luật các nƣớc.
Chƣa có một cơng trình nghiên cứu bằng tiếng nƣớc ngồi nào về thực tiễn thi
hành LPS năm 2014.
Đề tài "Thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 và kiến nghị hồn
thiện" là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên về thực tiễn thi
hành LPS năm 2014 một cách tồn diện và đầy đủ. Dựa trên những cơng bố
13
khoa học trƣớc đó, đề tài tiếp tục nghiên cứu thủ tục phá sản trên cơ sở quy
định pháp luật và đánh giá thực tiễn thi hành. Với cơng trình nghiên cứu này,
các tác giả đã làm rõ lý luận về phá sản và pháp luật phá sản; những quy định
về thủ tục phá sản; phân tích những bất cập, vƣớng mắc của các quy định
pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn; tham khảo kinh nghiệm của một quốc gia
trên thế giới để đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục
phá sản tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hoàn thiện pháp luật phá sản trên cơ
sở nghiên cứu, phân tích những tồn tại, bất cập của pháp luật phá sản hiện
hành khi áp dụng vào thực tiễn để từ đó tăng tính hiệu quả của hoạt động thực
thi pháp luật về phá sản tại Việt Nam. Đây là mục đích quan trọng của đề tài
trong bối cảnh các cơng trình nghiên cứu khoa học đã cơng bố về phá sản tại
Việt Nam cịn hạn chế về góc độ áp dụng vào thực tiễn và chủ yếu nghiên cứu
các văn bản pháp luật trƣớc đây mà không phải LPS hiện hành.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ lý luận về phá sản và pháp luật phá sản đối
với DN, HTX.
Thứ hai nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật phá sản nhƣ:
chủ thể tham gia, thủ tục phá sản
Thứ ba, nghiên cứu đánh giá thực tiễn thi hành LPS năm 2014 gắn với
những nội dung cơ bản nhƣ chủ thể tham gia, thủ tục phá sản.
Thứ tư, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về việc điều chỉnh pháp luật đối
với quan hệ phá sản, từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam
trong quá trình xây dựng và áp dùng pháp luật phá sản ở nƣớc ta.
Thứ năm, nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng, điều kiện thực tế của các chủ
thể trong quan hệ pháp luật phá sản để đề xuất những giải pháp nhằm triển
khai hiệu quả LPS trong giai đoạn tới.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
14
- Về không gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu quy định pháp luật về thủ tục
phá sản và thực tiễn thi hành pháp luật về thủ tục phá sản ở Việt Nam, mà chủ
yếu là thực tiễn giải quyết phá sản của Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành
phố Hà Nội – một trong hai địa phƣơng giải quyết các vụ việc phá sản nhiều
nhất cả nƣớc; có tham khảo pháp luật một số nƣớc với mục đích hoàn thiện
quy định pháp luật về thủ tục phá sản ở Việt Nam.
- Về thời gian: chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn
thi hành các quy định pháp luật phá sản từ khi LPS năm 2014 có hiệu lực, có
tìm hiểu khái qt các quy định pháp luật trƣớc đây để làm rõ pháp luật điều
chỉnh về phá sản
- Về đối tƣợng: chủ yếu nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật phá sản,
trọng tâm là LPS năm 2014 đối với DN, HTX.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc, pháp luật và quan điểm, đƣờng lối
của Đảng, Nhà nƣớc về các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trƣờng ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng phù hợp với
từng nội dung nghiên cứu, nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
logic, lịch sử, so sánh, đối chiếu, khảo sát thực tiễn... nhằm làm sáng tỏ các
vấn đề nghiên cứu. Cụ thể: phƣơng pháp khảo sát thực tiễn, thống kê đƣợc sử
dụng để nắm bắt chính xác các vụ việc phá sản trên thực tiễn; phƣơng pháp
logic, lịch sử, so sánh, đối chiếu đƣợc sử dụng để đánh giá toàn diện thực tiễn
thi hành LPS năm 2014; phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng
xuyên suốt trong tồn bộ nội dung cơng trình nghiên cứu nhằm mục đích tìm
ra bất cập, hạn chế cũng nhƣ nguyên nhân để có thể đƣa ra những giải pháp
kiến nghị phù hợp, xác đáng.
7. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài là cơng trình đầu tiên hệ thống hoá LPS năm 2014 nghiên cứu
tổng thể về lý luận, quy định pháp luật, về thủ tục phá sản, thực tiễn thi hành.
