Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo quy định bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ LAN HƯƠNG

ĐỀ TÀI

THỦ TỤC CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG
THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ LAN HƯƠNG

ĐỀ TÀI

THỦ TỤC CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG
THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Phương Thảo

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dân đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

LTHADS

: Luật thi hành án dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

THADS

: Thi hành án dân sự


UBND

: Ủy ban nhân dân

VBTTDS

: Văn bản tố tụng dân sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
7. Bố cục của luận văn
Chương 1. MỘT SỐVẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT,
THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng dân sự

1.2. Cơ sở của việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
dân sự
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định cấp, tống đạt và
thông báo văn bản tố tụng dân sự
1.3. Các yếu tố tác động đến việc cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng dân sự
1.3.1. Yếu tố pháp lý
1.3.2. Yếu tố con người
1.3.3. Các yếu tố khác
1.4. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
1.4.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

1
1
2
2
3
3
3
4
5
5
5
10
12
12
13

14
14
15
15
16
16
17


1.4.3 Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM
2015 VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG
DÂN SỰ
2.1. Các văn bản tố tụng dân sự được cấp, tống đạt, thông báo
2.1.1. Các văn bản tố tụng dân sự được cấp, tống đạt, thơng báo bởi
Tịa án nhân dân
2.1.2. Các văn bản tố tụng dân sự được cấp, tống đạt, thông báo bởi
Viện kiểm sát nhân dân
2.1.3. Các văn bản tố tụng dân sự được cấp, tống đạt, thông báo bởi
cơ quan thi hành án dân sự
2.2. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
2.2.1. Chủ thể có nghĩa vụ cấp, tống đạt và thông báo văn bản tố
tụng dân sự
2.2.2. Chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
2.3. Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
2.3.1 Thủ tục cấp, tống đạt và thông báo trực tiếp
2.3.2 Thủ tục niêm yết công khai
2.3.3 Thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
2.3.4. Thủ tục cấp tống đạt thông báo bằng phương tiện điện tử
2.3.5. Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự của

Tòa án trong trường hợp đương sự ở nước ngoài
Chương 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ THỦ TỤC CẤP,
TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
3.1.1. Những hạn chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng dân sự
3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành hoạt động

18
22
22
22
25
26
28
28
33
34
35
44
47
50
55

63


63

63
66


cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng dân sự
3.2.1. Kiến nghị hồn thiện pháp luật cấp, tống đạt, thơng báo văn
bản tố tụng dân sự
3.2.2. Kiến nghị đảm bảo thực hiện pháp luật cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng dân sự
KẾT LUẬN

72
72
75
77


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, nước ta đang hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do đó, cơng cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta đã và đang tiếp tục được quan tâm, chú trọng. Nhiệm
vụ cải cách tư pháp đã được Đảng ta đề cập tại Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2000 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác

tư pháp trong giai đoạn tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu là xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công
lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân. Để thực hiện mục tiêu này, một
trong những yếu tố cần thiết là phải có hệ thống pháp luật hồn thiện, phù
hợp, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn.
Hoạt động giải quyết, xét xử vụ việc dân sự và hoạt động thi hành án
dân sự (THADS) của các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan THADS là
trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp. Bởi các cơ quan này có thực hiện
tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình mới xây dựng được nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự (VBTTDS)
là một phần quan trọng trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
cơ quan THADS. Hoạt động này là cầu nối giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng, cơ quan THADS với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong
q trình xét xử, thi hành án dân sự. Hiện nay, có nhiều văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành hoạt động cấp, tống đạt, thông báo
VBTTDS như: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015), Luật Thi
hành án dân sự (LTHADS) cùng các văn bản hướng dẫn thi hành... Nhưng từ
thực tiễn áp dụng các quy định về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS nhận
thấy vẫn cịn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài " Thủ tục cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015" làm
luận văn tốt nghiệp sau đại học của mình với mong muốn góp phần làm rõ


