Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Những phẩm chất nhân cách của người thẩm phán trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.74 MB, 227 trang )


TR Ư Ờ N G ĐẠI H Ọ C LUẬT HÀ NỘI

ĐỂ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯÒNG


NHỮNG PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA
NGƯỜI THẨM PHÁN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
Chủ nhiệm đề tài: Ths. ĐẶNG THANH NGA
Thư ký đề tài:

Ths. BÙI KIM CHI

TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHÒNG DỌC _ T0 f q

HÀ NỘI, NÃM 2003


DANH SÁCH CÁC CỘNG TÁC VIÊN


1 ThS. Đ ẶNG TH ANH NGA

Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội

2 ThS. BÙI KIM CHI



Giảng vicn Trường Đại học Luật Hà Nội

3.TS. PHẠM VĂN LỢI

Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp

4.T hS. PHAN CÔNG LUẬN

Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội

5.ThS. CHU VĂN ĐỨC

Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội

6.ThS. PHAN KIỂU HẠNH

Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội




BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CNXH
NXB
TK
TP
TA
TAND
TS

PGS
GS
XHCN
C.Phó án

Chủ nghĩa xã hội
Nhà xuất bản
Thư ký
Thẩm phán
Toa án
Tồ án nhân dân
Tiến sỹ
Phó giáo sư
Giáo sư
Xã hội chủ nghĩa
Chánh án, Phó chánh án

np

V

X


MỤC LỤC

1.

Tổng thuật kết quá nghiên cứu của đề tài


]

2.

Những vấn đề lý luận về nhân cách và phẩm chất nhân cách

31

3.

Một số vấn đề về chức năng, quyyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán

49

theo qui định của pháp luật hiện hành
4.

Đặc thù nghề nghiệp của Thẩm phán

58

5.

Những phẩm chất nhân cách của người thẩm phán

70

6.

Đặc điểm tâm lý của hoạt động xét xử và ảnh hưởng của một số yếu


85

tố tâm lý đến kết quả của hoạt động xét xử nói chung và việc ra bản
án, quyết định nói riêng
7.

Phong cách giao tiếp của Thẩm phán trong hoạt động xét xử

102

8.

Phương pháp và tổ chức nghiên cứu

119

9.

Thực trạng nhận thức về vị trí của các phẩm chất nhân cách thẩm

127

phán trong giai đoạn hiên nay
10.

Thực trạng biểu hiện về các phẩm chất nhân cách thẩm phán trong

152


giai đoạn hiện nay
Phụ lục 1

174

Phụ lục 2

175

Phụ lục 3

189


Tổ

THUẬT KỄT ỌUẢ NGHIẾN

cứu ĐỂ TRI

NHỮNG p h ẩ m c h ấ t n h â n c á c h c ủ a n g ư ờ i t h ẩ m
P H Á N T R O N G G IA I Đ O Ạ N H IỆ N N A Y
1. PHẨN MỞ ĐẨU
l.l.T ín h cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đang tiến hành cơng
cuộc đổi mới một cách tồn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, nhằm xây dựng
một nhà nước pháp quyền XHCN. Một trong những yêu cầu cấp bách của việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là đổi mới hệ thống tư pháp nói chung, đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tồ án các cấp nói riêng. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định : “Cải cách tổ chức, nâng cao chất

lượng và hoạt cíộniị của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ
quan và cân bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi
hành án, không đ ể xảy ra các trường họp oan sai'’ và : “ sắp xếp lại hệ thống TAND,
phân định h(Ịp lý thẩm quyền của Ttìà án các cấp. Tăng cường đội ngũ Thấm phán và
Hội thẩm nhân dân cả về sơ' lượng và chất lượng”. Nhìn trong tổng thể hộ thống tư
pháp, đội ngũ thẩm phán có vị trí quan trọng - là người đại diện cho Nhà nước bảo vệ
sự công băng xã hội cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hựp pl)úp của con người. Hoại
động của họ có ảnh hưởng lớn tới tính cơng minh của pháp luật, uy tín và nền cơng lý
của một quốc gia, đồng thời góp phần giáo dục cơng dân có ý thức pháp luật. Vậy mà
lìiện nay khi nhận định về đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ thẩm phán nói
riêng, Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị “Về mộl số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” nêu rõ : “Công tác cán bộ của các cơ
quan tư pháp chưa lĩáp ỨHỊ>dược yêu cầu của tình hình hiện nay. Dội Híịũ cán bộ tư
pháp cỏn thiếu về s ố lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phấn tiêu
cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản tĩnh, sa sút về đạo đức”.
Bên cạnh đó xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ chính trị của Đáng và Nhà
nước, trong giai đoạn hiện nay địi hỏi hơn lúc nào hết cơng tác bồi dưỡng, đào tạo
cán bộ phải được chú trọng. Chính vì vậy việc khảo sát đánh giá đúng thực trạng về
phẩm chất nhân cách người thẩm phán là một yêu cầu cấp bách và cần thiết khơng chỉ
có ý nghĩa về mặt lí luận mà cịn có ý nghĩa về mặt thực tiễn.

1


Xuất phát từ lý do trên chúng tôi chọn đề tài : “ Những phẩm chất nhấn cách
của người thẩm phán trong giai đoạn hiện nay”.
1.2 Tinh hình nghiên cứu.
Qua hơn 10 năm kể từ khi đất nước đổi mới, việc nghicn cứu đổi mới tổ chức và
hoat động của TAND đã được tiến hành. Bộ tư pháp có đề tài từ năm 1987 - 1990,
TAND Tối cao cũng tổ chức nghiên cứu về quá trình phát triển TA ở Việt Nam. Dự án

cải cách tư pháp ở Việt Nam do Canada và Bộ Tư pháp hợp tác nghiên cứu đã có
những kết quả nhất định. Gần đây đề tài cấp Bộ : “Quy chế T h ản phán” ( từ 3/1999
đến 3/2000) đã nghiên cứu một số vấn đề như : tiêu chuẩn đạo đức nghề Thẩm phán,
cơ chế pháp lý bảo đảm cho Thẩm phán hoạt động có hiệu quả
Việc nghiên cứu nhân cách của người thẩm phán đã được một số tác giả đề cập
ở một vài khía cạnh như TS. Nguyễn Đình Lộc Irong bài giảng cho học viên lớp đào
tạo nguồn Thẩm phán đã viết về “Những yêu cầu về đạo đức và thẩm mỹ đối với
người thẩm phán”, hay tác giả Nguyễn Văn Hiển trong đề tài khoa học cấp Bộ “Quy
chế thẩm phán” đã viết về “Phẩm chất đạo đức của người thẩm phán”... trong đó các
tác giá đã đề cập đến những nét đạo đức cụ thổ của người thẩm phán như: lương tâm
nghề nghiệp, tính nhân đạo, bản lĩnh nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm...
Trong giáo trình tâm lý học tư pháp do Đặng Thanh Nga (Chủ biên) cũng
đã nêu những phẩm chất tâm lý của Thẩm phán như: ý thức và tinh thần trách
nhiệm cao trong hoạt động , ý thức pháp luật XHCN, khả năng thiết lập mối
quan hệ tâm lý với những người tiến hành lố tụng và với những người tham gia
tô' tụng... Tuy nhiên, nghiên cứu hoạt động cũng như đặc điểm tâm lý - nhân
cách của Thẩm phán dưới góc độ Tâm lý học cịn chưa được đề cập tới. Việc
nghiên cứu đó bao gồm rất nhiều vấn đề như : nghiên cứu xu hướng nhân cách
của Thẩm phán, nghiên cứu các phẩm chất và năng lực cần có ở người Thẩm
phán...Vì vậy chúng tơi chọn vấn đề những phẩm chất nhcìn cách của người
thẩm phán trong giai đoạn hiện nay làm đề tài nghiên cứu.
1.3. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu, điều tra thực trạng về phẩm chất nhân cách của người
thẩm phán đang cơng tác tại các TAND, từ đó đưa ra hệ thống các phẩm chất nhân
cách cần thiết của người thắm phán, đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả công tác xét xử ở các TAND và chất lượng công tác đào tạo nguồn
Thẩin phán hiện nay.