15
- Trên cơ sở học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đề tài
là cơng trình đầu tiên phân tích cụ thể những bất cập của hệ thống pháp luật
hiện hành của LPS năm 2014 khi áp dụng vào thực tiễn và đề xuất những giải
pháp có giá trị tham khảo tốt để hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam.
8. Giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài là học liệu đáng tin cậy đối với ngƣời học, là
giáo cụ hữu ích đối với ngƣời dạy, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
ngƣời nghiên cứu pháp luật về phá sản nói chung và LPS năm 2014 nói riêng.
16
PHẦN NỘI DUNG
1. Nội dung chủ yếu thi hành pháp luật phá sản ở Việt Nam
1.1. Quy định về các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phá sản
1.1.1. Các chủ thể tham gia thủ tục phá sản
Thứ nhất, chủ nợ
Theo điều 4 LPS năm 2014, chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền yêu cầu DN, HTX thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm
chủ nợ khơng có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo
đảm. Tuy nhiên, chỉ các chủ nợ khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một
phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi DN, HTX khơng
thực hiện nghĩa vụ thanh tốn, cịn chủ nợ có bảo đảm thì khơng có quyền nộp
đơn.
Để đƣợc cơng nhận tƣ cách pháp lý, các chủ nợ cần phải cung cấp đầy
đủ các tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh đƣợc khoản nợ mà DN,
HTX chƣa thanh toán cho mình. Những chủ nợ thực hiện đầy đủ việc gửi giấy
địi nợ sẽ có tên trong danh sách chủ nợ và sẽ đƣợc pháp luật phá sản bảo vệ.
Bên cạnh đó, các chủ nợ có quyền yêu cầu TAND có thẩm quyền tiến hành
thủ tục phá sản ra quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời để bảo toàn tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán. Sau khi
mở thủ tục phá sản, các chủ nợ có quyền tham gia hội nghị chủ nợ để tìm
đƣợc tiếng nói chung đối với DN, HTX mất khả năng thanh toán. Trong hội
nghị chủ nợ, chủ nợ là những ngƣời trực tiếp quyết định DN, HTX đƣợc áp
dụng thủ tục phục hồi hay bị tuyên bố phá sản. Nếu hội nghị chủ nợ thông qua
phƣơng án phục hồi của DN, HTX mất khả năng thanh tốn, trong tƣơng lai,
những chủ nợ này cũng có quyền đƣợc giám sát trực tiếp hoạt động của DN,
HTX trong giai đoạn phục hồi. Pháp luật phá sản Việt Nam đƣa ra những quy
định chi tiết liên quan đến việc thanh lý tài sản của DN, HTX bị tuyên bố phá
sản để thanh tốn các khoản nợ cịn tồn đọng cho chủ nợ. Tuy thủ tục xử lý
các khoản nợ cho các loại chủ nợ có phần khác nhau nhƣng nhìn chung,
17
quyền lợi của tất cả các loại chủ nợ đều đƣợc thanh tốn bằng tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ.
Ngồi các quy định về quyền và nghĩa vụ trên, chủ nợ là một chủ thể
tham gia thủ tục phá sản nên có những quyền và nghĩa vụ khác quy định tại
điều 18 và điều 19 LPS 2014 nhƣ: quyền tham gia vào việc quản lý, thanh lý
tài sản; quyền đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành thủ tục phá sản; nghĩa vụ nộp
lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản…
Thứ hai, người lao động
LPS năm 2014 quy định, ngƣời lao động có quyền tự mình nộp đơn mà
khơng cần phải thông qua ngƣời đại diện. Sự thay đổi này đã khiến ngƣời lao
động chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình khi DN, HTX khơng
thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong thời gian pháp luật quy định.