2

hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS,
qua đó đưa ra được một số kiến nghị hoàn thiện đối với thủ tục này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề cấp, tống đạt, thông báo
VBTTDS đã được quan tâm, nghiên cứu. Có nhiều cơng trình nghiên cứu lấy
cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp của
mình như các cơng trình nghiên cứu của các tác giả sau: Nguyễn Kim Giang,
Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; Phạm Phương Thảo, Cấp,
tống đạt, thơng báo văn bản tố tụng của Tịa án, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2015. Các khóa luận và luận văn này đã trình bày,
phân tích làm rõ nhiều nội dung của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo
VBTTDS. Tuy nhiên, kể từ khi BLTTDS năm 2015 được ban hành và có hiệu
lực thi hành (ngày 01/7/2016) đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào về
thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS theo quy định của BLTTDS năm
2015. Trong khi đó, BLTTDS năm 2015 có nhiều quy định mới về thủ tục
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng so với BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ
sung năm 2011.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu trên cịn một số bài viết về cấp,
tống đạt, thông báo VBTTDS trên các báo, tạp chí, trang tin điện tử. Tuy
nhiên, các bài viết này chỉ dừng lại ở việc giải thích các quy định của pháp
luật mà chưa trình bày một cách đầy đủ và toàn diện những vấn đề lý luận về
cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng và thực tiễn áp dụng các quy
định đó.
Phạm vi nghiên cứu đề tài được tập trung vào những vấn đề lý luận cơ
bản về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở và


3


các yếu tố tác động đến cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS; các quy định hiện
hành của pháp luật tố tụng dân sự về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS; thực
tiễn thi hành các quy định của pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ được một số vấn đề lý
luận về cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS; phân tích được các quy định của
pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS; đánh giá đúng những hạn
chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành để từ đó đưa ra được những kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác định cụ thể như sau: Nghiên cứu
những vấn đề lý luận về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS; Đánh giá đúng
những hạn chế trong các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về cấp, tống
đạt, thông báo VBTTDS; Đánh giá đúng thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS; Đưa ra các giải pháp hoàn
thiện quy định pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, cịn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê để làm rõ các nội dung cần
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã kế thừa kết quả của một số cơng trình nghiên cứu trước
đây về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS. Tuy nhiên, luận văn đã có
những nghiên cứu sâu hơn, tồn diện hơn về những vấn đề lý luận của thủ
tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS và đưa ra được những kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật đối với thủ tục này. Kết quả nghiên cứu của
luận văn là nguồn tham khảo có giá trị đối với các nghiên cứu về thủ tục

cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS sau này.


4

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm các chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng dân sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015
về cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự và kiến
nghị.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO
VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là một hoạt động trong
tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan THADS có
nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự cho đương sự,
những người tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan.
Để tìm hiểu về hoạt động tố tụng này, trước tiên cần phải làm rõ một số khái

niệm sau đây:
Thứ nhất, văn bản tố tụng dân sự
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể nào về khái niệm văn bản
tố tụng dân sự. Tuy nhiên, qua nghiên cứu có thể khái quát được một số đặc
điểm của VBTTDS như sau:
- VBTTDS được ban hành bởi cơ quan tiến hành tố tụng dân sự (Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân), cơ quan THADS, người tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền của cơ quan THADS. Các VBTTDS được thể hiện dưới
những hình thức pháp lý nhất định như bản án, quyết định, giấy báo, giấy
triệu tập đương sự, thông báo ... Những văn bản không phải do các chủ thể
trên ban hành ra thì khơng được coi là VBTTDS.
- VBTTDS được ban hành dựa trên cơ sở là các văn bản quy phạm
pháp luật như Bộ luật tố tụng dân sự, Luật thi hành án dân sự và các văn bản
pháp luật chuyên ngành khác như Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự
... Hay nói cách khác, VBTTDS là văn bản áp dụng pháp luật.
- VBTTDS phải được ban hành theo trình tự thủ tục mà pháp luật quy
định. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ
quan THADS không được tùy tiện ban hành các văn bản tố tụng không đúng


6

trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Các VBTTDS ban hành trái trình tự,
thủ tục mà pháp luật quy định đều khơng có giá trị pháp lý.
- VBTTDS mang tính cá biệt đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đồng
thời VBTTDS cũng chỉ rõ quyền và nghĩa vụ mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó
phải thực hiện.
Như vậy, trên cơ sở phân tích những đặc điểm trên, có thể đưa ra khái
niệm VBTTDS như sau: Văn bản tố tụng dân sự là văn bản do cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ quan THADS ban hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật

