Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.89 MB, 58 trang )


TĨM TẮT CƠNG TRÌNH
Đề tài nghiên cứu: “Mợí số vấn đề lý luận và thực tiễn về hố trợ tư pháp
đối với hoạt động của Trọng tài thương mại” tập trung vào phân tích nội dung
của các biện pháp hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại,
thực trạng của quá trình áp dụng những quy định này trong thực tiễn.Từ đó đề
ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này,
qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài nghiên cứu được cơ cấu như sau:

Chương I: Khái quát chung về Trọng tài thương mại.
Chương II: Các quy định của pháp luật hiện hành về sự hỗ
trợ tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các biện
pháp hỗ trợ tư pháp trong hoạt động của trọng tài thương mại ở Việt
Nam.

T HƯ VI Ệ N

_!

TRƯỜNG ĐẠI HOC LUẬT HÀ NỘI

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết củã đề tài
Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động
thương mại phổ biến trên thế giới. Các nhà kinh doanh trên thế giới rất ưa


chuộng hình thức trọng tài, vì Trọng tài có những ưu điểm khơng thể phủ nhận
như: Giải quyết nhanh và hiệu quả các tranh chấp, đảm bảo bí mật và uy tín
của các nhà kinh doanh, giữ được quan hệ bạn hàng của họ với nhau để có thể
tiếp tục các quan hệ mới trên thương trường... Tuy nhiên, ở Việt nam, mặc dù
trọng tài thương mại (hay Trọng tài phi Chính phủ) đã tồn tại khá lâu trong
nền kinh tế, nhưng các tranh chấp được các nhà kinh doanh đưa đến Trọng tài
giải quyết cịn khá khiêm tốn. Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng trên,
nhưng có một ngun nhân căn bản, đó là thiếu sự hỗ trợ từ phía Nhà nước đối
với hoạt động của Trọng tài. Chính vì vậy, đã khơng đảm bảo tính hiệu quả
trong hoạt động Trọng tài, làm cho các nhà kinh doanh không thể tin tưởng,
lựa chọn Trọng tài như một hình thức giải quyết tranh chấp tối ưu. Do đó, sự
hỗ trợ hay sự phối hợp từ phía các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động trọng
tài đã được Pháp lệnh trọng tài thương mại (2003) quy định là hết sức cần thiết
và rất có ý nghĩa. Cũng từ đó, việc nghiên cứu những quy định mới của pháp
luật về sự hỗ trợ này là một đòi hỏi khách quan. Xuất phát từ lý do này, chúng
tôi chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với
hoạt động của Trọng tài thương mại” làm đề tài nghiên cứu.

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện đã có một số cơng trình nghiên cứu các vấn đề về Trọng tài
thương mại như: Trọng tài vói tính chất là một hình thức giải quyết tranh chấp;
Trọng tài trong mối quan hệ so sánh với Toà án; hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài v.v... Tuy nhiên, sự hỗ trợ của cơ
quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài thương mại là một chế định mới trong
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Do vậy, chúng tôi đã nghiên cứu về
vấn đề này để làm sáng tỏ vai trò quan trọng của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp
2



đối với hoạt động Trọng tài cũng như những tác động tích cực của nó đối với
hoạt động Trọng tài.

3. Phạm vi nghiên cứu đê tài
Phù hợp với tên đề tài đã chọn, đề tài khơng nghiên cứu tồn bộ hoạt
động của Trọng tài với tính chất là một hình thức giải quyết tranh chấp, mà
chỉ đi sâu nghiên cứu về một chế định của trọng tài, đó là sự hỗ trợ của cơ
quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài. Đề tài giải thích về sự cần thiết phải
hỗ trợ hoạt động Trọng tài của cơ quan tư pháp; phân tích về nội dung, vai trị,
ý nghĩa của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài. Đồng
thời, chúng tôi cũng chỉ ra những bất cập khi áp dụng các quy định về hỗ trợ
của cơ quan tư pháp đối với Trọng tài thương mại ở Việt Nam, từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự hỗ trợ đó trên thực tế.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để triển khai những nội dung cơ bản của đề tài nghiên cứu, chúng tôi
đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được chúng tôi sử
dụng để mô tả tiến trình phát triển của các vấn đề về Trọng tài nói chung và sự
hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với Trọng tài nói riêng trong điều kiện kinh tế
xã hội của Việt nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được chúng tơi sử dụng để khái qt
hố, đánh giá và nhận định về các vấn đề pháp lý liên quan đến sự hỗ trợ của
cơ quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài;
- Phương pháp so sánh pháp luật được chúng tôi sử dụng để đối chiếu với
pháp luật Trọng tài của một số nước ừên thế giới, để thấy sự tương đồng và khác
biệt của pháp luật Việt Nam so vói pháp luật một số nước về vấn đề này.


