Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luật phá sản Việt Nam năm 2004 - thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.53 KB, 87 trang )



KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***









KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM NĂM 2004:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ
NỘI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN




Sinh viên thực hiện : Lê Hoàng Mai
Lớp : Anh 8
Khoá : 44B
Giáo viên hƣớng dẫn : GS.TS. Nguyễn Thị Mơ









Hà Nội, tháng 05 năm 2009



i
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT
NAM NĂM 2004 3
I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản 3
1. Khái niệm về phá sản 3
1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế 3
1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật 5
2. Sự tác động của phá sản 7
2.1. Về mặt tiêu cực 7
2.2. Về mặt tích cực 9
II. Pháp luật về phá sản 11
1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản 11
2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản 12
2.1 Mục đích của pháp luật phá sản: 12
2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản 13
3. Một số điểm lưu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các nước trên
thế giới: 18
3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản. 18

3.2. Thế nào là tình trạng phá sản. 21
II. Luật phá sản Việt Nam năm 2004 24
1. Sự cần thiết phải ban hành Luật phá sản năm 2004 24
2. Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004 26
2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản. 26
2.2. Điều kiện để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản 27
2.3. Thủ tục tiến hành một vụ phá sản thông thường 28


ii
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 34
I. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung và luật
phá sản năm 2005 ở Việt Nam 34
1. Những thuận lợi và kết quả 34
2. Những khó khăn và bất cập. 38
2.1. Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp 38
2.2. Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài 39
2.3. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp đơn
yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể 40
3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004 41
3.1 Tính khả thi của luật không cao 41
3.2 Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm 42
II. Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội 43
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản các
doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra. 43
2. Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra 47
2.1. Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp
và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 47
2.2. Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay

không mở thủ tục phá sản 48
2.3. Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra
không sát với thực tế. 48
2.4. Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản50
2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản 57
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG KHẢ
NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 59
I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội trong thời
gian tới 59
1. Cơ sở để dự báo 59


iii
2. Con số dự báo 61
II. Các giải pháp cụ thể 62
1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004 62
1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản 62
1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản67
1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục
phá sản. 69
1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản 71
2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội 74
2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả 74
2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với những
doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả 74
2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà
Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản 75

3. Nhóm giải pháp khác 76
3.1. Đối với Toà án 76
3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán 77
3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội
về phá sản để đổi mới nhận thức 78
Kết luận 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80



Danh mục các chữ viết tắt

1. LPSDN 1993 : Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
2. LPS 2004 : Luật phá sản năm 2004
3. CHLB : Cộng hoà liên bang
4. TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
5. WTO : Tổ chức thương mại Thế giới
6. GDP : Tổng sản phẩm quốc nội.



1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Phá sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá
trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ doanh nghiệp yếu kém,
khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì
những lý do khác nhau mà trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có
thể lâm vào tình trạng phá sản. Chính vì thế pháp luật phá sản là một bộ phận không
thể thiếu của pháp luật kinh doanh để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan

đến tình trạng làm ăn quẫn bách của doanh nghiệp, tức là khi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản.
Luật phá sản đầu tiên của nước ta có tên gọi là Luật phá sản doanh nghiệp, được
Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ tư thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực ngày
1/7/1994. Tuy nhiên, trong hơn mười năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Sau môt thời gian nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung nhằm khắc phục nhược điểm của Luật phá sản doanh nghiệp năm1993 và đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện tại. Luật phá sản mới đã ra đời: Luật này có tên
gọi là Luật phá sản năm 2004. Luật phá sản năm 2004 đã được Quốc hội khoá XI
kỳ họp thứ năm thông qua, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 và chính thức thay thế
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993.
Mục tiêu của Luật phá sản năm 2004 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá
sản đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, tăng cường trách nhiệm của
các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành các hoạt động thương mại mà quan
trọng hơn là nhằm tìm kiếm giải pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh cho
doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế,
mục tiêu này không phải là dễ thực hiện. Vì vậy, cần phải nắm vững nội dung
của Luật phá sản và sự vận dụng đúng đắn những nguyên tắc của Luật phá sản
nói chung và những quy định pháp lý có liên quan mới có thể thực thi Luật phá
sản một cách có hiệu quả.


2
Đó là lý do để vấn đề “Luật phá sản Việt Nam năm 2004: Thực tiễn áp dụng tại
thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện” được lựa chọn làm đề tài cho Khoá
luận tốt nghiệp đại học này.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm
2004 sau khi phân tích thực tiễn áp dụng luật này tại TP. Hà Nội trong những năm
qua nhằm làm rõ bất cập và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện; từ đó

đề xuất phương hướng và giải pháp để Luật phá sản năm 2004 có hiệu quả hơn
trong thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứƣ:
Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận là: Luật phá sản nói chung và Luật phá sản
Việt Nam năm 2004 nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu của Khoá luận giới hạn ở việc phân
tích những vấn đề phát sinh từ việc áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: hệ thống hoá,
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và nêu nhận xét cá nhân.
5. Kết cấu Khoá luận:
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khoá
luận bao gồm ba chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về phá sản, pháp luật phá sản và Luật phá sản năm 2004
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP Hà Nội và những
vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường khả năng thực thi Luật phá
sản năm 2004.