quy định, mang tính cá biệt đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm xác định
quyền và nghĩa vụ của họ phải thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự.
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, có thể phân VBTTDS thành nhiều
loại. Nếu căn cứ vào cơ quan ban hành, có thể phân loại thành VBTTDS của
Tịa án, VBTTDS của Viện kiểm sát, văn bản tố tụng của cơ quan THADS.
Nếu phân loại theo tính chất của hoạt động tố tụng, có thể phân loại VBTTDS
thành văn bản về thủ tục tố tụng và văn bản về nội dung. Các văn bản về thủ
tục tố tụng gồm có quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, giấy
triệu tập, giấy mời, thông báo, quyết định đưa vụ án ra xét xử,... Văn bản về
nội dung vụ việc bao gồm các loại biên bản (Biên bản lấy lời khai, biên bản
hòa giải, biên bản xác minh...), bản án, quyết định...Nếu phân loại theo các
giai đoạn tố tụng, có thể phân loại thành VBTTDS được ban hành trong giai
đoạn thụ lý vụ án, xác minh thu thập chứng cứ, hòa giải và chuẩn bị xét xử,...
Theo quy định tại Điều 171 BLTTDS năm 2015, các văn bản tố tụng
phải được cấp, tống đạt, thông báo bao gồm: thông báo, giấy báo, giấy triệu
tập, giấy mời trong tố tụng dân sự; bản án, quyết định của Tòa án; quyết định
kháng nghị của Viện kiểm sát; các văn bản của cơ quan THADS; các văn bản
tố tụng khác mà pháp luật có quy định. Trong các văn bản trên, có văn bản
được cấp, có văn bản được tống đạt, thơng báo. Sau đây, ta sẽ đi vào tìm hiểu
các thuật ngữ "cấp", "tống đạt", "thông báo" văn bản tố tụng dân sự.


7

Thứ hai, cấp văn bản tố tụng dân sự.
Theo Từ điển tiếng Việt, "cấp" được hiểu là giao cho hưởng, giao cho
toàn quyền sử dụng1. Đây là cách hiểu khái quát nhất, chung nhất về thuật
ngữ "cấp".
VBTTDS được ban hành bởi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng, cơ quan THADS, người có thẩm quyền của cơ quan THADS nên về
nguyên tắc việc cấp VBTTDS trước tiên do các cá nhân, cơ quan này trực tiếp
thực hiện. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật các cơ quan này có thể giao
cho các cá nhân, cơ quan khác thực hiện việc cấp VBTTDS.
Trên cơ sở định nghĩa từ "cấp" và mục đích của việc cấp VBTTDS, có
thể hiểu: Cấp VBTTDS là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan
THADS giao VBTTDS cho đương sự, người tham gia tố tụng khác và các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan để họ nhận, sử dụng văn bản và thực
hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình.
Các văn bản phải thực hiện theo hình thức cấp là các bản án, quyết định
của Tòa án hoặc các quyết định thi hành án.
Thứ ba, tống đạt văn bản tố tụng dân sự
Theo từ điển tiếng Việt, "tống" có nghĩa là đưa đến, gửi đến mà bất
chấp có đồng ý nhận hay khơng2 và "đạt" có nghĩa là đến được mục đích, thực
hiện được mục tiêu đã đề ra, đúng với yêu cầu ở mức tương đối3. Theo từ điển
luật học, "tống đạt" được hiểu là việc chuyển đến đương sự giấy tờ cần thiết
của cơ quan tư pháp4.
____________________
1

Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr.169.

2

Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr.1302.

3

Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr.386.


4

Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Nhà xuất

bản Tư pháp, Hà Nội, tr.799.


8

Từ những cách định nghĩa trên, có thể hiểu tống đạt là việc cơ quan tiến hành
tố tụng chuyển, giao VBTTDS cho đương sự, người tham gia tố tụng khác, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Hoạt động tống đạt VBTTDS trước tiên
cũng do cơ quan ban hành văn bản trực tiếp thực hiện. Các cơ quan này cũng
có thể giao cho các cá nhân, cơ quan khác thay mình thực hiện việc tống đạt
VBTTDS theo quy định pháp luật.
Tống đạt VBTTDS là hoạt động mang tính bắt buộc đối với cả cơ quan
ban hành VBTTDS và người nhận văn bản tố tụng. Cơ quan ban hành
VBTTDS có nghĩa vụ phải giao được VBTTDS cho người cần tống đạt
VBTTDS cho dù người nhận có đồng ý nhận hay không đồng ý nhận. Yếu tố
bắt buộc đối với cơ quan ban hành văn bản trong hoạt động tống đạt
VBTTDS có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền cho người nhận văn
bản. Do đó, cơ quan ban hành VBTTDS phải thực hiện được đầy đủ các biện
pháp tống đạt cần thiết mà pháp luật quy định để từ đó có căn cứ khẳng định
là người được tống đạt đã nhận được VBTTDS. Đối với người được tống đạt
thì "buộc" phải nhận VBTTDS để thực hiện các nội dung trong văn bản.
Tính bắt buộc của hoạt động tống đạt cao hơn so hoạt động cấp
VBTTDS ở chỗ người được tống đạt buộc phải nhận văn bản để thực hiện
nghĩa vụ của mình. Việc họ thực hiện các nghĩa vụ theo nội dung văn bản
được tống đạt hay khơng chính là cơ sở xác định họ thực hiện, từ bỏ hay vi
phạm nghĩa vụ và là cơ sở để cơ quan ban hành VBTTDS thực hiện các hoạt