2



ỈA . Nội dung nghiên cứu.
- Làm rõ khái niệm nhân cách, phẩm chất nhân cách; khái niệm, vị trí, quyền
hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán.
- Phân tích những đặc điểm đặc thù về hoạt động của Toà án nói chung và của
Thẩm phán nói riêng.
- Phân tích các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán trang giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát thực trạng về phẩm chất nhân cách của Thẩm phán đang công tác ở
TAND các địa phương. Từ đó đưa ra hệ thống các phẩm chất nhân cách cần thiết của
Thẩm phán, đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm nhằm nâng cao hiệu quả công
tác xét xử ở các TAND và chất lượng công tác đào tạo nguồn Thẩm phán hiện nay.
1.5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
1.5.1 Khách th ể nghiên cứu.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi điều tra trên khách thể chính là các
Thẩm phán đương nhiệm tại một số TAND địa phương trên địa bàn cả nước.
Theo báo cáo tổng kết ngành toà án năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ cơng
tác năm 2003 thì tổng số Thẩm phán ở TAND địa phương là 3373 người, trong đó
925 Thẩm phán TAND cấp tỉnh (cịn thiếu 193) và 2448 Thẩm phán TAND cấp
huyện (còn thiếu 1067). Do điều kiện về thời gian, nên chúng tôi chỉ điểu tra: 300
Thẩm phấn; 66 Chánh án, Phó chánh án, Chánh tồ, Phó chánh tồ; 200 Thư ký ở
TAND (quận, huyện, thành phố, tỉnh) trên các địa phương:
Miền Bắc gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phúc.
Miền Trung bao gồm: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đà Nẵng, Khánh Hoà.
Miền Nam bao gồm: An Giang, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh.
+ 200 học viên lớp đào tạo nguồn thẩm phán, khoá 5, trường Đào tạo các
chức danh iư pháp.
+ 60 Luậl sư, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dủn, Giáo viên lrường Đại học Luật
và trường Đio tạo các chức danh tư pháp.
1.5.2 Dối tượng nghiên cứu : Những phẩm chất nhân cách của Thẩm
phán TAND địa phương.

1.6. NỈIU cầu kinh tế xã hội, địa chỉ áp dụng
Kết qiổ nghiên cứu của đề tài này có ý nghĩa sau :
- Đón* góp cơ sở lý luận tâm lý học cho một lĩnh vực trong hoạt động của các
cơ quan tư Ịháp, từ đó góp phần bổ xung kiến ihírc lý luận trong giang dạy và đào tạo
siiih viên, họ: viên các lóp cử nhân luật và lớp đào tạo nguồn thẩm phán.

3


- Góp phần bồi dưỡng, nâng cao những phẩm chất nhân cách cơ bản ở người
thẩm phán tạo điều kiện cho họ hồn thành tốt cơng tác của mình.
1.7. Giả thuyết khoa học.
Dựa vào lý thuyết hoạt động, những lý luận về nhân cách, cấu trúc của nhân
cách, trên cơ sở phân tích những đặc điểm đặc thù về hoạt động xét xử của Thẩm
phán, chúng tơi có thể phát hiện và giả thiết rằng: Trong hoại động xét xử, Thẩm phán
cán phải có 6 nhóm phẩm chất nhân cách sau:
1. Nhóm phẩm chất chính trị-tư iưởng.
2. Nhóm phẩm chất đạo đức.
3. Nhóm phẩm chất chun mơn.
4. Nhóm phẩm chất ý chí.
5. Nhóm phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động .
6. Nhóm phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những người tiến
hành tố tụng khác và những người tham gia tố tụng.
Trong đó nhóm phẩm chất chính trị - tư tưởng cùng với nhóm phẩm chất đạo
đức chiếm vị trí hàng đầu, sau đó đến các nhóm chun mơn, ý chí... Cả 6 nhóm
phẩm chất có quan hệ chặt chẽ với nhau và có quan hệ vói chức năng xét xử của
Thẩm phán.
1.8. Phạm vi nghiên cứu.
Với đề tài này, chúng tơi chỉ có điều kiện nghiên cứu những Thẩm phán đang
công tác tại các TAND địa phương như đã nêu trong phần khách thể nghiên cứu, mà

khơng có điều kiện nghiên cứu phẩm chất nhân cách của Thẩm phán ở TANDTC và
TA quân sự các cấp.
1.9. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tồi sử dụng các phươg pháp sau đây :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi .Đây là phương pháp chính của đề tài.
- Phương pháp thống kê toán học. Bằng phương pháp thống kê SPSS
(phẩn mền chuyên dụng, xử lý phân tích số liệu thống kê dành cho khoa học
xã hội) chúng tôi tiến hành xử lý những kết quả thu được để tìm ra những chỉ
số cđn thiết phục vụ cho việc nghiên cứu.

4


2. PHẨN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu một số phẩm chất nhân cách
cơ bản của ngưòi thẩm phán.
2.1.1. Lý luận về nhân cách và phẩm chất nhân cách.
2.1.1.1. Lý luận về nhân cách
*Qiian điểm của các nhà tâm lý học Phương Tây.
Trên thế giới, vấn đề nhân cách đã được nghiên cứu từ rất lâu. Năm 1900,
w . Stern đã xuất bản tác phẩm “Bàn vé tâm lý học những khác biệt cá nhân”.
Sau w. Stem, có rất nhiều các nhà tâm lý học đã bàn đến khái niệm nhân cách. Họ đã
cố găng tìm xem cái gì đã gán đời sống tâm hồn của con người thành một khối, cái gì
đã tạo nên sự thống nhất của nhân cách con người.
Tâm lý học phương Tây hiện đại đã có rất nhiều lý thuyết khác nhau về nhân
cách như: Thuyết Phân Tâm Học của s. Freud, thuyết siêu đẳng và bù trừ của A.Adler
thuyết đặc trưng của G.Allpoit, thuyết nhu cầu tâm lý của H.Murray, thuyết tương tác