Có thể nói, quyền và lợi ích trực tiếp nhất của ngƣời lao động bị xâm
hại chính là tiền lƣơng. Vì vậy, xuyên suốt các quy phạm pháp luật phá sản,
các nhà làm luật luôn đặt ra trƣờng hợp ƣu tiên cho phép DN, HTX mất khả
năng thanh toán trả lƣơng cho ngƣời lao động. Chẳng hạn, khi mở thủ tục phá
sản, mọi giao dịch đều bị tạm đình chỉ để nhằm đảm bảo nguyên trạng tài sản
của DN, HTX; tuy nhiên, có ngoại lệ đối với bản án, quyết định buộc DN,
HTX mất khả năng thanh toán bồi thƣờng về tính mạng, sức khỏe, danh dự
hoặc trả lƣơng cho ngƣời lao động. Không chỉ vậy, trong thứ tự phân chia tài
sản sau khi có quyết định tuyên bố phá sản, các khoản nợ lƣơng, trợ cấp thôi
việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, quyền và lợi ích hợp pháp khác của
ngƣời lao động theo hợp đồng lao động và thoả ƣớc lao động tập thể đã ký kết
là ƣu tiên thứ hai, chỉ sau chi phí phá sản. Ngồi ra, ngƣời lao động cịn có
một số quyền khác giống với các chủ nợ nhƣ: quyền tham gia hội nghị chủ
nợ; quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhƣ buộc
ngƣời sử dụng lao động tạm ứng tiền lƣơng, tiền công, tiền bồi thƣờng, trợ
cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho ngƣời lao động…
Thứ ba, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
18
Quy định hiện hành không yêu cầu xác định hay phải có căn cứ chứng
minh DN, HTX khơng có khả năng thanh tốn mà chỉ cần xác định DN, HTX
có khoản nợ quá hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thanh tốn thì mất khả năng
thanh tốn. Bên cạnh đó, LPS 2014 cũng khơng quy định giới hạn các khoản
nợ, vì thế có thể hiểu là khi DN, HTX nợ bất kì khoản nợ nào, cho dù là nợ
lƣơng, nợ thuế, nợ bảo hiểm xã hội… chủ nợ đều có quyền yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với DN, HTX đó. Đồng thời, thời hạn phải thanh tốn là 3
tháng giúp các DN, HTX chƣa có khả năng thanh tốn có thể tìm đƣợc các
phƣơng án khác để thanh toán nợ đến hạn trƣớc khi bị coi mất khả năng thanh
toán.
Về nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các chủ thể bao gồm:
ngƣời đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp tƣ nhân, Chủ tịch Hội đồng
quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên, thành viên hợp danh của cơng ty hợp danh có nghĩa vụ nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn.
DN, HTX là chủ thể có trách nhiệm xây dựng phƣơng án phục hồi hoạt
động kinh doanh cũng nhƣ có nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia hội nghị chủ
nợ. Nếu DN, HTX mất khả năng thanh tốn khơng thực hiện đƣợc cả hai
nghĩa vụ này, DN, HTX đó sẽ bị tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọn. Đồng
thời, để đảm bảo lợi ích cho các chủ nợ, ngƣời lao động; DN, HTX mất khả
năng thanh toán cần phải giữ nguyên hiện trạng của tài sản DN, HTX, không
đƣợc thực hiện các hành vi nhằm tẩu tán tài sản.
Thứ tư, cổ đơng, nhóm cổ đông, thành viên hợp tác xã hoặc hợp tác xã
thành viên của liên hiệp hợp tác xã
LPS năm 2004 giới hạn chỉ có cổ đơng, nhóm cổ đơng sở hữu từ 20%
cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng mới có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng
thanh toán. LPS năm 2014 đã bổ sung, cho phép cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng
19
sở hữu dƣới 20% số cổ phần phố thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng
cũng có quyền nộp đơn nếu điều lệ cơng ty có quy định.
Thành viên HTX hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của HTX thành
viên của liên hiệp HTX có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi
HTX, liên hiệp HTX mất khả năng thanh toán. Các chủ thể này mới đƣợc bổ
sung tại LPS năm 2014 nhằm đảm bảo quyền lợi cho mọi chủ thể liên quan
khi HTX hoặc liên hiệp HTX mất khả năng thanh toán.
1.1.2. Các chủ thể tiến hành thủ tục phá sản
Thứ nhất, Chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đƣợc đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, Chánh án TAND phân công một Thẩm phán hoặc tổ Thẩm
phán gồm 3 Thẩm phán để giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Việc
thay đổi Thẩm phán do Chánh án TAND quyết định. Với trƣờng hợp Thẩm
phán phụ trách việc phá sản là Chánh án thì việc thay đổi Thẩm phán do
TAND cấp trên trực tiếp quyết định. Quyết định thay đổi Thẩm phán của
Chánh án là quyết định cuối cùng. Khi tiến hành thủ tục phá sản, Thẩm phán
có một số quyền hạn, nhiệm vụ theo quy định của điều 9 LPS 2014. Bên cạnh
đó, Thẩm phán phải từ chối tham gia giải quyết phá sản hoặc bị thay đổi trong
những trƣờng hợp khơng đảm bảo đƣợc tính minh bạch, cơng bằng và vơ tƣ
trong q trình giải quyết vụ việc.
Thứ hai, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên
Theo LPS năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân có các quyền sau trong
giải quyết phá sản: quyền kiến nghị, quyền kháng nghị, quyền tham gia các
phiên họp xem xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân6.