động tố tụng hoặc áp dụng các biện pháp tiếp theo để giải quyết vụ việc dân
sự hoặc THADS. Còn việc cấp VBTTDS có thể khơng phải là bắt buộc đối
với cả hai bên. Người được cấp VBTTDS có nhận hay khơng cũng khơng ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án. Ví dụ: Việc cấp trích lục bản án, nếu chủ thể
được nhận cảm thấy cần thiết thì họ có quyền u cầu được nhận từ Tịa án,
cịn nếu họ khơng thấy cần thiết thì có thể khơng nhận.
Từ những nội dung phân tích trên đây, có thể định nghĩa về tống đạt
VBTTDS như sau: Tống đạt VBTTDS là việc cơ quan tiến hành tố tụng, cơ


9

quan THADS thực hiện đầy đủ các biện pháp mà pháp luật quy định nhằm
chuyển giao và buộc đương sự, người tham gia tố tụng khác, cá nhân, cơ
quan, tổ chức có liên quan phải nhận văn bản tố tụng để họ thực hiện nghĩa
vụ của mình.
Các văn bản được tống đạt thường là các văn bản có nội dung buộc
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có mặt tại cơ quan tiến hành tố tụng,
cơ quan THADS để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng hoặc quyền và
nghĩa vụ về thi hành án của họ, các văn bản này bao gồm: giấy báo, giấy triệu
tập đương sự, người làm chứng, quyết định đưa vụ án ra xét xử...
Thứ tư, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Theo từ điển tiếng Việt thì "thơng báo" được hiểu là báo cho mọi người
biết tình hình, tin tức5. Chủ thể thực hiện việc thơng báo là Tịa án, Viện kiểm
sát, cơ quan THADS. Mục đích của thơng báo VBTTDS là để chủ thể nhận
được biết văn bản tố tụng đó được ban hành với nội dung gì. Các VBTTDS
được thông báo là các văn bản tố tụng được ban hành trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự như: Thông báo thụ lý vụ án,
thông báo về việc kháng cáo, thông báo từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành
án...

Thông báo VBTTDS có điểm giống với cấp và tống đạt VBTTDS ở
chỗ đều là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THADS nhằm
truyền đạt thông tin cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc
để họ biết được nội dung vụ việc và các quyền, nghĩa vụ của mình cần thực
hiện. Nhưng thơng báo và cấp VBTTDS cũng có điểm khác nhau ở chỗ thông
báo VBTTDS là nhằm truyền tải nội dung của văn bản đó cho người nhận
được biết. Cịn đối với cấp VBTTDS thì đối tượng cấp chính là các văn bản,
tài liệu hiện hữu để người nhận sử dụng nhằm thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình. Ví dụ: Tịa án thông báo về việc thụ lý vụ việc dân sự cho
____________________
5

Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr.1224.


10

bị đơn, cá nhân, tổ chức có liên quan để họ biết về các yêu cầu nguyên đơn;
Tòa án cấp bản án cho đương sự để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình đã được tuyên trong bản án hoặc để họ thực hiện quyền kháng cáo...
Thông báo và tống đạt VBTTDS cũng có điểm khác nhau. Đối với tống
đạt VBTTDS thì việc giao văn bản và nhận văn bản là yếu tố bắt buộc đối với
cả người giao và người nhận văn bản. Cịn đối với thơng báo VBTTDS thì đối
tượng cần truyền đạt đến người được thơng báo chính là nội dung thơng tin
ghi trong VBTTDS. Việc thực hiện thơng báo có thể khơng mang tính bắt
buộc đối với bên nhận thông báo, thực hiện hoặc không thực hiện thông báo
là tùy vào họ quyết định. Ví dụ: Tịa án thơng báo cho người khởi kiện đến
Chi cục Thi hành án dân sự để nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm. Người
khởi kiện có quyền thực hiện hoặc khơng thực hiện nộp tiền tạm ứng án phí.
Nếu họ khơng thực hiện thì coi như từ bỏ yêu cầu khởi kiện.