3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM NĂM 2004
I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản
1. Khái niệm về phá sản
1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên thế giới
đã cho thấy rằng, phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất
định. Điều này giải thích tại sao, phá sản là hiện tượng bình thường, phổ biến trong
nền kinh tế thị trường nhưng lại rất xa lạ với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.

Phá sản là khái niệm chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp, tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ của thương gia.
Về phương diện ngôn ngữ, hiện có khá nhiều thuật ngữ dùng để thể hiện khái
niệm này. Ở châu Âu khi nói đến phá sản người ta hay dùng danh từ “Bankruptcy”
trong tiếng Anh hoặc “Banqueroute” trong tiếng Pháp. Cả hai từ này đều bắt nguồn
từ chữ “Banca Rotta” của La Mã có nghĩa là “chiếc ghế bị gẫy”
1
. Vào khoảng thế
kỷ VII, tại La Mã các thương gia của một thành phố thường họp nhau lại để xem xét
việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất
quyền tham gia Đại hội thương gia và chiếc ghế ngồi của họ theo đó cũng bị đem ra
khỏi hội trường. Như vậy, “Banca Rotta” (chiếc ghế bị gẫy) được quan niệm như
là một biểu tượng của việc mất khả năng thanh toán.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm tự phục vụ, tự đáp
ứng nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có
hiện tượng phá sản.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh
nghiệp quốc doanh, được Nhà nước thành lập và tài sản thuộc quyền sở hữu Nhà
nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh


1
TS. Trương Hồng Hải, Luận án tiến sĩ: “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh và
phương hướng hoàn thiện”, tr38-40


4
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không
có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, nếu doanh nghiệp kinh doanh
có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn ngược lại nếu lỗ thì được Nhà nước bù

lỗ. Các xí nghiệp, hợp tác xã thời kỳ này hoạt động kém hiệu qủa, lãi giả, lỗ thật, nợ
nần chồng chất. Nhà nước phải giúp đỡ các doanh nghiệp này bằng cách hoãn nợ,
xoá nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính hành chính như giải thể, sáp nhập… Vì
vậy, doanh nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế bao cấp không bị mất khả năng
thanh toán và do đó hiện tượng phá sản cũng không xảy ra.
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng kinh tế-xã hội tồn tại
khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản được lý giải bởi các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mặc dù có đời sống ngắn dài khác nhau nhưng doanh nghiệp luôn có
một vòng đời nhất định: khởi nghiệp, tăng trưởng, phồn vinh và suy thoái. Cũng
giống như một cơ thể sống, hàng triệu tế bào liên tục được sinh ra và chết đi. Và
trong nền kinh tế thị trường hàng chục triệu doanh nghiệp được sinh ra, và trải qua
nhiều giai đoạn cũng đến lúc tàn lụi, đó là lúc doanh nghiệp phá sản. Điều này hoàn
toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
nhà kinh doanh. Những doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải mạnh và
phải đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải chủ động, linh hoạt nắm bắt được các quy luật kinh tế và chiếm lĩnh thị
trường. Và dĩ nhiên các công ty nhỏ, không đủ sức cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng
phá sản.
Một doanh nghiệp phá sản có thể do nhiều nguyên nhân, cũng có thể do nguyên
nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan tác động. Nguyên nhân khách quan
như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, động đất, hay sự xuất hiện của đối thủ cạnh
tranh…Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan như năng lực quản lý, lãnh đạo công ty,
chiến lược kinh doanh,…nhiều khi cũng là nguyên nhân của các vụ phá sản doanh
nghiệp.


5
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hệ quả kinh tế-xã hội nhất định. Ví dụ, sự

phá sản của một bộ phận lớn doanh nghiệp thường gây ra những xáo trộn, ảnh
hưởng xấu đến việc sản xuất, thu nhập của một bộ phận lớn người lao động. Song
sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Sinh- Tử,
Thành lập- Phá sản là những quy luật của cuộc sống doanh nghiệp và thị trường.
Một trong những quy luật cơ bản của triết học là quy luật phủ định của phủ định,
phá sản cũng chính là sự phủ định cần thiết để kinh tế có bước phát triển cao hơn.
Tóm lại, nhìn từ góc độ kinh tế, phá sản là một thuật ngữ chỉ tình trạng làm ăn
thua lỗ, quẫn bách đến mức không thể trả được các món nợ dù có bán hết mọi tài
sản hiện có. Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó hiện
hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của
nền kinh tế thị trường.
1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật
Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ
xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng với các quyền
cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất được Nhà nước tôn trong,
đề cao và bảo vệ. Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, quyền tự do kinh
doanh có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do thành
lập doanh nghiệp; quyền tự do quyết định quy mô kinh doanh; quyền tự do lựa chọn
ngành nghề, mặt hàng kinh doanh; quyền tự do định đoạt các vấn đề phát sinh trong
khi hành nghề; quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế; quyền tự do lựa chọn cơ
quan giải quyết tranh chấp; quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Như
vậy, tự do cạnh tranh như một bộ phận cấu thành rất quan trọng của quyền tự do
kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến
với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc
chiến khác, cuộc chiến giữa các nhà kinh doanh cũng mang lại những hậu quả nhất
định cho bên thua cuộc: Phá sản. Xét trên quan điểm của pháp luật mà nói thì Phá
sản cũng là một quyền của doanh nghiệp và đã là quyền thì được pháp luật bảo vệ.