xã hội của G.H. Mead, thuyết cái tôi của C.Rozers, thuyết trường tâm lý của K.Lewin,
thuyết chạy trốn lự do của E.Fromm ...
Qua nghiên cứu chúng tôi Ihấy tồn tại một số khuynh hướng sau đây về nhân cách:
K huynh hướng sinh vật hoá nhàn cách: Thuyết Phân Tâm Học của s. Freud
(1856- 1939)
K huynh hướng xã hội hoá nhãn cách: Thuyết siêu đẳng và bù trừ của
Alfred Adler (1870- 1937) ,Thuyết đặc trưng của Gordon Willard Allporl
(1897- 1967), Thuyết lo lắng của Karen Horney (1885 - 1952), Thuyết phát
huy bản ngã của Abraham Maslow (1908 - 1970),Thuyết cái tôi của Carl
Rogers (1902 - 1987), Thuyết nhu cẩu tâm lý của Henry Murray, Thuyết tương tác
xã hội của G.H.Mead, Thuyết liên cá nhân của Robert Sears.
Các quan niệm về nhíin cách trong lâm lý học phương Tủy rất đa dạng, phong
phú. Các quan niộm này có những yếu lố tích cực nhất định n h ư :
+Xu hướng ngày càng phủ định nguyện nhân sinh vật của sự thù địch giữa nhân
cách và xã hội, nhấn mạnh những nhu cẩu “nhân văn” của con người.
+ Sự cố gắng, chứng minh khả năng phái triển không ngừng của nhân cách
+ Phát hiện những hiện tượng, nhũng sự kiện phong phú trong đời sống tâm lý
thực của con người (động cơ vô thức, sự dồn nén, cơ chế tự vệ, sự đồng nhất hố, sự
bù trừ, vai trị của hoạt động giao tiếp , sự chuyển hố hoạt động, tính trọn vẹn của
nhốn cách, tính có một khơng hai của nhân cách).

5


+ Chú ý tới tính chất đặc trưng và tính chất cơ động của nhân cách .
Tuy nhiên các quan điểm này có những hạn chếnhất định. Đó là :
+ Hiểu nhân cách nếu không phải là hiện tượng thứ nhất đối với xã hộithì trong
mọi trường hợp cũng xem nó như là một thực thể tồn tại song song vớixã hội. Kết
quả nhân cách không tránh khỏi bị nhân chủng hoá và tâm lý hoá.
+ Nhiều lý thuyết về nhân cách giải thích các quan hệ xã hội như là những quan

hệ liên nhân cách thuần t có tính chất cá nhân của con người (điểu này thể hiện rõ
Irong thuyết “tương tác xã hội” hay thuyết “liên nhân cách”)
+ Cắt nghĩa hành vi xã hội của con người bằng những Ihuộc tính đóng kín trong
mình của nhân cách hoặc của môi trường, phủ nhận những quy luật phát triển thực tế
của xã h ộ i, của các nhóm xã hội, của nhân cách.
Hiện nay mặc dù có sự hạn chế nhất định trong quan niệm về mối quan hệ giữa
bản chất cá nhân với xã hội về ý thức hệ, niềm tin... các nhà tâm lý học phương Tây
đã chú ý nhiều hơn tới khía cạnh nhân văn, tới việc xem xét lại bản chất nhiều khái
niệm liên quan đến nhân cách, đi sâu nghiên cứu nhân cách ở góc độ thường ngày.
Các lý thuyết nhân cách trong tâm lý học phương Tây với những thông tin đa dạng và
phong phú đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu một cách nhìn bao quát và khá cụ thể
I

về víứi đế này. Nhưng chỉ dựa trên học thuyết Mác- xít vé ván đề nhân cách và các tư
tưởng tâm lý học hiện đại thì mới có được một cách giải quyết thực sự khoa học về
vấn đề này.
* Quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết.
Cắc nhà tâm lý học Liên Xô khi nghiên cứu về nhân cách dựa trên ba nguyên
tác : nguồn gốc triết học Mác - Lê Nin, tâm lý học và giáo dục học . Họ xem xét nhân
cách trong mối quan hộ qua lại giữa cá nhíin và mơi trường. Nhân cách khơng phải là
con người mang nhũng thuộc tính tâm lý đơn giản và càng không phải là cá nhân
mang những nét riêng biệt của nó. Nhân cách được xem xét như một chủ thể có ý
thức, mang những đặc điểm tủm lý tổng hoà các mối quan hệ mà Irong đó con người
sống và hoạt động. Có các khuynh hướng chủ yếu sau đây:
- Khuynh hướng sinh - tâm lý
- Khuynh hướng tiếp cận triết học
- Khuynh hướng nghiên cứu nhân cách nhằm định hướng giáo dục.
Các quan niệm trên đều cho rằng : Chỉ có thể nói đến con người như là
m ột nhãn cách bắt đầu từ một thời kỳ nào đó trong q trình phát triển của nó.
Nói cách khác, khơng phải mọi cá thể người, với cá tính của mình đều là nhân


6


cách cả. Nhân cách không phải được sinh ra mà là được hình thành, phát triển
trong hoạt động xã hội của con người. Hoạt động của cá nhân mới là con
người quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của
nó. Hoạt động để lại dấu ấn của mình lên chính bán thân con người. Nhân
cách khơng chỉ được thể hiện mà cịn được hình thành trong hoạt động. Nhân
cách là những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân nói lên giá trị xã hội của
con người và nó điều khiển hành vi của con người khi quan hệ với người khác
và xã hội.
* Vấn đề nhân cách qua các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam.
Kế thừa nền tâm lý học Xô Viết các tác giả Việt Nam như GS.VS. Phạm Minh
Hạc, GS.TS. Bùi Văn Huệ, PGS. Trần Trọng Thuỷ, GS.TS. Nguyễn Quang uẩn,
PGS.TS. Đỗ Long, PGS.TS. Lê Đức Phúc, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bích... đã đề cập
đến khái niệm, đặc điểm, cấu trúc ... của nhân cách trong các cơng trình nghiên cứu
của mình và trong các giáo trình tâm lý học được giảng dạy trong các trường Đại học.
Về khái niệm nhân cách có nhiều ý kiến khác nhau, tói mỗi tác giả khi đưa ra
khái niệm nhân cách đã nhìn nhận, nghiên cứu nhân cách ở những góc độ khác nhau.
Như vậy nhân cách là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp, nhiều mặt và nhiều
góc độ khác nhau. Do đó, hiện nay người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
nhân cách Có những dịnh nghĩa thu hẹp khái niệm nhân cách, có những định nghĩa
mở rộng khái niệm nhân cách. Mỗi định nghĩa của mỗi tác giả nêu ra đều dựa trên
một quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lý của nó.
Như vậy, khi bàn về khái niệm nhân cách chúng ta thấy nó rất phức tạp, đa
dạng. Nhưng chúng tôi sử dụng khái niệm nhân cách do GS.VS. Phạm Minh Hạc nêu
làm khái niệm công cụ để nghiên cứu đề tài này , khi nói về nhân cách tác giả cho
rằng : “N h â n cách ỉà tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu
hiện ở bản sắc và giá trị x ã hội của người ấ y ”