Tóm lại, cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS đều là hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, cơ quan THADS chuyển giao văn bản tố tụng hoặc
truyền đạt thông tin của văn bản đó đến các chủ thể liên quan để họ được biết
nội dung văn bản, nhận và sử dụng văn bản, từ đó để họ có cơ sở thực hiện
các quyền, nghĩa vụ của mình. Tùy từng trường hợp mà cơ quan tiến hành tố
tụng, cơ quan THADS lựa chọn hình thức cấp, tống đạt hay thông báo cho
phù hợp.
1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng dân sự
Hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS có ý nghĩa quan trọng đối
với việc giải quyết vụ việc dân sự. Đánh giá ở mỗi khía cạnh, mỗi chủ thể thì
hoạt động này lại có ý nghĩa nhất định.
- Đối với đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan đến vụ việc, hoạt động
cấp, tống đạt, thông báo có vai trị vơ cùng quan trọng, giúp cho họ nhận được
hoặc biết được nội dung VBTTDS. Qua đó, đương sự, cá nhân, tổ chức có
liên quan biết được các quyền, nghĩa vụ của mình, tạo điều kiện để họ bảo vệ


11

quyền và lợi ích hợp pháp trước cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THADS.
Ví dụ: Việc thơng báo nộp tiền tạm ứng án phí giúp người khởi kiện biết được
nghĩa vụ của mình phải nộp bao nhiêu tiền tạm ứng án phí, nếu khơng nộp
trong thời hạn quy định thì bị coi là từ bỏ yêu cầu khởi kiện... Bên cạnh đó,
việc cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS được thực hiện đúng pháp luật sẽ hạn
chế được việc khiếu nại, tố cáo của cơng dân nói chung, của những người
tham gia tố tụng nói riêng.
- Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THADS, thông qua
hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS sẽ giúp các cơ quan này đảm
bảo thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong việc giải quyết vụ việc

dân sự. Về phía Viện kiểm sát, hoạt động này góp phần thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động giải quyết vụ việc dân sự
của Tòa án, hoạt động thi hành án của cơ quan THADS. Với Tịa án, cấp, tống
đạt, thơng báo VBTTDS giúp thực hiện chức năng xét xử, thông báo đến các
chủ thể có liên quan những nội dung của việc giải quyết vụ việc dân sự để từ
đó họ nắm được q trình Tịa án thực hiện các hoạt động tố tụng cũng như để
họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Với cơ quan THADS, hoạt động
này báo cho các chủ thể liên quan để họ thực hiện hoặc phối hợp với cơ quan
THADS để thi hành các bản án, quyết định dân sự.
- Đối với việc giải quyết nội dung vụ án, hoạt động cấp, tống đạt, thơng
báo VBTTDS có ý nghĩa rất lớn, giống như sợi dây liên kết các giai đoạn giải
quyết vụ án từ giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án, xác minh thu thập chứng
cứ đến xét xử sơ thẩm, kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm... Tuy khơng
mang tính chất quyết định đối với các giai đoạn tố tụng trên nhưng cấp, tống
đạt, thơng báo lại có những ảnh hưởng hỗ trợ nhất định. Nếu việc cấp, tống
đạt, thông báo VBTTDS được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của
pháp luật sẽ là cơ sở tiền đề cho các hoạt động khác được thực hiện. Ngoài ra,
việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS được thực hiện nhanh hay chậm cũng
ảnh hưởng rất lớn đến thời gian giải quyết các vụ việc dân sự. Nếu thực hiện