5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:

3


+ Giải quyết một số vấn đề lý luận về bản chất Trọng tài để giải thích
cần phải có sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài;
+ Phân tích sâu sắc những quy định của pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ
của cơ quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài; so sánh, đối chiếu với những
quy định trước đây của pháp luật Việt nam cũng như những quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới về vấn đề này
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi của quy định này.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
+ Tiếp cận cơ sở lý luận của việc cần phải có sự hỗ trợ của cơ quan tư
pháp đối với hoạt động trọng tài, đó chính là từ bản chất của Trọng tài;
+ Tiếp cận những quy định của pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của cơ
quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài;
+ Từ những quy định này, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu quả của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài, từ
đó góp phần đưa hình thức Trọng tài đến gần hơn nữa với các thương nhân, để
họ yên tâm lựa chọn Trọng tài như một sự lựa chọn tối ưu cho mình.

6. Những đóng góp mới của đề tài
- Nghiên cứu về bản chất của Trọng tài với tính chất là một hình thức
giải quyết tranh chấp tồn tại song song vói Tồ án, từ đó chỉ ra sự cần thiết phải
có sự hỗ trợ của Toà án, của cơ quan thi hành án đối với hoạt động Trọng tài.
- Nghiên cứu chi tiết các quy định về sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối
với hoạt động của Trọng tài một cách có hệ thống.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi của

sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động Trọng tài.

4


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỂ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm, đặc điểm của Trọng tài thương mại
Khi nghiên cứu về Trọng tài ở các nước khác nhau nhất là ở các nước có
nền kinh tế thị trường phát triển, chúng ta đều thấy rằng Trọng tài có q trình
hình thành và phát triển từ rất lâu.
Trong thương mại quốc tế, Trọng tài được hiểu là hình thức xét xử do
các bên lập ra trên cơ sở thoả thuận và trong lĩnh vực mà pháp luật quy định
để giải quyết các tranh chấp giữa chính các bên đương sự đó. Ngoài ra, Trọng
tài cũng thường được gọi là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Toà án
được các bên thoả thuận lựa chọn.
Trong khoa học pháp lý, Trọng tài thương mại được nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau. Vì vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về Trọng tài.
Theo “Đại từ điển kinh tế thị trường”: “Trọng tài là một phương thức giải
quyết một cách hồ bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự
nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho một người thứ
ba có tư cách cơng bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra
có hiệu lực ràng buộc đối với cả hai bên” [1, tr 1989]
Luật Trọng tài các nước cũng có những định nghĩa khác nhau về trọng
tài: có nước đưa ra giải thích thuật ngữ “Trọng tài” như Hàn Quốc, Nga; có
nước lại khơng giải thích về khái niệm “Trọng tài” như Hoa Kỳ, Anh,
Singapore.
Theo Luật Trọng tài Hàn Quốc, điều 3 quy định: ”Thuật ngữ “Trọng
tài” nghĩa là một thủ tục giải quyết bất kỳ tranh chấp nào theo luật tư, khơng
theo sự phân xử của Tồ án mà dựa trên sự phán xử của trọng tài viên theo

thoả thuận của các bên”.
Theo Luật Trọng tài Nga, điều 2 thì: ”Trọng tài là trọng tài bất kỳ (do
các bên tự lựa chọn) không phụ thuộc vào việc trọng tài được thành lập riêng