6

Thêm vào đó, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì luôn có
một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng
chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm
dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề
đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để
doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít
gây ra hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung.
Muốn thực hiện được các mục tiêu này thì Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc mà
phải can thiệp bằng cách ban hành pháp luật để xử lý một loạt các vấn đề liên quan
đến việc doanh nghiệp mắc nợ. Ví dụ, Nhà nước phải quy định khi nào và với điều
kiện gì thì một doanh nghiệp con nợ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản; ai có
quyền làm đơn yêu cầu việc giải quyết phá sản; cơ quan nào trong bộ máy nhà nước
có nghĩa vụ giải quyết việc phá sản; thủ tục Toà án thụ lý và giải quyết vụ phá sản;
cơ chế quản lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản; thành phần, nhiệm vụ,
quyền hạn của thiết chế thực hiện việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản; tài sản phá sản gồm những gì; khi giải quyết phá sản thì có
những tài sản nào của con nợ không được đem chia cho các chủ nợ; thứ tự ưu tiên
thanh toán từ tài sản phá sản; con nợ có phải tiếp tục trả cho các chủ nợ các khoản
nợ còn thiếu chưa được trả hay không, v.v … Tất cả những vấn đề đó cần phải được
Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật mà giải quyết một cách
thấu đáo, hợp tình, hợp lý. Tổng hợp những văn bản pháp luật này tạo thành một
lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về phá sản mà xương sống của nó là Luật
Phá sản. Tóm lại, vì có phá sản nên phải có pháp luật về phá sản và pháp luật về phá
sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban hành, trong đó quy định về dấu hiệu
của tình trạng phá sản; điều kiện áp dụng các thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thủ
tục thanh lý); địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản; trình tự tiến
hành việc giải quyết phá sản; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn
đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể.
Nói cách khác từ góc độ pháp luật, khi một thương gia, một doanh nghiệp bị phá
sản thì theo quy định của pháp luật Toà án sẽ tuyên bố thương gia, doanh nghiệp đó



7
bị phá sản. Tuyên bố phá sản là một thủ tục pháp lý bắt buộc với những quy trình,
những bước cụ thể đã được pháp luật ấn định. Với cách tiếp cận này “tuyên bố phá
sản là thủ tục thanh toán tài sản của con nợ bị phá sản để trang trải cho các chủ nợ
bị liên quan”
2
. Do đó, về mặt pháp lý, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản,
hàng loạt các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và kéo theo những hậu quả pháp lý khác
nhau cho những người liên quan.
2. Sự tác động của phá sản
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nó là hiện tượng
kéo theo những hệ quả kinh tế xã hội nhất định và tác động đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội và pháp luật.
2.1. Về mặt tiêu cực
Phá sản thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất,
ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các
nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề
nổi cộm được các quốc gia quan tâm và tìm cách hạn chế. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến thất nghiệp nhưng không có nguyên nhân nào khiến số người đang lao
động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp nhiều và nhanh chóng như nguyên nhân phá
sản. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc
làm, mất thu nhập ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, miếng cơm manh áo của chính
bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này các quốc
gia cần có những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản
doanh nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất
nghiệp, trả lương bảo hiểm, giúp họ tìm công việc khác…
Bên cạnh những tác động trên, phá sản còn có nhiều tác động xấu đến sự phát

triển kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn hàng
của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền- người không


2
GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết (2005), Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối
ngoại, Nhà xuất bản Giáo dục, tr 115.


8
bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản
trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất (
nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ)… Thêm
vào đó chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản không đòi được nợ dẫn đến thiếu vốn
đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc trang trải cho các khoản nợ mà họ
vay từ chủ nợ khác. Đặc biệt nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn
thì sự tác động của nó tới nền kinh tế là rất tồi tệ.
Nói đến tác động tiêu cực của phá sản phải nói đến hai vụ phá sản điển hình
trong lĩnh vực tài chính, một của Nhật Bản, một của Mỹ:
Thứ nhất là trường hợp Ngân hàng SFCG (Nhật Bản) đệ đơn xin phá sản ngày
23/2/2009. Ngân hàng SFCG là ngân hàng chuyên cung cấp vốn vay cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Đây là vụ phá sản lớn nhất ở Nhật kể từ tháng
3/2002 sau vụ sụp đổ của nhà thầu xây dựng Sato Kogyo với số nợ 450 tỷ Yên.
Ngân hàng đang phải chịu một khoản nợ là 338 tỷ Yên, và phải đi vay nợ rất nhiều
từ các ngân hàng ngoại quốc trong đó có đại gia Citigroup. Tính tới 31/7/2008
SFCG nợ Citigroup 31 tỷ Yên. Sự phá sản Ngân hàng SFCG cũng đồng nghĩa với
việc 109 chi nhánh bị đóng cửa và 1.528 nhân viên bị mất việc
3
.
Thứ hai là vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ đã làm chấn