12

tốt hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS sẽ đảm bảo việc giải quyết
các vụ việc dân sự đúng thời hạn luật định, không bị quá hạn.
1.2. Cơ sở của việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc cấp, tống đạt, thơng báo văn bản tố tụng
dân sự
Q trình giải quyết các vụ việc dân sự, ở mỗi giai đoạn, cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ quan THADS đều phải thực hiện các hoạt động nhất định và

hầu hết các hoạt động này bắt buộc phải có sự tham gia của đương sự, người
tham gia tố tụng khác hoặc các chủ thể có liên quan. Vì vậy, cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ quan THADS phải thực hiện các hoạt động cấp, tống đạt,
thông báo VBTTDS cho các chủ thể có liên quan để họ biết được nội dung
mà cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THADS yêu cầu đối với họ, từ đó các
chủ thể liên quan biết được các quyền nghĩa vụ của họ để thực hiện. Do đó, để
hoạt động cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS đạt được hiệu quả, đảm bảo đạt
được các mục đích, ý nghĩa đặt ra thì việc pháp luật quy định điều chỉnh đối
với các hoạt động về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS là cần thiết và bắt
buộc.
Hiện nay, Nhà nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề cải cách tư pháp cũng là một nhiệm vụ quan
trọng với mục tiêu là xây dựng Nhà nước pháp quyền với nền tư pháp hoạt
động có hiệu quả. Việc đổi mới và tăng cường hiệu quả của hoạt động tư pháp
trong đó có hoạt động tố tụng với thủ tục cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS
cũng được đặt ra. Theo đó, Đảng ta đã ban hành một số Nghị quyết như Nghị
quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW); Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
(Nghị quyết số 49/NQ-TW). Trong đó Nghị quyết số 49/NQ-TW đã khẳng
định: "Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự… Sớm hoàn thiện hệ thống


13

pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật"6.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày
04/4/2016 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 01-KL/TW về việc tiếp tục

thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW. Trong đó, Kết luận nêu rõ một trong
những nhiệm vụ và giải pháp thực hiện cải cách tư pháp trong thời gian tới là:
"Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; huy động
sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức thành viên đối với công tác xây dựng pháp luật và giám
sát thi hành pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải gắn với tổ chức
thi hành pháp luật, củng cố các thiết chế thi hành pháp luật, đảm bảo pháp
luật vừa là công cụ quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám
sát việc thi hành pháp luật"7.
Hơn nữa, thực hiện theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về đảm bảo
quyền con người, đảm bảo quyền lợi của công dân, sự phân công thẩm quyền
của Tòa án, Viện kiểm sát phải rõ ràng, minh bạch và phù hợp với chức năng
của mình. Với chức năng là cơ quan tư pháp, để hoạt động của Tòa án và
Viện kiểm sát được thực hiện hiệu quả, đặc biệt là đối với việc giải quyết vụ
việc dân sự được nhanh gọn, tiết kiệm cả về thời gian và tiền bạc thì hệ thống
pháp luật liên quan đến thủ tục tố tụng (trong đó có thủ tục cấp, tống đạt,
thơng báo VBTTDS) cần được hồn thiện hơn là một tất yếu trong cải cách tư
pháp hiện nay.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định cấp, tống đạt và
thông báo văn bản tố tụng dân sự
Nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường
___________________
6

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

7

Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-

TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020.


14

theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì
các quan hệ pháp luật dân sự cũng ngày càng gia tăng và phức tạp hơn, kéo
theo sự gia tăng các tranh chấp dân sự. Vì vậy, yêu cầu giải quyết vụ việc dân
sự hiệu quả, chính xác, nhanh gọn vẫn đang được đặt ra. Theo đó, việc hồn
thiện các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự (bao gồm cả thủ tục
cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS) là địi hỏi khách quan, tất yếu của thực
tiễn.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự, có thể thấy hoạt động
cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS của Tịa án, Viện kiểm sát, cơ quan
THADS có liên quan mật thiết đến hoạt động xét xử và thi hành án. Hơn nữa,
với sự gia tăng các tranh chấp dân sự thì việc quá tải trong hoạt động cấp,
tống đạt, thông báo VBTTDS đang là thực trạng khơng tránh khỏi. Do đó,
hồn thiện các quy định của pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS
cũng là đẩy mạnh việc giải quyết nhanh gọn, hiệu quả các vụ việc dân sự.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng dân sự
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác động đến thực hiện hoạt động cấp, tống
đạt, thông báo VBTTDS. Các yếu tố đó làm cho hoạt động cấp, tống đạt,
thơng báo VBTTDS được thực hiện nhanh chóng hoặc cũng có thể gây cản
trở, khó khăn cho hoạt động này.
1.3.1. Yếu tố pháp lý
Để hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS được thực hiện tốt
trước hết cần đảm bảo được tính pháp lý.
Trước tiên, để đảm bảo được tính pháp lý của hoạt động cấp, tống đạt,
thơng báo VBTTDS cần ban hành các VBTTDS đúng về thẩm quyền, đúng

theo trình tự, thủ tục ban hành, đúng về nội dung, hình thức văn bản theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, khi thực hiện cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS cần thực hiện
đúng thẩm quyền. Người thực hiện phải tuyệt đối tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của pháp luật. Các bước tiến hành, các phương thức