5


để xét xử một vụ việc cụ thể nào đó hoặc do một cơ quan trọng tài hoạt động
thương xuyên thực hiện”
Ở Việt Nam, thuật ngữ “Trọng tài” được giải thích theo khoản 1 điều 2
Pháp lệnh trọng tài thương mại (2003): “Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và
tiến hành theo trình tự thủ tục do Pháp lệnh này quy định”.
Như vậy, theo tinh thần của Pháp lệnh trọng tài thương mại (2003)
Trọng tài thương mại được gọi là Trọng tài.
Có thể nói, Trọng tài nói chung và Trọng tài thương mại nói riêng tuy
được hiểu dưới nhiều cách khác nhau nhưng tựu chung lại có thể được nhìn
nhận dưới hai góc độ: Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh
chấp hoặc Trọng tài thương mại là một cơ quan tài phán có thẩm quyển giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội.
Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp
Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Trọng tài được Luật
phấp eác nước thừa nhận là một cơ quan tài phán độc lập tồn tại song song với
Toà án. Pháp luật tơn trọng quyền tự do lựa chọn đó của đương sự, khi có
tranh chấp trong thương mại phát sinh các chủ thể có thể lựa chọn hoặc Trọng
tài hoặc Tồ án giải quyết cho mình. Nếu các bên đã có thoả thuận đưa tranh
chấp ra giải quyết tại trọng tài và thoả thuận đó có hiệu lực mà sau đó các bên
lại đưa đơn yêu cầu Toà án giải quyết thì Tồ án sẽ trả lại đơn kiện cho
ngun đơn.

Trọng tài và Tồ án đều là những cơ quan có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại. Tuy nhiên,
bản chất của Trọng tài hoàn toàn khác với Toà án. Trọng tài là một tổ chức xã
hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên có chức năng giải
quyết các tranh chấp thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan do Nhà
nước thành lập và cũng không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước. Khi xét
xử Trọng tài khơng nhân danh Nhà nước mà dựa trên ý chí tự nguyện của các
6


bên để ra phán quyết. Các trọng tài viên không do Nhà nước bổ nhiệm do vậy
không hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.Trọng tài viên thường là những
người hoạt động kiêm nhiệm chủ yếu làm việc trong một lĩnh vực chun mơn
nào đó. Khi có tranh chấp phát sinh từ lĩnh vực chuyên môn mà các trọng tài
viên đang hoạt động thì có thể được các bên lựa chọn hoặc tổ chức trọng tài
chỉ định giải quyết.
Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, Trọng tài tồn tại độc lập
song song với Tồ án và có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi được đương
sự lựa chọn.
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của
các trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột
bằng cách đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thoả thuận của các bên tranh
chấp và có giá trị chung thẩm đối với các bên.
Với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh thương mại Trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau:
*Tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp
Thứ nhất, các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, địa điểm
giải quyết tranh chấp
Khi tranh chấp phát sinh, đương sự có quyền lựa chọn một Trung tâm

trọng tài hoặc tự thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp đồng
thời lựa chọn trọng tài viên cho mình. Mỗi bên tự chọn cho mình một trọng tài
viên trong danh sách trọng tài của Trung tâm trọng tài (nếu giải quyết tranh
chấp tại trung tâm trọng tài) hoặc một trọng tài viên bất kỳ (nếu giải quyết
tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập). Đối với các tranh chấp
có yếu tố nước ngồi đương sự cịn có thể lựa chọn trọng tài viên ngoài danh
sách trọng tài của trung tâm trọng tài và lựa chọn Luật áp dụng để giải quyết
tranh chấp.
Đương sự cịn có quyền thỏa thuận về địa điểm giải quyết tranh chấp.
Trong trường hợp tranh chấp được giải quyết tại một Trung tâm trọng tài mà
7