động thị trường toàn cầu. Lehman Brothers (thành lập năm 1850 bởi ba anh em
Henry, Emanuel và Mayer Lehman người Do Thái từ Đức di cư sang) là một tập
đoàn chứng khoán và tập đoàn ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ. Lĩnh vực
chính của tập đoàn là ngân hàng đầu tư, buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, nghiên cứu
thị trường, quản lý đầu tư, và ngân hàng tư nhân. Tập đoàn đặt trụ sở chính ở Thành
phố New York, và hai trụ sở khác ở London và Tokyo, cũng như nhiều văn phòng
đại diện khắp thế giới. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tập đoàn tuyên bố phá sản với
khoản nợ 613 tỷ đôla Mỹ sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là
vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nguồn gốc của vụ phá sản này


3
Website của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam:



9
là từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Những năm đầu của thập niên 2000,
BNC Mortgage - một công ty con của Lehman Brothers - đã tích cực cho vay thứ
cấp đối với các dự án nhà ở. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã làm công
ty này thua lỗ nặng. Lehman Brothers đã quyết định đóng cửa công ty con này của
mình vào tháng 8 năm 2007. Tuy nhiên không chỉ riêng BNC Mortgage mà cả tập
đoàn Lehman Brother đều tích cực tham gia cho vay nhà ở thứ cấp. Việc chứng
khoán hóa các khoản cho vay không gặp thuận lợi bởi lãi suất không hấp dẫn. Đến
năm 2008, công ty lỗ nặng chưa từng thấy. Kết quả là riêng trong nửa đầu năm
2008, cổ phiếu của Lehman Brothers mất giá tới 70%. Lehman Brothers phá sản
đồng nghĩa với việc có khoảng 26.200 nhân viên bị mất việc. Nghiêm trọng hơn là
tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu. Ngay sau khi có tin Lehman
Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down
Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị trường chứng khoán London giảm 3%;

các thị trường chứng khoán Pháp và Đức cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của
Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng dao dịch sau
khi chỉ số giảm tới 16%
4
. Chỉ số chứng khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của
hàng loạt các công ty khác và đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng
thất nghiệp.
2.2. Về mặt tích cực
Dưới một cách nhìn khác, phá sản cũng đem lại những ảnh hưởng tích cực đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại” nền kinh
tế, có thể ví phá sản như dọn vườn, dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển. Phá sản
góp phần hình thành, duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp còn đủ sức đứng
vững trong điều kiện cạnh tranh nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Phá sản góp phần loại bỏ
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi nền kinh tế và giữ lại những
doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã


4



10
chứng minh rằng, trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng đem lại kết cục nghiệt ngã cho các
doanh nghiệp yếu hơn nhưng nó lại là quy luật muôn thuở của nền kinh tế thị
trường mà ở đó lợi nhuận là trung tâm còn cạnh tranh là động lực.
Bên cạnh tác động trên, phá sản chưa phải là dấu chấm hết đối với một doanh
nghiệp. Trên thế giới đã chứng kiến nhiều nhà đầu tư thành công từ những doanh

nghiệp phá sản. Dưới đây là hai vụ phá sản điển hình của hai công ty đại chúng ở
Mỹ minh chứng cho luận điểm trên:
Thứ nhất là Công ty Kmart, một trong những hãng bán lẻ giá rẻ đầu tiên ở Mỹ,
nộp đơn xin phá sản vào tháng 1/2002 sau khi doanh số và lợi nhuận sụt giảm,
khiến công ty rơi vào tình trạng kẹt tiền mặt nghiêm trọng. Trái phiếu doanh nghiệp
do Kmart phát hành không còn bán được nữa, trong khi các nhà cung cấp lưỡng lự
giao hàng nhận tiền sau. Kmart coi suy thoái kinh tế Mỹ năm 2001 và sự cạnh tranh
của các đối thủ khác là lý do dẫn tới khó khăn của hãng, nhưng trên thực tế là hãng
không còn đủ sức hấp dẫn với người tiêu dùng.
Trong quá trình phá sản, Kmart đóng cửa hàng trăm trong số khoảng 2.000 cửa
hàng của mình - một hoạt động thường gặp trong trường hợp phá sản của các hãng
bán lẻ. Bên cạnh đó, hãng còn cắt giảm việc làm, hợp nhất các văn phòng và thanh
lý hàng tồn kho.
Một nhà đầu tư là Eddie Lampert nhận thấy giá trị hấp dẫn ở nhiều tài sản bất
động sản của công ty này nên đẩy mạnh mua vào trái phiếu của hãng. Sau khi
Kmart hoàn tất quá trình phá sản kéo dài 455 ngày, Lampert trở thành chủ tịch của
hãng. Ở vai trò này, Lampert đã bán phần lớn những tài sản bất động sản có giá trị
nhất của Kmart, và sau đó, sáp nhập Kmart với hãng bán lẻ Sears vào năm 2004. Vụ
sáp nhập trị giá lên đến 12,3 tỷ USD này đã đẩy giá cổ phiếu của Sears lên 22% và
của Kmart lên 16% không lâu sau khi vụ sáp nhập công bố. Và kể từ ngày Kmart tự
đứng dậy sau khi phá sản từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến
700% tính đến mùa xuân 2005. Như vậy, bằng cách sáp nhập Công ty Kmart đã tìm
lại được vị trí của mình sau khi tuyên bố phá sản.