2.1.1.2. Khái niệm về phẩm chất nhản cách.
Khái niệm “phẩm chất” trong tâm lý học thường dùng để khảo sát ở các đối
tượng khác nhau và được xếp thứ hạng nhất định trong hàng loạt các phẩm chất do
hoạt động nghề nghiệp địi hỏi và hình thành. Trong Từ điển tâm lý học do
A.V.Petrovxki và I.M.Iarơsepxki chủ biên khơng có lừ “phẩm chất” mà chỉ có từ “nét
tính cách”. Trong Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 1997 có viết “đặc điểm: Nét riêng
biệt” còn “phẩm chất: Cái làm nên giá trị ở người hay vật”. Trong Từ điển tiếng Việt
của Nxb Văn hố-Thồng Ún 1998 có định nghĩa “đặc điểm: nét vẽ làm nôn tliộn mạo
7


của người, sự vật, hiện tượng” và “phẩm chất: Giá trị và tính chất tốt đẹp của con
người hay vật gì”.
Phẩm chất nhân cách là những đặc điểm tâm lý biểu hiện về mặt đạo đức,
trí tuệ, năng lực của con người. Nó qui định hành vi, cách ứng xử có ý nghĩa
xã hội của người đó trong những tình huống khác nhau.
Các nhà tâm lý học (kể cả các nhà tâm lý học phương Tây và tâm lý học
Mác - xít) đều cho rằng : Nhân cách của con người được cấu tạo từ những
thành tố cấu trúc nhất định . Chẳng hạn như :
Quan niệm thứ nhất coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản : Nhận thức (bao
gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ), rung cảm ( tình cảm và thái độ) và ý chí ( phẩm
chất ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen) (PGS. TS Phạm Hồng Gia)
Quan niệm thứ hai coi nhân cách bao gồm bốn tiểu cấu trúc : Xu hướng ( thế
giới quan , lý tưởng, hứng thú, tâm thế...), kinh nghiệm ( tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thói
quen), đặc điểm của của các q trình tâm lý (các phẩm chất trí tuệ, ý chí, đặc điểm
của cảm xúc, tình cảm), các thuộc tính sinh học quan trọng (khí chất, giới tính, lứa
tuổi, các đặc điểm bệnh lý ...) (K.K Platonov)
Quan niệm thứ ba cho rằng nhân cách có nhiều tầng : Tầng nổi, sáng tỏ (bao
gồm ý thức và ý thức nhóm) và tầng “sâu”, tối tăm (bao gồm tiềm thức và vô
thức).(Thuyết phân tâm học của SPreud)

Quan niệm thứ tư coi nhân cách bao gồm bốn thuộc tính phức hợp của nhcìn
cách là xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất. (A.G.Kovalcv)
Quan niệm thứ năm xem nhân cách con người bao gồm bốn khối hay bốn
bộ phận Xu hướng của nhân cách, những khả năng của nhân cách, phong cách
hành vi của nhân cách, hệ thống điều khiển của nhân cách. (GS.VS. Phạm
Minh Hạc, PGS. Trần Trọng Thuỷ)
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về nhân cách người cán bộ đã thể hiện quan
điểm của mình trong một loạt các tác phẩm nổi tiếng như: “Đường cách mệnh”; “Sửa
đổi lề lối làm việc”...
Để giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân dân, Hồ Chí Minh đã đề
cộp đến nhân cách. Người n ó i: "Muốn giữ vững nhân cách tránh khói hủ hố thì ln
ln phải thực hành bốn chữ : Cần - Kiệm - Liêm - Chính

Trong quan niệm của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức khơng đối lập với năng lực. v ề mối quan hệ giữa tài
và đức Người nói: “Có tài mả khơng có đức là vỏ dụng. Có đức mà khơng có tài thì
làm việc gì cũng kh ó ”... “ Con người có đức mà không cố tài khác nào như ông bụt

8


ngồi trong chùa khơnq giúp ích được cho a i”. Tóm lại, tư tưởng xây dựng con người,
giải phóng con người về mặt phẩm chất nhân cách cũng như tài năng trí tuệ là một bộ
phận quan trọng của tir tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Như vậy, nhân cách là sự thống nhất giữa mặt đức và tài. v ề thực chất việc đánh
giá con người là nói về mặt phẩm chất, phẩm giá trong đó đã bao hàm mặt năng lực
của con người. Có thể kể ra đây một số các phẩm chất saụ :
+ Phẩm chất chính trị, tư tưởng : lý tưởng, lập trường, niềm tin, thế giới quan
+ Phẩm chất đạo đức, tác phong : các thái độ đối với xã hội, đối với người khác

và thái độ đối với bản thân, tính khí, lối sống, tính nết, ihói quen, đạo đức .
+ Phẩm chấ ý chí: Tính kỷ luật, tính kỷ luật, tính tự chủ, Ưnh quả quyết, ưnh phê phán.
+ Các năng lực và sở trường, năng khiếu.
Trong đề tài này, chúng tôi xem nhân cách của người cán bộ được hiểu là toàn
bộ các thuộc tính tâm lý biểu thị những đặc Irưng chung của người cán bộ và cấu trúc
nhân cách được xem ở hai mặt “đức” và “tài”, bao gồm các nhóm phẩm ch ất:
+ Nhóm phẩm chất chính trị tư tưởng
+ Nhóm phẩm chất đạo đức
+ Nhóm phẩm chất chuyên mơn
+ Nhóm phẩm chất ý chí
+ Nhóm phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động
+ Nhóm phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những người khác
2.1.2. Phẩm chất nhân cách của người thẩm phán
2.1.2.1.

Khái niệm, vị trí, quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán

Trong điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND (2002), đã quy định:
'Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy địnli của pháp luật đ ể làm nhiệm vụ
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án
Mà theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức TAND thì ‘Tồ án xét xử nhũng vụ án
hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết
những việc khác theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định tại điều 37 Luật tổ chức TAND và điều 5 Pháp lệnh về Thẩm
phán và Hội thẩm TAND (2002) về tiêu chuẩn một người có thể trở thành Thẩm
phán, đó là : "Cơng dân Việt Nam trung thành với T ổ quốc và Hiến pháp nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần
kiên quyết bảo vệ pháp chếXHCN, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về
nghiệp vụ xét xử, có thời gian cơng tác thực tiễn, có năng lực làm cơng tác xét xử theo


3


quy định của pháp lệnh này, cố sức khoẻ, bảo đâm hồn thành nhiệm vụ được giao
thì cơ thể được tuyển chọn vả bổ nhiệm làm Thẩm phán ” .
Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5, có trình độ
cử nhân Luật, có đủ thời gian làm công tác pháp luật (4 năm trở lên đối với Thẩm
phán cấp huyện, 5 năm đối với cấp tỉnh, 8 năm đối với cấp tối cao), có năng lực xét xử
các vụ án thuộc Ihẩm quyền của TA các cấp tương ứng, thì có thể đựợc tuyển chọn và
bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND huyện, tỉnh (tương đương), tối cao (Điều
20,21,22,23 - Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND 2002).
Theo quy định của những văn bản này thì Thẩm phán có quyền và những nghĩa
vụ sau đây:
* Quyền:
+ “Thẩm phán, Hội thẩm được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét x ử ( Đ i ề u 7 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND).
+ “Thẩm phán có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có
liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” (Điều 10 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND).
+“ Thẩm phán được hưởng lương, phụ cấp và các quyền lợi khác theo quy định
của Nhà nước” (Điều 13 - Pháp lệnh TP và Hội thẩm TAND)
+ “Thẩm phán được cấp trang phục, giấy chứng miríh Thẩm phán để làm nhiệm
vụ” (Điều 14 - Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND)
Pháp luật Việt nam trong điều kiện hiện nay còn thiếu nhũng văn bản quy định
việc bảo vệ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và những thành viên trong gia đình của
họ trướe những phần tử tội phạm. Do vậy Thẩm phán, các thành viên gia đình và tài
sản của họ phải được Nhà nước bảo vệ đặc biệt. Các cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc
biệt là lực lượng nội vụ có nghĩa vụ phải đưa ra các biện pháp cẩn thiết để đảm bảo an
tồn tính mạng, tài sản cho Thẩm phán và gia đình của họ nếu như họ gặp nguy
hiểm Các cơ quan bảo hiểm Nhà nước cần phải bảo hiểm cả tính mạng và sức khoẻ
của Thẩm phán.
* Nghĩa vụ:

+ Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp và pháp Ịuật. Điều này có nghĩa
là “Đối với quan tồ (Thẩm phán) khơng có cấp trên nào ngồi pháp luật”.
+ ‘Thẩm phán, hội thẩm chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiện vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ iheo tính

10


chất, mức độ sai phạm và hậu quá mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự..” (Điều 5 - Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND)
+ Vẵn đề này còn được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999,lheo điều 295 thì

“ Thẩm phán , Hội thẩm nhân dân nào cố ý ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật
thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm; phạm tội gày hậu qua nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 3
năm đến 10 năm”.
Theo Điều 279, 281, 284 thì Thẩm phán có thể bị truy tố về các tội phạm liên
quan đến chức vụ quyền hạn của mình nh tội nhận hối lộ, tội lợi dụng chức vụ quyền
hạn hoặc làm dụng quyền trong khi thi hành công vụ, tội giả mạo trong công tác .
+ “Thẩm phán, Hội thẩm phải giữ bí mật cơng tác theo quy định của pháp luật”
(Điều 6 - Pháp lệnh Thẩm phánvà Hội thẩm TAND)
+ ‘Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án” (Điều 9 - Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND).
+ “Thẩm phán không được tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc các dịch vụ
khác theo quy định của pháp luật” (Điều 11 - Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND).
+ “Thẩm phán phải từ chối nhiệm vụ hoặc bị thay đổi nếu có căn cứ cho thấy có
thể khơng vơ t trong khi làm nhiệm vụ đó” (Điều 12 - Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm TAND)
Vãh đề này được cụ thể hoá trong Điều 28 và 30 Bộ Luật Tố tụng hình sự, Điều
17 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự Điều 18 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế.

Tuy nhiên pháp luật hiện hành của chúng ta còn thiếu nhiều chế định pháp lý
nhằm đảm bảo cho Thẩm phán được độc iập những chế định này được quy định trong
“Các nguyên tắc cơ bản của độc lập xét xử đối với các cơ quan toà án trong việc đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm” do Hội nghị lần thứ 7 của Liên Hợp Quốc tổ chức tại
thành phố Milan (Italia) từ ngày 26/8 đến 6/9/1985 ( xem chuyên đề “Một số vấn đề
về chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán theo quy định của pháp luật
hiộn hành”).
Qua việc phân tích khái niệm, quyền và nghĩa vụ cơ bản của Thẩm phán chúng
ta thấy rằng Thẩm phán là nhân vật trung tâm của Toà án, của hoạt động xét xử nhân
danh nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Với trọng trách như vậy, Thẩm phán được xã
hội coi như một nghề- nghề thẩm phán với những đặc thù nghề nghiệp riêng.

11


2.1.22. Đặc điểm đặc thù trong hoạt dộng xét xử của Thẩm phán.
Thứ nhất, Lau động của Thẩm phán lả lao dộng trí não, dầy khó khăn, phức tạp
đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân.
Khác với những lao động khác, lao động của Thẩm phán là lao động đặc thù
r.ghĩa là trên cơ sở các quy định của pháp luật Thẩm phán có nhiệm vụ xem xét các
tinh tiết của vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vấn đề định khung...và áp dụng vào
từng trường hợp cụ thể. áp dụng ở đây không phải là cứng nhắc mà là một quá trình
tư duy vất vả và phải huy động tổng thể của những hiểu biết khơng chỉ về pháp luật
mà cịn về cuộc sống xã hội.
Hoạt động xét xử của Thẩm phán phải chịu những áp lực, áp lực từ phía các
phẩn tử tội phạm, áp lực từ phía xã hội, cơng luận. Vì xã hội ln ln giám sát hoạt
đỏng của Tịa án. Không phải ngẫu nhiên mà trong Điều 131 Hiến pháp 1992 và Điều
7 Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 1992 đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử
cóng khai. Ngun tắc “việc xét xử của Tịa án có Hội thẩm nhân dân (hoặc Hội thẩm
quân nhân) tham gia” được ghi nhận từ năm 1946 đến nay trong các Hiến pháp và

Luật tổ chức Tòa án của nước ta năm 1960,1981,1992,2002.
Thứ hai, Hoạt động của Thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp
ciârig c h ế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơng dân, tổ chức.
Nói đến chức năng của Nhà nước ta là đề câp đến phương diện hoạt động chủ
yêu của bộ máy nhà nước mà mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở
những mức độ khác nhau. Còn chức năng của các cơ quan nhà nước là nhũng phương
dkn hoạt động chủ yếu của các cơ quan đó nhằm góp phẩn thực hiện chức năng
chung của nhà nước. Đối với Tịa án nhân dân có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng
xéi xử đó là chức năng chính, chủ yếu của Tịa án nhân dân.
Điều 127 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 đã
quv định ‘T òa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân
sự /à các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ
ngỉĩa Việt Nam”. Chỉ Tòa án mới có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự,
hơr nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác
theo quy định của pháp luật.
Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp
cơn? nhân và nhân dân lao động nói chung. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là
phiơng pháp cơ bản đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chính và thống
nhâ, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Hoạt động xét xử nhằm bảo vệ chế độ

n


xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế - chính trị, xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, quyền và các lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Hoạt động xét xử có thể dẫn đến chỗ công dân, pháp nhân, các tổ chức đưực
hưởng các quyền và lợi ích hoặc gánh chịu các nghĩa vụ nhất định.
Thứ ba, Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định
trong pháp luật tô'tụng.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là nhân vật trung tâm. Thẩm

phán phải chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình. Các phán quyết (bản án,
quyết định) của Thẩm phán nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và là kết quả cuối cùng hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử.
Các phán quyết của Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi, nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức. Cho nên hoạt động xét xử của Toà án có tính tổ chức rất chặt
chẽ. Tồ án khi xét xử một vụ việc cụ thể phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật
định một cách nghiêm ngặt, không được tuỳ tiện bỏ qua một thủ tục nào. Nếu vi
phạm nghiêm trọng những quy định của pháp luật tố tụng thì Quyết định của Tồ án
sẽ bị kháng cáo hoặc kháng nghị và sẽ bị Tòa án cấp trên xem xét lại theo các thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm để cải, sửa hoặc hủy. Đây chính là điểm đặc thù của hoạt
động xét xử của Thẩm phán so với các nghề khác.
Thứ tư, Khi xét xử, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước đ ể ra bản án, quyết định.
Bản án, quyết định của Tòa án do Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để
tuyên đối vói bị cáo và các đương sự khác. Bán án và quyết định của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội và mọi công dân tơn trọng.
Bởi tính hiệu lực cao của bản án và quyết định của cơ quan Tòa án như vậy cho
nên pháp luật tố tụng quy định việc sửa đổi, hủy bỏ các văn bản đó khơng phải như
những văn bản hành chính đơn thuần mà phải thơng qua trình tự tố tụng nghiêm ngặt
bằng thủ tục kháng cáo hoặc kháng nghị.