15

sử dụng cũng cần phải thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật đồng
thời phải đảm bảo nguyên tắc của pháp luật tố tụng dân sự.
1.3.2. Yếu tố con người
Để thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS có hiệu quả thì
khơng thể khơng kể đến yếu tố con người. Hoạt động cấp, tống đạt, thông báo
VBTTDS là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THADS, tuy
nhiên không chỉ được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng, những
người có thẩm quyền của các cơ quan này mà còn được thực hiện bởi các chủ
thể khác như cán bộ của UBND cấp xã, tổ trưởng tổ dân phố, nhân viên dịch
vụ bưu chính... Khi thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS,
các chủ thể có nghĩa vụ thực hiện cần đảm bảo được nguyên tắc vô tư, khách
quan, tuân thủ quy định của pháp luật. Nếu người thực hiện cố tình thực hiện
việc cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS khơng đúng pháp luật hoặc gây khó dễ
cho đương sự, cá nhân tổ chức có liên quan thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được nhận VBTTDS. Ngoài ra,
các chủ thể thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS cần có tinh thần
trách nhiệm đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để hoạt động cấp,
tống đạt, thông báo VBTTDS được thực hiện có hiệu quả.
1.3.3. Các yếu tố khác
Ngoài yếu tố pháp lý và yếu tố con người tác động đến hoạt động cấp,
tống đạt, thông báo VBTTDS cịn có các yếu tố ảnh hưởng khác như: điều

kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, cơ sở vật chất hạ tầng, trình độ dân trí... Tại các
địa phương có điều kiện tự nhiên khó khăn, hay những vùng miền núi xa xôi
giao thông đi lại không thuận lợi đã gây khó khăn cho những trường hợp thời
hạn cấp, tống đạt, thơng báo VBTTDS ngắn. Hơn nữa, trình độ dân trí, ý thức,
hiểu biết pháp luật của người dân cũng không đồng đều nên việc người nhận
văn bản trốn tránh, không hợp tác với người thực hiện cấp, tống đạt, thông
báo VBTTDS cũng làm mất nhiều thời gian và chi phí thực hiện, từ đó kéo
theo hoạt động giải quyết, xét xử vụ việc dân sự bị kéo dài.


16

1.4. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tun ngơn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bộ máy nhà nước ta bắt đầu đi vào hoạt
động, hệ thống pháp luật cũng được xây dựng và hoàn thiện dần để phục vụ
nhu cầu của thực tế. Đầu tiên phải kể đến các Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959 và Hiến Pháp năm 1980. Đây là những đạo luật cơ bản để thực hiện
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, của đất nước trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Các văn bản pháp luật liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp cũng được ban hành như Sắc lệnh số 85/SL ngày
20/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng, Luật tổ chức Tòa án nhân
dân (TAND) năm 1960, Luật tổ chức TAND năm 1980, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 1960, Luật tổ chức VKSND năm 1980.
Ngoài ra, một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự như chế
định hòa giải, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm…
cũng dần được quy định. Tuy nhiên, các quy định này chưa được tập trung
trong một đạo luật cụ thể nào mà nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác

nhau. Do hệ thống pháp luật mới bắt đầu được xây dựng nên các quy định về
cấp, tống đạt và thông báo VBTTDS chưa cụ thể và khó được thực hiện trên
thực tế.
Cho đến sau khi đất nước thống nhất, tình hình kinh tế, chính trị của
nước ta dần đi vào ổn định thì hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS
mới được chú trọng hơn. Tòa án nhân dân tối cao (TAND tối cao) đã ban
hành Thông tư số 53/TATC ngày 23/6/1977 hướng dẫn về thủ tục tống đạt.
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên của nước ta quy định cụ thể về thủ tục tống
đạt văn bản tố tụng. Thông tư này đã xác định rõ những loại giấy tờ cần phải
tống đạt cho những người tham gia tố tụng, người làm nhiệm vụ tống đạt, thủ
tục tống đạt và hướng dẫn cách làm giấy tờ tống đạt. Ngồi ra, Thơng tư này
cịn quy định giải quyết những trường hợp tống đạt vắng mặt, đương sự cố