11
Thứ hai là hãng hàng không Continental Airlines của Mỹ thì từng phá sản tới 2
lần, vào các năm 1983 và 1990. Đầu thập niên 1980, do phải đối mặt với suy thoái
và sự nới lỏng giám sát trong ngành hàng không Mỹ, Continental rơi vào một cuộc
chiến với các tổ chức công đoàn trong chuyện giảm tiền công và buộc phải nộp đơn

xin bảo hộ phá sản.
Vào năm 1990, Continental lại phá sản tiếp lần nữa. Tuy nhiên, lần này, hãng
phá sản vì những lý do khác. Giá nhiên liệu tăng cao cộng với nợ nần chồng chất vì
chiến lược mua lại - “tác phẩm” của vị Chủ tịch đã phá vỡ thỏa thuận với công đoàn
cách đó gần 1 thập kỷ - đã khiến Continental không còn lựa chọn nào khác. Vài
tháng sau khi nỗ lực hết sức để thoát nguy cơ phá sản, chẳng hạn bán một số tuyến
bay quốc tế cho hãng Delta, không đem lại kết quả, Continental lại nộp đơn lên tòa
án xin tuyên bố phá sản.
Vì mục tiêu của Luật phá sản Mỹ là tái tạo lại doanh nghiệp bằng cách cho phép
doanh nghiệp, cá nhân đang ở trong tình trạng vỡ nợ có thể nộp “đơn xin bảo hộ
phá sản”. Khi đó, các doanh nghiệp cá nhân này được phép hoàn nợ trong vòng 5
năm nên với đơn xin phá sản giúp Continental tiếp tục hoạt động, một phần do tòa
án buộc các hãng hàng không là đối tác của Continental duy trì thực hiện nghĩa vụ
đối với hãng hàng không này, trong khi Continental có thể từ chối thanh toán cho
các chủ nợ. Hai năm rưỡi sau khi phá sản, Continental trở thành một hãng hàng
không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới.
Với hai ví dụ nêu trên, có thể thấy phá sản, ở một chừng mực nhất định, do
những tác động của Pháp luật phá sản thông qua sự hỗ trợ tích cực của Toà án,
nhiều doanh nghiệp đã phục hồi hoạt động kinh doanh, được tái tạo lại tốt hơn và do
đó hoạt động hiệu quả hơn trước.
II. Pháp luật về phá sản
1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn
lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp khổng lồ, các đơn vị kinh doanh


12
không có động lực để cạnh tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của
Nhà nước. Kinh tế bao cấp không cần tới luật phá sản. Dấu hiệu sụp đổ của mô hình
này có thể nhận thấy khi các doanh nghiệp "vượt rào", ngày càng giành lấy nhiều

quyền tự chủ trong hoạch định và tổ chức kinh doanh. Cùng với sự gia nhập của đầu
tư nước ngoài, sự tự do kinh doanh cho tư nhân, môi trường cạnh tranh tái xuất hiện
và trở nên gay gắt nhanh chóng ngay trên thị trường nội địa, vai trò của Nhà nước
với tư cách là một chủ đầu tư chịu trách nhiệm hữu hạn trong các doanh nghiệp Nhà
nước mới dần dần hiện rõ. Khi tự do kinh doanh và cạnh tranh tái xuất hiện, nhu cầu
điều tiết vỡ nợ các đơn vị kinh tế vốn thuộc quyền quản lý của Nhà nước mới trở
nên cấp bách. Đáng lưu ý: nhu cầu điều chỉnh cấp bách bậc nhất của pháp luật phá
sản trong các quốc gia chuyển đổi chính là các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ hàng
loạt khi bước vào cạnh tranh với một tư thế thiếu năng động so với khu vực kinh tế
tư nhân và tư bản nước ngoài. Năm 1986 Trung Quốc ban hành một đạo luật phá
sản, chỉ áp dụng riêng cho khối doanh nghiệp Nhà nước. Vì thế, đối với nhiều quốc
gia như ở Liên Xô cũ, Trung và Đông Âu và Việt Nam, pháp luật phá sản trước hết
được dùng như một công cụ tái cơ cấu, giải quyết sự vỡ nợ hàng loạt của các doanh
nghiệp Nhà nước đang chuyển đổi sang các hình thức doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, phá sản là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị
trường nên việc một công ty bị phá sản ảnh hưởng đến nhiều đối tượng liên quan,
gây ra nhiều tác động đối với các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Do vậy cần thiết
có một đạo luật điều chỉnh về vấn đề này. Đó là lý do cho thấy sự cần thiết khách
quan phải có pháp luật về phá sản như là một lĩnh vực pháp luật độc lập.
2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản
2.1 Mục đích của pháp luật phá sản:
Mục đích chính của pháp luật phá sản ở hầu hết các quốc gia là chính phủ muốn
tạo lối thoát nhân đạo cho những doanh nghiệp lâm vào tình trạng tài chính khó
khăn, hoặc không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, tuỳ theo luật pháp từng nước mà
pháp luật phá sản còn bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, con nợ và người lao động.