2.1.23. Phẩm chất nhàn cách của Thẩm phán
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nhân cách và phẩm chất nhàn cách của
người cán bộ nói chung cũng như nghiên cứu những đặc điểm đặc thù hoạt
động của Thẩm phán, chúng tôi cho rằng nhân cách của người thẩm phán
được hiểu là tồn bộ các thuộc tính tâm lý biểu thị những đặc điểm đặc thù và
cấu trúc nhân cách của họ đươc thể hiện ở hai mặt : “đức” và ‘tài. Để có thể

13



cấu trúc nhân cách của họ được thể hiện ở hai mặt : “đức” và ‘tài. Để có thể
lìm hiểu, phát hiện và xây dựng được các nhóm phẩm chất nhân cách của
Thẩm phán chúng tôi tiến hành các công việc sau:
+ Khảo sát hoại động thực tiễn của Toà án nói chung và của Thẩm phán nói riêng.
+ T ra o đ ổ i VỚI c á c đ ồ n g c h í c á n b ộ q u ản lý T o à án; c á c đ ồ n g c h í cá n b ộ

lãnh đạo Tồ án như Chánh án, Phó chánh án, Chánh tồ, Phó chánh tồ.
Ngồi ra chúng tơi cịn gặp gỡ, trao đổi với các đồng chí Thẩm phán có tham
niên cơng tác lâu năm trong nghề.
+ Tỉến hành phát phiếu phỏng vấn để mở, hỏi về những phẩm chất nhân cách
nổi bật của Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
Trên cơ sở đó chúng tơi tổng kết, phát hiện và giả thiết trong hoạt động xét xử
Thẩm phán có thể xuất hiện những nhóm phẩm chất nhân cách cơ bản sau đây:
* Phẩm chất chính trị - tư tưởng.
Đây là phẩm chất nhân cách cần có đối với những người làm công tác xét
xử. Thẩm phán là cán bộ của Đảng, được Đảng và nhân dân tin yêu giao cho
trọng trách là người “cầm cân nảy mực ”, là người đem lại sự công bằng cho
xã hội. Do đó, Thẩm phán phải có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng
cũng như phải có thế giới quan của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghề thẩm phán là một nghề đặc thù nên đòi hỏi người thẩm phán phải
thể hiện sự giác ngộ chính trị cao, thấu hiểu sâu sắc các mục đích nhiệm vụ,
chức trách dược giao phó. Thẩm phán phải tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp
đổi mới của Đảng. Đồng thời còn thể hiện ở lòng yêu Tổ quốc, trung thành với
Nhà nước XHCN Việt Nam, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhàn dân, sẵn sàng vượt
qua mọi khó khăn gian khổ, kiên quyết bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế
XHCN. Một người không thể thi hành pháp luật trong cuộc sống, không thể
đem lại sự công bằng cho xã hội khi chính người đó khơng tin vào sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì lẽ đó, Thẩm phán phải là người có lập
Irường cách mạng vững chắc, kiên định với đường lối chính sách mà Đảng đã

đề r.i nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xél xử, chống hiện tượng “máy móc,
pháp lý đơn thuần, vỗ chính tr ị” trong quá trình giải quyết các vụ án.
* Phẩm chất đạo đức.
Do đặc điểm, yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp nên người thẩm phán
phải có những phẩm chất cơ bản như công bằng, vô tư, khách quan, tính trung
thực tinh thẩn trách nhiệm, lương tâm và tính nhân đạo...

14


Công bằng, vô tư và khách quan là những yếu tố hiện thân của Toà án.
Nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán phải làm theo lẽ phải, không thiên lệch về bên
nào. Tất cả các đương sự, bị cáo không phân biệt thành phần xuất thân, địa vị
xã hội, điều kiện kinh tế, dân tộc... đều được Thẩm phán xem xét như nhau.
Các hành vi, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ được Thẩm phán xét xử căn
cứ theo qui định của pháp luật.
Trong các hoạt động xã hội, một trong những yêu cầu cần thiết đối với
mỗi người nói chung và đối với người thẩm phán nói riêng là phải có phẩm
chất trung thực. Đức tính trung thực giúp cho người thẩm phán xây dựng lòng
tin, tinh thần kiên quyết và tự chủ, sự thanh thản của lương tâm.
Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất cần thiết trong mọi lĩnh vực hoạt
động, đặc biệt đối với những hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền,
nghĩa vụ, sinh mạng của con người. Lương tâm nghề nghiệp của mỗi thẩm
phán là yếu tố nội tâm tạo cho họ khả năng tự đánh giá hành vi của mình về
m ặt đạo đức, và do đó tự điều chỉnh hành vi của mình.
Tính nhân đạo của người thẩm phán xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo
XHCN. Nhưng nó khơng đồng nghĩa với việc không xử hoặc xử nhẹ người
phạm tội, m à cần phải xét xử một cách công bằng, tội đến đâu thì trách nhiộm
hình sự phải chịu đến đó. Ngồi ra, tính nhân đạo của người thẩm phán cịn
thể hiên thơng qua viộc họ biết đấu tranh với điều ác, bảo vệ điều thiện.

Như vậy, tính cơng bằng, vô tư, khách quan, lương tâm, tinh thần trách
nhiệm cũng như phẩm chất trung thực ln ln hồ qúyộn vào nhau tạo nên
phẩm chất đạo đức của người thẩm phán, đồng thời giúp họ đưa ra phán quyết
đúng pháp luật.
* Phẩm chất chuyên môn.
Lao động của Thẩm phán là lao động đầy khó khăn, phức tạp và đặt dưới
sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân. Do đó, mỗi Thẩm phán
phải có kiến thức chun mơn giỏi, có trình độ nghiệp vụ vững vàng. Người
thẩm phán khơng thể ra bản án thấu tình đạt lý khiến cho các bên “tâm phục
khẩu p h ụ c ” khi mà thiếu kiến thức chun mơn và nghiệp vụ.
Ngồi việc phải có trình độ chun mơn và nghiệp vụ cao, người thẩm
phán cần phải có những hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực khoa học khác như
xã hội học, tâm lý học...