Thứ ba, Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
LPS năm 2014 đã thay thế Tổ quản lý, thanh lý tài sản bằng Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Trong quá trình giải quyết phá
6
/>
20
sản, Quản tài viên đóng vai trị là thiết chế vừa đại diện cho chủ nợ, vừa đại
diện cho con nợ và đại diện cho Nhà nƣớc. Các nghĩa vụ của Quản tài viên
đƣợc quy định tại điều 7 NĐ22/2015/NĐ-CP.
Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là doanh nghiệp hành nghề quản
lý, thanh lý tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh tốn trong q trình giải
quyết phá sản. Hiện nay, pháp luật phá sản Việt Nam chỉ quy định hai loại
hình doanh nghiệp đƣợc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình
giải quyết phá sản là công ty hợp danh và doanh nghiệp tƣ nhân. Doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có những nghĩa vụ theo điều 13
NĐ22/2015/NĐ-CP.
Thứ tư, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sư, Chấp hành viên trong
quá trình giải quyết phá sản.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự đƣợc quy định tại
điều 17 LPS năm 2014. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ trƣởng cơ quan
thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong quá trình giải quyết phá sản cũng
đƣợc quy định chi tiết trong LPS năm 2014. Vai trò của Chấp hành viên, Thủ
trƣởng cơ quan thi hành án dân sự đã đƣợc quy định cụ thể tại khoản 4 điều
121 Luật này nhằm nâng cao vai trò của hai chủ thể này trong việc thực hiện
giải quyết vụ việc phá sản trên thực tế.
1.2. Quy định về thủ tục nộp, thụ lý đơn, mở thủ tục phá sản, hội
nghị chủ nợ trong giải quyết phá sản
Bước 1: Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Thứ nhất, những chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
gồm:
Một là: Chủ nợ khơng có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần: có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày
khoản nợ đến hạn mà DN, HTX khơng thực hiện nghĩa vụ thanh tốn. Chủ nợ
có bảo đảm khơng có quyền nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản đối với DN,
HTX.
21
Hai là: Ngƣời lao động, cơng đồn cơ sở, cơng đoàn cấp trên trực tiếp
cơ sở ở những nơi chƣa thành lập cơng đồn cơ sở: có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa
vụ trả lƣơng, các khoản nợ khác đến hạn đối với ngƣời lao động mà DN, HTX
không thực hiện nghĩa vụ thanh tốn.
Ba là: Cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ 20% số cổ phần phổ
thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng: có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán. LPS
2014 bổ sung trƣờng hợp cho phép các cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần thấp hơn
cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Bốn là: Thành viên HTX hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của HTX
thành viên của liên hiệp HTX: có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
khi HTX, liên hiệp HTX mất khả năng thanh tốn.
Thứ hai, những chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, gồm:
Một là: Ngƣời đại diện theo pháp luật của DN, HTX: có nghĩa vụ nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi DN, HTX mất khả năng thanh toán.
Hai là: Chủ doanh nghiệp tƣ nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty
cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành
viên hợp danh cơng ty hợp danh: có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đến Tịa án có thẩm quyền giải quyết phá sản và nộp tiền lệ phí phá sản, tạm
ứng chi phí phá sản theo quy định của pháp luật. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với từng chủ thể đƣợc quy định từ điều 26 đến điều 29 của LPS năm
2014.
Bước 2: Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
22
Sau khi nhận đƣợc biên lai nộp lệ phí phá sản, biên lai nộp tạm ứng chi
phí phá sản, TAND thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trƣờng hợp khơng
phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, thời điểm đƣợc xác định từ
ngày TAND nhận đƣợc đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ.
Bước 3: Mở thủ tục phá sản
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, Thẩm phán sẽ phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, trừ
trƣờng hợp tuyên bố DN, HTX phá sản theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán ra
quyết định mở thủ tục phá sản khi DN, HTX mất khả năng thanh toán, có các
nội dung chủ yếu đƣợc quy định tại khoản 4 điều 42 LPS 2014. Nếu xét thấy
DN, HTX không thuộc quy định trên, Tòa án sẽ ra quyết định không mở thủ
tục phá sản. Quyết định của Thẩm phán, dù là mở hoặc không mở thủ tục phá
sản cũng đều có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định.