13
2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản
2.2.1. Pháp luật phá sản là công cụ pháp lý bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi

ích hợp pháp của các chủ nợ.
Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh
nghiệp nào có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi nợ
thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra
Toà án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng ra Toà dân sự, Toà kinh tế
nhiều khi không thể giải quyết được một cách thoả đáng quyền và lợi ích hợp pháp
của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên cạnh tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế với tư
cách là các thủ tục đòi nợ thông thường, Nhà nước phải thiết kế thêm một cơ chế
đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục
phá sản. Tính ưu việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi
nợ được bảo đảm bằng việc Toà án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ
và thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Mặc dù ngày
nay, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong đó có mục
tiêu giúp doanh nghiệp con nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng
về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt
ra nhằm trước hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Việc ưu tiên bảo
vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ
pháp lý có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh
doanh. Từ khi có Luật phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các món nợ
của họ đã có một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ.
Pháp luật phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được thể hiện qua
hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ như: quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản (Điều 13, LPS 2004), quyền khiếu
nại Danh sách chủ nợ (Khoản 2, Điều 52, LPS 2004), quyền có đại diện trong thiết
chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản (Khoản 1, Điều 83, LPS 2004), quyền đề
xuất, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ (Điều 70,71


14

LPS 2004), quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản (Khoản 1, Điều 91,
LPS 2004), v.v
2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, tạo cơ hội để con nợ rút
khỏi thương trường một cách trật tự.
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc đó,
người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một phạm
nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều
hình thức, kể cả phạt tù. Ví dụ, Luật phá sản đầu tiên của Anh năm 1542 quy định
“phải treo cổ tất cả con nợ” để răn đe các thương gia làm ăn thua lỗ. Ngày nay, quan
niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và
pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo
hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách
quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể
xảy ra bất cứ lúc nào đối với nhà kinh doanh. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá
sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với
người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị
lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết
không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó
cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi
tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều
quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản lựa chọn, áp dụng nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này phục hồi lại
khả năng kinh doanh của mình.
Đặc biệt ở Mỹ, pháp luật phá sản nước này rất khoan hồng đối với các cá nhân
và doanh nghiệp khi họ lâm vào tình trạng không trả được nợ. Đối với cá nhân
chúng ta thì có hai loại phá sản: Loại thứ nhất được quy định tại chương VII cho
phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể “thanh toán” –được xoá nợ- hầu hết các
khoản nợ không có thế chấp. Loại phá sản này không giúp cho cá nhân giữ được tài



15
sản của mình trước những khoản nợ có bảo đảm, tức là khi vay người vay phải thế
chấp tài sản, chẳng hạn như đất đai, của mình; Loại thứ hai được quy định tại
chương XIII cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể trả dần từng phần
khoản nợ trong một khoảng ân hạn từ ba đến năm năm. Đến cuối kỳ thanh toán, nếu
người vay nợ đã dùng hết thu nhập của mình để trả nợ theo kế hoạch thì số nợ còn
lại sẽ bị xóa. Loại này có thể dùng để thanh toán những khoản nợ có bảo đảm quá
hạn mà không bị mất tài sản thế chấp. Luật phá sản áp dụng cho doanh nghiệp hơi
khác một chút. Một số doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh theo quy định tại
chương XI khi họ tái cơ cấu lại các khoản nợ. Vì vậy, khác với hầu hết các quy định
về phá sản trên thế giới, luật pháp Mỹ cho phép một công ty phá sản được tiếp tục
hoạt động dưới sự lãnh đạo của đội ngũ quản lý cũ khi công ty này cố gắng tái cơ
cấu lại các khoản nợ. Nói cách khác là về mặt cơ bản thì không có sự chỉ định người
giám sát công ty. Một số người cho rằng hệ thống này, hệ thống có tên là người vay
nợ bị khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm bởi nhiều
công ty vẫn được tiếp tục kinh doanh và tài sản của các công ty được bảo vệ.
Ở Việt Nam, pháp luật phá sản cũng đã được xây dựng theo khuynh hướng này.
Cụ thể là, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và gần đây là Luật Phá sản 2004 đã
không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc biệt là đã không coi phá sản là
một tội phạm như quan niệm của một số nước trên thế giới. Điều này có thể thấy
qua việc pháp luật quy định hàng loạt những quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong
quá trình giải quyết phá sản. Chẳng hạn, kể từ thời điểm Toà án ra quyết định mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được đình chỉ và giải quyết
theo một thủ tục chung duy nhất do Toà án tiến hành, đồng thời nghiêm cấm việc
đòi nợ một cách riêng lẻ. Pháp luật phá sản của nhiều nước đã tạo điều kiện tối đa
cho doanh nghiệp mắc nợ khắc phục khó khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng
phá sản để trở lại hoạt động bình thường, mà không quy định bắt buộc Toà án phải
tuyên bố phá sản ngay khi có đơn yêu cầu. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục

phá sản, doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hoà giải và giải
pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua (Điều