15


* Phẩm chất ỷ chí.
Trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thì xét xử là hoạt
động mang tính quyết định. Mỗi phán quyết của Tồ án đều có ảnh hưởng trực
tiếp tới quyền, nghĩa vụ, thậm chí cả tính mạng của con người, ảnh hưởng đến
tính cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, ngồi những phẩm chất
đạo đức, chuyên môn, người thẩm phán cần phải có những phẩm chất ý chí
như: Tính độc lập, tự chủ, tinh thần trách nhiệm...
Tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử được hiểu là năng lực đưa ra các
phán quyết (bản án, quyết định) trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ và được
xem xét tại phiên tồ mà khơng chịu ảnh hưởng của một ai. Vấn đề này được
qui định tại Điều 130 Hiến pháp 1992; Điều 5 Luật tổ chức TAND và Điều 4
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND.
Tính tự chủ là khả năng người thẩm phán làm chủ bản thân, duy trì được

sự kiểm sốt đầy đủ đối với hành vi của mình, tránh được những tác động có
tính chất xung động, xúc động (các biểu hiện thái quá, nóng nảy, giận dữ,
cục cằn...).
Tất cả những phẩm chất ý chí nói trên là một thể thống nhất, có quan hệ
chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng và hỗ trợ lãn nhau. Những phẩm chất ý chí đó
chỉ c6 thể được hình thành và phát triển ở những Thẩm phán có tính tư tin, thái
độ cương quyết, tinh thần độc lập, không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch
lạc hoặc nhũng tác động bên ngồi mang tính chất vụ lợi cá nhân khi đưa ra nhũng phán quvci
*Phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động xét xử.
Hoạt động xét xử là hoạt động phức tạp, khó khăn với sự tham gia của
nhiều người. Vì vậy, Thẩm phán (với tư cách chủ toạ phiên tồ) phải có năng
lực tổ chức phiên tồ, duy trì kỷ luật phiên tồ. Năng lực tổ chức hoạt động xét
xử của Thẩm phán thể hiện ở tư duy tổ chức phiên toà, sự hiểu biết và đánh
giá đúng khả năng của các thành viên trong Hội đồng xét xử, cũng như sự
thành thạo trong việc điều khiển phiên toà.
Đối tượng tổ chức của Thẩm phán là các thành viên của Hội đồng xét xử,
Thư ký phiên toà, ngồi ra cả các Kiểm sát viên, Luật sư...Vì vậy, sự hiểu biết
và đánh giá đúng khả năng của từng người với những địa vị pháp lý khác nhau
của họ irong q trình điêù khiển phiên tồ là u cầu cần thiết đối với người
thẩm phán. Trên cơ sở đó, Thẩm phán có Ihể chủ động điều khiển phiên tồ
nhằm tạD nên sự thống nhất giữa các thành viên trong hội xét xử, thiết lập mối

16


quan hệ đúng đắn giữa các bên tham gia tranh luận, đồng thời bảo đảm khơng
khí nghiêm túc và duy trì được kỷ luật phiên tồ.
*Phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những người tiến
hanh tố tụng khác và những người tham gia tố tụng.
Hoạt động xét xử là hình thức giao tiếp tâm lý nhiều chiều diễn ra giữa

các thành viên trong Hội đồng xét xử với các bên tham gia phiên toà, với bị
cáo và các đương sự khác. Trong đó, Thẩm phán- chủ tọa phiên tồ ln giữ
vai trị chủ đạo, tổ chức, phối hợp, điều khiển giao tiếp

Do đó, Thẩm phán

phải có khả năng thuyết phục cao trong quan hệ giao tiếp xét xử, như khả
năng tiếp xúc thiết lập quan hệ, khả năng điều khiển quá trình giao tiếp, biết
cân bằng nhu cầu , linh hoạt và mềm dẻo trong giao tiếp.
Khả năng điều khiển quá trình giao tiếp tại phiên toà của Thẩm phán thể
hiện ở sự làm chủ trạng thái tình cảm của bản thân, làm chủ các phương tiện
giao tiếp ( ngôn ngữ và phi ngôn ngữ).

Mặt khác, để có khả năng thuyết phục

cao trong giao tiếp, Thẩm phán phải biết biểu hiện sự chú ý lắng nghe, có thái
độ kiên trì và khách quan đối với những người tiến hành tố tụng khác và
những người tham gia tố tụng.
Như vậy, để đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét xử, Thẩm phán phải
kết hợp hài hoà các phẩm chất nhân cách trên, Các phẩm chất nhân cách này
ln gắn bó, bổ sung cho nhau tạo nên nền tảng của nhân cách của người
thẩm phán. Những phẩm chất nhân cách của họ không phải là cái vốn có, cái
bẩm sinh, mà nó được hình thành, phát triển và hồn thiện trong q trình
sống và hoạt động xét xử.
2.1.3.

Một sô yếu tô tâm lý ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động xét xử nói

chung và việc ra bản án, quyết định của tồ án nói riêng.
*


Tác động của nhu cầu, động cơ, mục đích đến kết quả hoạt động xét xử.

Trong hoạt động xét xử các yếu tố như nhu cầu, động cơ, mục đích có ảnh
I

hưảig đến các biện pháp xét xử, kết quả hoạt động xét xử.
Người thẩm phán có nhu cầu, động cơ, mục đích hoạt động đúng đắn thường
tìm dược các biện pháp xét xử phù hợp và dẫn đến việc đưa ra được quyết định, bản
án đúng người, đúng việc, đúng pháp luật.
Tóm lại các yếu tố nhu cầu, động cơ, mục đích hoạt động xét xử có liên quan
chặt chẽ với nhau, có ảnh hưởng đến những quyết định, bản án của tồ án. Tác động
của các yếu tố đó có thể theo hướng thúc đẩy hoặc ln m t]® m |^^ệỊĩ^^Q ỊĨĩcự c hoặc
Ị tr ư ờ n g đ ạ i h ọ c l u ậ t h à n ộ i ị

.1

phòng s ọ c ------


tiêu cực). Vấn đề quan trọng bậc nhất ở đây là thẩm phán có nhu cầu động cơ xét xử
phục vụ lợi ích Xí hội, bảo bệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân thì những

phán quyết của họ sẽ là những phán quyết đúng người đúng việc, đúng pháp luật;
được mọi người tám phục, khẩu phục.
* Ả n h hưởng của nhận thức, thái độ, niềm tin đến hoạt động và kết quả hoạt
động xé* xử.
Nn..n thức của người thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp đến những nhận xét,
đánh giá, quyết định của thẩm phán trong quá trình xét x ử .
Người thẩm phán có trình độ nhận thức cao, có hiểu biết sâu sắc về các lĩnh vực

Ihoạt động xã hội, các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án,
(CÓ kinh nghiệm xét xử phong phú thường có những quyết định có căn cứ, hợp lơ gíc,

(đúng pháp luật, phù hợp với thực tiễn. Họ có thể giải quyết linh hoạt các tình huống,
(CỔC xung đột tâm lý có thể xảy ra tại phiên tồ.