17

tình giấu địa chỉ, khơng chịu nhận tống đạt...đồng thời quy định một số mẫu
biên bản tống đạt để Tòa án các cấp áp dụng.
Việc tống đạt văn bản đối với những hoạt động có yếu tố nước ngồi
cũng được đưa vào quy định trong một số Hiệp định tương trợ tư pháp như
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và hình sự giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp
Khắc ngày 12/10/1982. Trong Hiệp định này quy định hoạt động tống đạt
chuyển giao giấy tờ cho người đang thường trú ở nước bên kia được thực hiện
thông qua ủy thác tống đạt giấy tờ, yêu cầu của giấy biên nhận về tống đạt
hoặc trường hợp không thực hiện được việc tống đạt giấy tờ ở địa chỉ đã ghi
thì bên tống đạt sẽ phải làm gì…
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989, ở thời kỳ đầu do
chiến tranh nên hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS vẫn chưa được
chú trọng. Sau khi miền Nam được giải phóng và đất nước được thống nhất

thì hoạt động này đã được quan tâm, chú trọng hơn. Tuy nhiên, do mới bắt
đầu xây dựng nên các quy định vẫn chưa đầy đủ, rõ ràng. Mặc dù vậy, đây
cũng là cơ sở để pháp luật về cấp, tống đạt và thông báo VBTTDS ở các giai
đoạn sau hoàn thiện hơn.
1.4.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Trong giai đoạn này thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được quy định
trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 17/12/1989 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội; thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được quy định
trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, thủ tục
giải quyết các vụ án lao động được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996. Các Pháp lệnh này đều có các
quy định liên quan đến thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS như quy
định tại các Điều 57, 61 và 73 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự; các Điều 40, 57, 63 và 76 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động; các Điều 33, 34, 64 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế. Tuy nhiên, các Pháp lệnh này chưa quy định phương thức thực hiện và


18

thực hiện như thế nào mới là cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS hợp lệ mà
chủ yếu chỉ quy định phải cấp, tống đạt, thông báo đối với loại văn bản tố
tụng nào, thời hạn phải thực hiện việc cấp, tống đạt, thơng báo, trách nhiệm
của Tịa án.
Việc thực hiện các hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong
giai đoạn này vẫn chủ yếu dựa vào các quy định trong Thông tư số 53/ TATC
ngày 23/6/1977 của TAND tối cao; Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990
của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, trong đó có
hướng dẫn một số trường hợp cụ thể phải niêm yết giấy triệu tập phiên tịa và

thủ tục thơng báo nhắn tin trên phương tiện thông tin đại chúng; Công văn số
29/NCPL ngày 06/4/1992 của TAND tối cao hướng dẫn giải quyết các vụ án
ly hôn với một bên đương sự đang ở nước ngồi, trong đó có đề cập đến việc
thơng báo và lấy lời khai đương sự qua cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở
nước ngoài…. Như vậy, ở giai đoạn này các quy định về cấp, tống đạt và
thông báo VBTTDS vẫn còn nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau...
Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh THADS được Ủy ban thường vụ Quốc hội
ban hành có quy định về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS nhưng chưa cụ
thể. Pháp lệnh THADS năm 1993 được ban hành ngày 17/3/1993 đã thay thế
Pháp lệnh THADS năm 1989. Hoạt động cấp, tống đạt và thông báo
VBTTDS được quy định tại Điều 28 và Điều 34 của Pháp lệnh này. Tuy
nhiên, các quy định này của Pháp lệnh cũng chỉ xác định được các văn bản
phải gửi cho đương sự và những cá nhân, tổ chức có liên quan bao gồm: các
quyết định THADS, cưỡng chế THADS, hỗn THADS, tạm đình chỉ
THADS, khơi phục thời hiệu THADS, phạt tiền, trả lại đơn yêu cầu
THADS... Nhìn chung là các quy định về cấp, tống đạt và thông báo
VBTTDS trong hoạt động THADS thời kỳ này vẫn còn sơ sài, chưa đầy đủ.
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Sau khi Bộ chính trị thơng qua Nghị quyết số 08-NQ/W ngày
02/01/2002 và một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời


×