16
64 LPS 2004). Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục thanh lý khi Hội nghị chủ nợ
không thông qua phương án tổ lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, hay trong trường
hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không thành công phương án tổ
chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Ngoài
ra, con nợ còn có quyền cử người đại diện tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản
(Điều 9, Luật PSDN 1993) Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý, tài sản còn lại
của doanh nghiệp sẽ được thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự nhất định; sau khi
thanh toán, mọi khoản nợ của doanh nghiệp, cho dù chưa được thanh toán đầy đủ
cũng được coi là đã thanh toán và các chủ nợ không có quyền đòi nợ nữa, trừ một
vài ngoại lệ được quy định trong Luật phá sản của từng nước.
2.2.3. Pháp luật phá sản góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của người lao động
Phá sản không chỉ gây ra hậu quả xấu cho các chủ nợ, con nợ mà còn cho cả
người lao động. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, chính vì có phá sản mà người lao
động phải mất việc làm, lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Do vậy, muốn bảo vệ người
lao động, trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp không bị phá sản. Cơ chế phục
hồi doanh nghiệp được pháp luật đề ra chính là để thực hiện chủ trương này vì trên
thực tế, cứu được doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản cũng chính là cứu
được người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nhưng mặt khác, khi người
lao động làm việc mà không được trả đủ lương trong một thời gian dài thì Nhà nước
cũng cần phải tạo ra một phương thức nào đó để họ có thể đòi được số tiền lương
mà doanh nghiệp nợ. Để thực hiện được mục tiêu này, pháp luật phá sản phải quy
định cho họ một số quyền như được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền
được tham gia quá trình giải quyết vụ việc phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán
nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác mà họ được hưởng trước các khoản nợ
thông thường của doanh nghiệp

Và đây là điểm mà pháp luật phá sản của Việt Nam đặc biệt đưa ra nhiều các
quy định. Ví dụ, Điều 14 LPS 2004 quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của người lao động “Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được
lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác


17
xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua
đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã đó.”
2.2.4. Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Theo lẽ thường, khi mà con nợ có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít tài sản
để thanh toán nợ thì việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ là điều rất
có thể xảy ra. Nếu cứ để các chủ nợ “mạnh ai nấy làm”, tuỳ nghi “xiết nợ”, tự do
tước đoạt tài sản của con nợ một cách vô tổ chức, không công bằng thì trật tự, an
toàn xã hội sẽ không được bảo đảm. Vì vậy, Nhà nước nào cũng cần phải có biện
pháp để can thiệp vào việc đòi nợ này nhằm tránh được các hệ quả tiêu cực như vừa
nêu trên. Thủ tục phá sản chính là một công cụ pháp lý có khả năng giúp Nhà nước
đưa ra được nhiều cơ chế để thực hiện được việc thanh toán nợ một cách công bằng
giữa các chủ nợ. Căn cứ vào pháp luật phá sản, Toà án sẽ thay mặt Nhà nước đứng
ra giải quyết một cách công bằng, khách quan mối xung đột về lợi ích giữa các chủ
nợ và con nợ và điều đó sẽ góp phần đảm bảo trật tự, an toàn trong xã hội.
Theo LPS 2004, Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền
giải tiến hành thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi mở thủ tục
phá sản, Tổ quản lý và thanh lý tài sản được thành lập để làm nhiệm vụ quản lý
thanh lý tài sản, Hội nghị chủ nợ cũng đuợc thành lập để đảm bảo công bằng quyền
lợi của chủ nợ.
2.2.5. Pháp luật phá sản góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế
Cùng với những pháp luật kinh tế khác, pháp luật phá sản cũng góp phần làm
lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả

hơn. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh doanh,
buộc họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi hành nghề.
Một thái độ hành nghề, trong đó có sự kết hợp giữa tính năng động, sáng tạo và tính
cẩn trọng là hết sức cần thiết vì nó giúp các nhà kinh doanh đưa ra được những


18
quyết định hợp lý - tiền đề cho sự làm ăn có hiệu quả của từng doanh nghiệp. Sự
làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp riêng lẻ đương nhiên sẽ kéo theo sự làm
ăn có hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, pháp luật phá sản không chỉ là công cụ răng đe, buộc các doanh nghiệp
phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển mà còn là cơ sở pháp lý để xoá
bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh cho các nhà đầu tư. Thông qua thủ tục phá sản, những doanh nghiệp thua lỗ
triền miên, nợ nần chồng chất như những “con bệnh” trong nền kinh tế đều phải
được xử lý, đưa ra khỏi thương trường. Như vậy, thủ tục phá sản đã góp phần tạo ra
môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh - một yếu tố không thể thiếu được cho sự
phát triển bền vững của nền kinh tế.
3. Một số điểm lƣu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các
nƣớc trên thế giới:
Nghiên cứu pháp luật phá sản của các nước cho thấy có sự khác nhau trong các
quy định của pháp luật về những vấn đề liên quan đến phá sản. Điều này là hoàn
toàn dễ hiểu bởi mỗi quốc gia có một hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau và có
những nền văn hóa khác nhau.
Trong khuôn khổ bài khoá luận, người viết sẽ đi vào hai nội dung chính là quy
định về phạm vi áp dụng và khái niệm phá sản của Luật phá sản ở một số quốc gia
trên thế giới.
3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản.
Đây là vấn đề đầu tiên mà Luật phá sản các nước thường có cách quy định khác

nhau. Ví dụ, ở Việt Nam, ngoài các cơ quan nhà nước còn có các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; ngoài thương nhân (doanh
nghiệp và hộ kinh doanh cá thể) còn có các công dân nợ tiền của người khác mà
không thể thanh toán đúng hạn được. Vấn đề đặt ra là, tất cả các cá nhân, tổ chức,
cơ quan như vừa nêu trên có thể bị tuyên bố phá sản hay không, nghĩa là đối tượng
áp dụng của Luật phá sản bao gồm những ai. Ở Việt Nam, Luật phá sản doanh