Theo khoản 1 điều 45 LPS 2014, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ
ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định
Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Bước 4: Tổ chức Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ có vai trị quan trọng trong việc giúp DN, HTX mất
khả năng thanh tốn có thể phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hội nghị
chủ nợ thảo luận, xem xét, thông qua phƣơng án, giải pháp tổ chức lại hoạt
động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ của DN, HTX. LPS
năm 2014 đã khắc phục đƣợc hạn chế của LPS năm 2004 về điều kiện hợp lệ
của hội nghị chủ nợ, cụ thể, điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ theo quy
định mới chỉ căn cứ trên số nợ, không căn cứ vào số chủ nợ tham gia hội nghị
chủ nợ. Quy định mới này đã tháo gỡ một số khó khăn nhằm tạo điều kiện
cho Hội nghị chủ nợ hoạt động một cách kịp thời để giải quyết các vấn đề liên
quan đến quyền lợi chính đáng của các chủ nợ.
1.3. Quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã được áp dụng thủ tục phục hồi
23
1 3 1 Điều kiện và đối tượng được thông qua thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh
* Điều kiện được thông qua thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Theo khoản 1 điều 87 LPS năm 2014, có ba điều kiện để thông qua
phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh: Một là, để áp dụng thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh, phải tổ chức đƣợc Hội nghị chủ nợ thành; Hai là,
Hội nghị chủ nợ phải thông qua nghị quyết có nội dung áp dụng thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh và DN, HTX phải xây dựng phƣơng án phục hồi
hoạt động kinh doanh để trình bày tại Hội nghị chủ nợ tiếp theo; Ba là, Hội
nghị chủ nợ đƣợc tổ chức tiếp theo phải biểu quyết thông qua phƣơng án phục
hồi hoạt động kinh doanh.
* Đối tượng được thông qua thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Đối tƣợng đƣợc thông qua thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là các
DN, HTX có khả năng thanh tốn nợ. Với các doanh nghiệp có khả năng
thanh tốn nợ, có thể có cơ hội để vừa tiếp tục kinh doanh, vừa thực hiện kế
hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ.
1 3 2 Chủ thể tham gia vào thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Thứ nhất, chủ nợ, bao gồm chủ nợ khơng có bảo đảm và có bảo đảm
một phần. Đối với chủ nợ có bảo đảm, LPS năm 2014 đã tạo cơ chế bảo toàn
tài sản bảo đảm để thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Đồng
thời, việc sử dụng tài sản bảo đảm phải trên cơ sở bảo đảm lợi ích cho chủ nợ
có bảo đảm. Khoản 5 điều 91 LPS năm 2014 quy định quyền quyết định của
chủ nợ có bảo đảm trong việc đƣa tài sản bảo đảm vào quá trình phục hồi hoạt
động kinh doanh.
LPS năm 2014 đã bổ sung vai trò chủ nợ của khoản nợ phát sinh sau
khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của
DN, HTX; cụ thể, chủ nợ mới đƣợc ƣu tiên thanh toán trƣớc chủ nợ khơng có
bảo đảm khác trong trƣờng hợp doanh nghiệp không thực hiện đƣợc phƣơng
án phục hồi hoạt động kinh doanh và Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản.
24
Thứ hai, doanh nghiệp, hợp tác
mất khả năng thanh toán: so với
quy định của LPS doanh nghiệp năm 1993, LPS năm 2004, LPS năm 2014
quy định quyền chủ động hơn cho DN, HTX mất khả năng thanh toán trong
thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, bao gồm: xây dựng phƣơng án phục
hồi hoạt động kinh doanh; sửa đổi, bổ sung phƣơng án phục hồi hoạt động
kinh doanh và thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh (khoản 1
điều 87, điều 94 LPS năm 2014).
Thứ ba, Quản tài viên; doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản: Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đóng vai trò hỗ trợ cho Thẩm
phán giải quyết vụ việc phá sản và các chủ nợ trong việc thực hiện thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, Thẩm phán: vai trò của Thẩm phán quan trọng và xuyên suốt
quá trình tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, cụ thể: (i) Xem xét
phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh do DN, HTX lập trƣớc khi đƣa
phƣơng án ra Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua (khoản 4 điều 87); (ii) Triệu
tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phƣơng án phục hồi hoạt
động kinh doanh (điều 91); (iii) Công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ
thông qua phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX; công
nhận sự thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung phƣơng án phục hồi hoạt động
kinh doanh của DN, HTX (điều 92, điều 94); (iv) Giám sát thực hiện phƣơng
án phục hồi hoạt động kinh doanh (điều 93); (v) Quyết định đình chỉ thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX mất khả năng thanh tốn (điều
95).
1.3.3. Trình tự, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Bước 1: ây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
DN, HTX mất khả năng thanh tốn chịu trách nhiệm chính trong việc
xây dựng và thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh. Bên cạnh
đó, chủ nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và Thẩm
phán sẽ đóng góp ý kiến cho phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh mà
25