các bên không thoả thuận được địa điểm giải quyết tranh chấp thì Chủ tịch
trung tâm trọng tài sẽ là người quyết định vấn đề này. Nếu tình huống này xảy
ra trong trường hợp các bên giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do các
bên thành lập thì các bên có thể u cầu Chánh án Tồ án Tồ án nhân dân
cấp tỉnh nơi cư trú hoặc có trụ sở của nguyên đơn quyết định địa điểm giải
quyết tranh chấp.
Có thể nói, các bên có quyền quyết định gần như tồn bộ các vấn đề có
liên quan đến thủ tục tiền tố tụng. Điều này chỉ có khi giải quyết bằng Trọng tài.
Nếu khởi kiện tại Tòa án thì các bên khơng có những quyền này mà sẽ
do Hội đồng xét xử quyết định.
Thứ hai, Trọng tài xét xử kín
Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp khơng cơng khai. Tại phiên họp có
sự tham gia của các bên tranh chấp hoặc đại diện của các bên. Mục đích của
việc giải quyết khơng cơng khai là để bảo tồn bí mật kinh doanh cũng như uy
tín của các bên trên thương trường, tránh bị coi là đang theo kiện, đổng thời
giữ được mối quan hệ bạn hàng cho các bên sau khi giải quyết tranh chấp.
Đây là một nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp tại Trọng tài bởi Trọng tài là

một cơ quan tài phán tư được các bên trao cho thẩm quyền giải quyết tranh
chấp thương mại - một dạng của tranh chấp dân sự. Do vậy, chỉ khi có sự đồng
ý của các bên thì Hội đồng trọng tài mới được cho phép người khác tham dự
phiên họp. Khác với Trọng tài, Tòa án xét xử cơng khai trừ trường hợp vụ
việc có liên quan đến bí mật quốc gia. Sở dĩ có ngun tắc này là do Tòa án là
một cơ quan xét xử của Nhà nước nên phải đảm bảo tính cơng khai minh
bạch để đảm bảo cơ chế giám sát của các cơ quan có thẩm quyền theo Luật
định. Tuy nhiên, nguyên tắc xét xử kín trong Tố tụng trọng tài cũng chỉ được
thực hiện trên cơ sở sự nhất trí của các đương sự.
Thứ ba, Trọng tài giải quyết tranh chấp trong giới hạn yêu cầu của
các bên.
Khi các bên có yêu cầu giải quyết một phần hoặc toàn bộ vụ tranh chấp
thì Trọng tài cũng chỉ giải quyết một phần hoặc tồn bộ vụ tranh chấp theo
u cầu đó. Ngun nhân là do thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng


tài là do các bên giao phó hay nói cách khác quan hệ giữa các bên tranh chấp
và trọng tài được hình thành trên cơ sở hợp đồng trong đó sự tự do thoả thuận
luôn được đặt lên hàng đầu trong quan hệ giữa các bên của hợp đổng. Do vậy,
nếu các bên tranh chấp với tư cách là một bên của hợp đồng có yêu cầu chỉ
giải quyết một phần vụ tranh chấp thì Trọng tài cũng chỉ được giải quyết theo
đúng yêu cầu đó của các bên.
Trong khi đó, nếu các bên khởi kiện tại Tịa án thì Tịa sẽ xét xử tồn bộ
vụ tranh chấp mà khơng phụ thuộc vào việc các bên chỉ yêu cầu giải quyết
một phần vụ tranh chấp.
Thứ tư, các bên có quyền tự thương lượng trong tồn bộ q trình
giải quyết tranh chấp.
Các bên có quyền tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp ở tất cả các giai
đoạn của tố tụng trọng tài: từ giai đoạn hòa giải cho đến khi Hội đồng trọng
tài mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Ngay cả tại phiên họp của Hội

đồng trọng tài nếu các bên tự thương lượng được với nhau nhằm giải quyết
tranh chấp thì Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh
chấp theo khoản 2 Điều 47 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp ở Tịa án thì lại có sự khác biệt,
các bên chỉ có quyền thỏa thuận tự giải quyết trong giai đoạn hòa giải. Nếu
kết thúc giai đoạn này mà các bên khơng tự giải quyết được thì Hội đồng xét
xử sẽ quyết định mở phiên tòa xét xử. Kể từ khi có quyết định đưa vụ tranh
chấp ra xét xử thì các bên khơng có quyền tự thỏa thuận giải quyết nữa mà do
Hội đồng xét xử quyết định.
*Trọng tài chỉ giải quyết một lần
Đây là một nguyên tắc giải quyết tranh chấp của Trọng tài. Tranh chấp
có thể được giải quyết tại một Trung tâm trọng tài hoặc tại Hội đồng trọng tài
do các bên thành lập. Các Trung tâm trọng tài là các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, có chức năng giải quyết tranh chấp thương mại nhưng hoạt động độc
lập với nhau và không có mối quan hệ theo cấp như Tồ án. Cịn các Hội đồng
trọng tài chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp và giải thể ngay
sau khi tranh chấp được giải quyết. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại
9