Thái độ của thẩm phán đối với một vụ án, đối với nghề thẩm phán có tác động
mạnh mẽ đêh kết quả hoại đơng xét xử một vụ án nói riêng và hoạt động xét xử nói chung.
Một trong những yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hoạt động xét xử nói chung và
việc ra bản án quyết định nói riêng đó là niềm tin nội tâm. Cũng giống như các phẩm
chất tâm lý khác tác động của niềm tin đến những phán quyết, hành động của thẩm
phán có thể theo hai hướng tích cực và tiêu cực, Nếu niềm tin nội tâm của thẩm phán
được xây dựng có căn cứ thực tiễn và khoa học thì sẽ tạo cảm giác tự tin, ý chí quyết
tâm hành động cho cá nhân thẩm phán khi ra những quyết định, bản án để giải quyếl
vụ án. Ngược lại nếu bản thân thẩm phán chưa tin tưởng vào trình độ, năng lực của
nnình dễ có biểu hiện giao động, a dua theo ý kiến của người khác, dễ bị ám thị, thiếu
quyết đoán ưong khi giải quyết những tình huống cụ thể.
* Ả n h hưởng của các phẩm chất ý chí đến những nhận định, phán quyết của
ngưịỉ thẩm phán trong q trình xét xử.
Ý chí là mặt năng động của ý thức thể hiện ỏ việc ra mục đích và có những nỗ
lực khắc phục những khó khăn nhằm đạt được mục đích đã đề ra trong q trình hành
động. Để hồn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó là người
cầm cân, nảy mực tại phiên toà thẩm phán phải thể hiện những cố gắng, nỗ lực ý chí
để vượt qua những khó khăn, trở ngại khách quan và chủ quan trong quá trình ra bản
án, quyết định về vụ án. Thông qua hoạt động xét xử các phẩm chất ý chí của thẩm
phán được hình thành và củng cố. Đến lượt mình các phẩm chất ý chí đó lại điều
ichỉmh hành động của thẩm phán trong quá trình xét xử.


* Ảnh hưởng của tính cách đến nhũng phán quyết của Thẩm phán trong xét xử.

Tính cách có vai U'ị quan trọng đối với hoạt động và kêl quả hoạt động của cá
nhàn. Trong hoạt động xét xử của Thẩm phán- người dại diện cơng lý, người đóng vai
trị quyết định địa vị pháp lý của cơng dân- vai trị của tính cách cá nhân là cực kỳ
quan trọng.
Tóm lại, hoạt đỗng xét xử của Thẩm phán là một hoạt động phức tạp. Kết quả
của nó phụ thuộc khơng chỉ vào các yếu tố khách quan như tính đầy đủ của hồ sơ, tài
liệu về vụ án; thái độ thiện chí, tích cực của nhũng người làm chứng, người bị hại; trật
tự lại phiên toà.. mà vào cả những yếu tố tâm lí chủ quan ở người thẩm phán như
nhu cầu, động cơ, mục đích, nhận thức, thái độ, niềm tin, ý chí, các nét tính cách.. .Vì

vậ\, bên cạnh việc khơng ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ
của mình, Thẩm phán cịn chú ý rèn luyện, hồn thiện mình để đáp úng nhũng địi hỏi
ngày càng cao của xã hội đối với nhân cách người thẩm phán.
2.1.4. Một vài nét về phong cách giao tiếp của Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
* Khái niệm vê phong cách giao tiếp của Thẩm phán:
Phong cách giao tiếp của Thẩm phán là toàn bộ hệ thống những phương pháp
thủ thuật tiếp nhận, phản ứng, hành động tương đối bền vững, ổn định của Thẩm phán
với những người tiến hành tố tụng khác và những người tham gia tố tụng để nhằm giải
quyết vụ án đúng người, đúng việc, đúng pháp luật.
* Phân loại phong cách giao tiếp của Thẩm phán.
Theo chúng tôi phong cách giao tiếp của người thẩm phán thường thể hiện ở 3
dạng sau:
Thứ nhất: Phong cách dân chủ thể hiện ở người thẩm phán trong quá trình tiếp
xúc với nhũng người tiến hành tố tụng khác họ biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến,
quai điểm của những người cùng làm việc.
Trong quá trình giải quyết vụ án, khi tiếp xúc với đương sự của vụ án Thẩm
phán chú ý đến đặc điểm tâm lý riêng của tùng đối tượng, lắng nghe ý kiến của họ;
tôn trọng họ. Những đề nghị hay ý kiến của họ được thẩm phán chú ý lắng nghe và có
sự giải thích rõ ràng. Phong cách dân chủ tạo cho những người tiến hành tố tụng khác
hoại động một cách độc lập, sáng tạo và có trách nhiệm.

Tuy nhiên phong cách này chỉ có thể hình Ihành ở nhũng Thẩm phán có trình độ
cliuỵên mơn, có khả năng quản lý và có bản lĩnh cao. Mặt khác phong cách dân chủ
cũng được Thẩm phán sử dụng một cách linh hoạt tuỳ theo tìmg tình huống, tuỳ theo

19


tùng đối tượng mà có trường hợp Thẩm phán sử dụng phong cách độc đốn lại có
hiệu quả hơn nhiều.
Thứ hai: Phong cách độc đoán trong giao tiếp thể hiện ở người thẩm phán trong
q trình điều khiển phiên tồ cũng như giải quyết vụ án chủ yêú dùng mệnh lệnh
hành chính.
T h ả n p h á n sử d ụ n g p h o n g c á c h g ia o

tiếp n à y th ư ờ n g k h ô n g c h ú ý đ ế n n h ũ n g

đặc điểm tâm lý riêng của đối tượng khi tiếp xúc cho nên nhiều khi họ đưa ra những
ứng xử chưa phù hợp nên không đem lại hiệu quả cho công việc.
Tuy nhiên phong cách này vãn phát huy hiệu quả trong những trường hợp nhất
định, ơiẳng hạn: trong trường hợp cần bắt người hay khám xét nhà khẩn cấp; hoặc
trong trường hợp có một số người cố tình gây mất trật tự phiên tồ thì Thẩm phán có
thể sử dụng phong cách này.
Thứ ba: Phong cách tự do trong giao tiếp thể hiện ở người thẩm phán dễ dàng
thay đổi thái độ, hành vi, cử chỉ, điệu bộ ứng xử trong những tình huống, hồn cảnh
giao tiếp khác nhau...
Nghiên cứu biểu hiện của phong cách giao tiếp của Thẩm phán trong các giai
đoạn của hoạt động xét xử chúng tôi thấy để đảm bảo cho việc xét xử nghiêm minh,
đúng pháp luật và đưa ra được bản án đúng người, đúng việc, đúng pháp ỉuật thì địi
hổi người ihẩm phán phải tạo ra được phong cách giao tiếp mềm dẻo, cơ động tuỳ
Iheo tìmg tình huống, tuỳ theo từng đối tượng- đó là kiểu phong cách giao tiếp có hiệu

quả nhất.
Trong thực tiễn hoạt động xét xử chúng tôi cho rằng để đảm đương được trong
trách mà đảng và nhà nước giao cho là người “cầm cân nảy mực” tại phiên toà Thẩm
phán sử dụng phong cách dân chủ là phong cách mang lại hiệu quả cao nhất. Văh đề
này thể hiện trong các giai đoạn như xét hỏi (thẩm vấn), tranh luận, nghị án và tuyên án.
* Những yêu cầu vê phong cách giao tiếp của Thẩm phán.
Người thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp phải tạo ra cho mình phong cách
giao tiếp mềm dẻo, cơ động luỳ theo từng tình huống tuỳ Iheo từng đối tượng mà họ

dưa ra cách ứng xử phù hợp - đó là kiểu phong cách giao tiếp có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên để xây đựng cho mình một phong cách úng xử phù hợp thì trong quá
trình giao tiếp người thẩm phán phải đảm bảo một số yêu cầu sau :
-

Trong giao tiếp Thẩm phán phải thể hiện sự công bằng, vô tư, khách quan. Sự

công bàng, vô tư, khách quan phải thể hiện trong từng suy nghĩ, lời nói và hành động
với những người tố tụng khác và nhất là với những người tham gia tố tụng.

?n


×