19
nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 đã coi vấn đề này là hết sức quan trọng
nên đã được đưa ra để xử lý ngay trong những điều khoản đầu tiên của luật (Điều 1
Luật PSDN 1993; Điều 2 LPS 2004) và cách xử lý cũng khác nhau.
Hiện nay, phạm vi áp dụng của Luật phá sản ở các nước khác nhau được quy
định là khác nhau. Lý do của sự quy định khác nhau này thì có nhiều, nhưng cơ bản
nhất là do điều kiện kinh tế - xã hội và năng lực hoạt động của Toà án ở các nước là
không giống nhau. Những nước mà ở đó kinh tế kém phát triển, kinh nghiệm giải
quyết phá sản chưa nhiều, văn hoá pháp lý của các nhà kinh doanh chưa cao, bộ
máy Toà án chưa đủ tầm về con người và trang thiết bị làm việc thì chắc chắn sẽ
không thể mở rộng phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như ở các nước tiên tiến.
Cũng chính vì lý do đó mà hiện nay nhìn chung, trên thế giới có 3 cách xử lý vấn đề
về phạm vi áp dụng của Luật phá sản.
Theo cách thứ nhất, pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho các chủ thể kinh doanh
(thương nhân), bao gồm thương nhân là pháp nhân (các công ty) và thương nhân là
thể nhân (cá nhân kinh doanh). Ví dụ: ở Latvia, thủ tục phá sản được áp dụng đối
với các doanh nghiệp (khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh)
5
. Ở CHLB Nga, trước năm 2002, theo hai
đạo luật của CHLB Nga là Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) Xí nghiệp năm
1991 và Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) năm 1998 thì việc phá sản cũng

chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và các cá nhân kinh doanh
mà thôi. Tuy nhiên, ngày 27/9/2002, Duma Quốc gia Nga (Quốc hội) đã ban hành
và ngày 16/10/2002, Hội đồng Liên bang (tức Thượng Viện) Nga đã đồng ý thông
qua Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) mới, theo đó, phạm vi áp dụng của thủ
tục phá sản ở CHLB Nga đã được mở rộng ra cả các cá nhân tiêu dùng và đã dành
hẳn một chương là Chương X để quy định về việc phá sản đối với chủ thể này
6
.
Theo cách thứ hai, pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho các đối tượng là doanh
nghiệp, tức là chỉ có con nợ nào được coi là doanh nghiệp thì mới có thể bị tuyên bố


5
Tài liệu Hội thảo khoa học pháp luật phá sản của Latvia tổ chức tại Bộ Tư pháp tháng 11/2003
6
PSG. TS. Dương Đăng Tuệ và TS. Nguyễn Văn Tịnh chủ biên (2005), Những vấn đề liên quan đến việc
kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật phá sản năm 2004, Nhà xuất bản Bộ Tư Pháp , tr 16.


20
phá sản. Như vậy là, các chủ thể kinh doanh khác, cho dù có đăng ký kinh doanh tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng không được gọi là doanh nghiệp thì cũng
không thuộc phạm vi áp dụng của Luật phá sản. Một trong số rất ít những nước có
cách làm này là Việt Nam. Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Luật
Doanh nghiệp năm 1999 thì ở Việt Nam lúc đó có 2 loại thương nhân và họ được
gọi với hai tên khác nhau là doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật
PSDN 1993 và Luật Phá sản 2004

thì tuyên bố phá sản chỉ áp dụng cho một loại chủ
thể kinh doanh duy nhất là doanh nghiệp mà thôi, còn các hộ kinh doanh cá thể, khi

không trả được các món nợ đến hạn thì việc đòi nợ và trả nợ sẽ được thực hiện theo
cơ chế thông thường tức là đòi nợ thông qua tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế. Cụ
thể, Luật phá sản năm 2004 quy định đối tượng áp dụng Luật phá sản là “doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ( hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã gọi
chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”
(Điều 2, LPS 2004). Ngoài Việt Nam, còn có Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là
nước thứ hai cũng có cách quy định hẹp như vậy về phạm vi áp dụng của Luật Phá
sản.
Theo cách thứ ba, tuyên bố phá sản không chỉ được áp dụng cho tất cả các loại
hình thương nhân (pháp nhân, cá nhân kinh doanh) mà còn cho cả cá nhân người
tiêu dùng. Sự mở rộng một cách tuyệt đối phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như
vậy là nét đặc trưng trong Luật Phá sản một số nước tư bản phát triển như Nhật
Bản, Thuỵ Điển, CHLB Đức. Cụ thể:
+ Luật Phá sản Nhật Bản năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần) quy
định “Bất kỳ một cá nhân hay một công ty nào, dù mục đích của nó có vì lợi nhuận
hay không để có thể trở thành chủ thể của phá sản” (trang 9, Chương 25 LPS Nhật
Bản). Tuy nhiên, các pháp nhân không phải là công ty mà có tính chất công như
Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương thì không thuộc sự điều chỉnh
của thủ tục phá sản do bản chất công rất lớn của chúng.

×