(2003), nếu các bên không đồng ý với quyết định của Trọng tài thì có quyền
u cầu Tịa án có thẩm quyền tuyên hủy quyết định Trọng tài.
Còn ở Tòa án, nếu đương sự không đồng ý với Bản án, quyết định của
Tịa án cấp sơ thẩm thì có quyền kháng cáo theo trình tự phúc thẩm trong thời
hạn Luật định. Trong một số trường hợp đặc biệt, bản án, quyết định của Tòa
phúc thẩm được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trước đây, Trọng tài kinh tế Nhà nước theo Pháp lệnh trọng tài kinh tế
được tổ chức thành ba cấp : cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Nếu một
trong các bên đương sự không đồng ý với quyết định của Trọng tài kinh tế cấp
dưới thì có quyền kháng cáo lên Trọng tài kinh tế cấp trên. Mơ hình trọng tài

này cũng giống như Tịa án nhân dân vì bản chất của Trọng tài kinh tế vừa là
cơ quan tư pháp vừa là cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền tuyên bố
hợp đồng vô hiệu, giải quyết tranh chấp về hợp đồng, đăng ký kinh cho doanh
nghiệp, tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Trong đó, tun bố hợp đồng vơ
hiệu và tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản vốn là chức năng của Tồ án, đăng
kí kinh doanh cho doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý Nhà
nước. Sự bất cập về thẩm quyền này của Trọng tài kinh tế Nhà nước là một
trong những nguyên nhân dẫn đến việc Trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể
vào năm 1994 và chức năng của nó được chuyển giao cho Tồ kinh tế thuộc
Tịa án nhân dân.
Hiện nay, Trọng tài thương mại đều là các Trung tâm trọng tài phi
Chính phủ đúng với bản chất của Trọng tài là một bên thứ ba không mang
quyền lực Nhà nước được các bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh
chấp.
Tóm lại, Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp kết hợp được ưu
điểm của thương lượng, hoà giải và giải quyết tại Toà án. Cụ thể, tố tụng trọng
tài vừa đảm bảo sự tự do thoả thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các bên, giữ
được quan hệ giữa các bên sau khi giải quyết như hình thức thương lượng, hồ
giải; vừa đảm bảo sự chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài phán như hình thức
Tồ án. Do vậy, Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, được các nhà kinh doanh sử dụng
10


như một hình thức tối ưu để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại.

2.

Các hình thức của Trọng tài và ưu và nhược điểm cơ bản của mỗi


hình thức đó
Trọng tài ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng được tổ chức
dưới các dạng khác nhau nhưng chủ yếu tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài
vụ việc và trọng tài thường trực
2.1 Hình thức trọng tài vụ việc (Trọng tài adhoc)
Trọng tài vụ việc được hiểu là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu
cầu của đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi
tranh chấp đó đã được giải quyết. Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế
của Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế UNCITRAL 1985 và
Luật trọng tài các nước cũng khơng có định nghĩa thế nào là trọng tài vụ việc.
Cách hiểu phổ biến nhất đối với trọng tài vụ việc: đó là hình thức trọng tài do
các bên thành lập.Theo quyển “Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh
ehấp lựa chọn” : “Trọng tài vụ việc có nghĩa là trọng tài không được tiến hành
theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực bởi các bên không bắt buộc
phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tổ chức thường trực. Họ có thể i\ỳ
do quy định quy tắc tố tụng riêng. Nói cách khác Trọng tài vụ việc là trọng tài
tự tiến hành”.
Trọng tài vụ việc tồn tại chỉ có tính chất lâm thời, khơng có trụ sở và
khơng có bộ máy cố định, trọng tài viên do các đương sự thoả thuận lựa chọn,
ở Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung chưa từng có trọng tài vụ
việc. Năm 1987 lần đầu tiên pháp luật Việt Nam cho phép các bên tranh chấp
được lựa chọn trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp (xem điều 25 Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1987). Các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài kế
tiếp thừa nhận trọng tài vụ việc là một trong những phương thức giải quyết
tranh chấp (xem điều 53 NĐ 139/HĐBT ngày 05/09/1988, điều 102 NĐ12/CP
ngày 18/02/1997, điều 122 NĐ24/CP ngày 31/07/2000). Tuy nhiên, trên thực
11



tế khơng có một quy chế pháp lý nào, một văn bản pháp luật nào để trọng tài
vụ việc có thể hoạt động. Do đó, Trọng tài vụ việc hoạt động không hiệu quả.
Pháp lệnh trọng tài thương mại đã quy định tương đối cụ thể về trọng tài
vụ việc như: việc chọn trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài, thủ tục tố
tụng, việc huỷ bỏ quyết định trọng tài, việc thi hành quyết định của Trọng tài
vụ việc tương tự như trọng tài thường trực. Đây là cơ sở vững chắc để trọng tài
vụ việc hoạt động song song với Trọng tài thường trực và Toà án.
* Những ưu điểm của Trọng tài vụ việc
Một ưu điểm của Trọng tài vụ việc đó là các bên được hoàn toàn tư
quyết định về thủ tục tố tụng, quy tắc tố tụng và các vấn đề khác có liên quan.
Điều này đòi hỏi sự hợp tác của các bên và cố vấn của họ để thực hiện việc
giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết
tranh chấp các bên cịn có thể thoả thuận bỏ qua một số thủ tục không cần
thiết để rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp. Khi đó tranh chấp sẽ được
giải quyết nhanh chóng, tránh gián đoạn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của các bên.
Bên cạnh đó, khi lựa chọn Trọng tài vụ việc các bên sẽ khơng phải trả
các chi phí hành chính như khi giải quyết tại Trọng tài thường trực.Thơng
thường khoản chi phí này không nhỏ. Theo quy tắc tố tụng Trọng tài của
Phòng Thương mại quốc tế ICC 1998, khi nộp đơn kiện nguyên đơn phải nộp
một khoản phí đăng ký là 2.500 USD và khoản phí này sẽ khơng được hồn lại
trong bất cứ trường hợp nào. Mức phí hành chính tối đa mà ICC yêu cầu các
bên phải nộp có thể lên tới 75.000 USD (biểu phí tổn và các chi phí trọng tài
của ICC có hiệu lực từ tháng 1 năm 1998). Tại Việt Nam, Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam cũng có biểu phí trọng tài. Trong đó được chia làm hai loại
gồm phí hành chính và thù lao cho các trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp.
* Những nhược điểm của Trọng tài vụ việc
Bên cạnh những ưu điểm như trên, Trọng tài vụ việc cũng có những
nhược điểm đáng kể.


12


Các bên thường có khuynh hướng lựa chọn Trọng tài vụ việc để tránh
chi phí phụ và những trì hỗn có thể liên quan đến việc áp dụng quy tắc của
một số tổ chức trọng tài thường trực. Tuy nhiên, Trọng tài vụ việc không phải
bao giờ cũng nhanh hơn và ít tốn kém hơn.
Nhược điểm lớn nhất của trọng tài vụ việc (có thể là yếu tố bất lợi
nghiêm trọng) đó là phải phụ thuộc hồn tồn vào tinh thần thiện chí của các
bên và luật sư của họ. Nếu một bên khơng có tinh thần thiện chí thì q trình
giải quyết sẽ có nguy cơ bị trì hỗn và nhiều khi không thể thành lập được Hội
đông trọng tài vì khơng có quy tắc tố tụng trọng tài nào được áp dụng.
Trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vụ việc, khơng có
tổ chức nào giám sát quá trình tiến hành tố tụng và giám sát các trọng tài viên.
Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào các trọng tài viên tiến hành trọng tài
như thế nào và liệu họ có kiểm sốt được tồn bộ q trình trọng tài hay khơng.
Cả trọng tài viên và các bên đều khơng có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ
giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thương trực trong trường hợp phát sinh sự
kiện không dự kiến trước và trong trường hợp trọng tài viên không thể giải
quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ phía
Tồ án.
Do vậy chỉ khi tồn tại một Hội đồng trọng tài và một quy tắc tố tụng cụ
thể được xác lập thì quá trình tố tụng mới có thể được sn sẻ như ttrọng tài quy
chế trong trường hợp một bên từ chối không tham gia vào quá trình trọng tài.
2.2 Hình thức trọng tài thường trực (trọng tài quy chế)
Trọng tài thường trực là loại hình trọng tài được thành lập dưới dạng các
trung tâm, tổ chức hoặc hiệp hội, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định.
Các trung tâm trọng tài có danh sách trọng tài viên và quy tắc tố tụng riêng.
Khi các bên lựa chọn trọng tài thường trực thì các bên sẽ nhận được sự hỗ trợ
nhất định của tổ chức trọng tài này liên quan tới tổ chức và giám sát tố tụng

trọng tài. Tuy nhiên, để nhận được sự hỗ trợ các bên phải trả một số chi phí
nhất định gọi là chi phí hành chính. Các chi phí này có thể nằm trong chi phí
trọng tài hoặc tách riêng.

13


Để giúp các bên có thể dễ dàng tiếp cận trọng tài thì các tổ chức trọng
tài thường trực đều có những điều khoản mẫu. Ví dụ, Trung tâm trọng tài quốc
tế Viêt Nam có điều khoản mẫu như sau:”Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc
liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam theo quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm này”. Hiệp hội trọng tài Hoa
Kỳ có những điều khoản mẫu như sau: “Bất kỳ tranh chấp, mọi khiếu nại phát
sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này được giải quyết bằng trọng tài theo
Quy tắc tố tụng trọng tài của Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ”... Với việc đưa các điều
khoản trọng tài vào hợp đồng các bên tranh chấp sẽ đảm bảo nhận được đầy đủ
sự hỗ trợ của trọng tài quy chế, đảm bảo trong mọi trường hợp trọng tài vẫn được
tiến hành khơng phụ thuộc vào việc một bên có tham gia tố tụng hay không.
Các trung tâm trọng tài đều có quy tắc tố tụng riêng trong đó có quy
định một số giới hạn như: các bên phải chọn trọng tài viên từ danh sách trọng
tài của trung tâm, yêu cầu trọng tài viên phải là cơng dân nước mình.Tuy
nhiên, một số tổ chức trọng tài khơng có danh sách trọng tài viên hoặc có
nhưng khơng bắt buộc các bên lựa chọn trọng tài viên trong danh sách đó. Ví
dụ, theo Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, đối với
các tranh chấp có yếu tố nước ngồi thì các bên có quyền chỉ định trọng tài
viên ngoài danh sách trọng tài viên của Trung tâm (xem điều 8 Pháp lệnh
Trọng tài thương mại).
* Những ưu điểm cơ bản của Trọng tài thường trực
Việc quy định chi tiết các thủ tục tố tụng từ khi bắt đầu cho đến khi kết

thúc là thuận lợi lớn nhất của trọng tài quy chế.Chẳng hạn, khi các bên thoả
thuận tranh chấp được giải quyết bởi Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên
nhưng bị đơn lại không chỉ định trọng tài viên. Khi đó, quy tắc tố tụng sẽ quy
định cụ thể. Theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam, nếu bị đơn không chỉ định trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày kể
từ ngày nhận được yêu cầu chỉ định trọng tài viên thì chủ tịch Trung tâm sẽ
chỉ định trọng tài viên cho bị đợn. Có thể nói, Trọng tài thường trực có những

14


quy định rất chặt chẽ, toàn diện về mặt thủ tục tố tụng để giải quyết tranh
chấp.
Ngoài ra, các quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường trực
quy định rất chi tiết về các giai đoạn của quá trình tố tụng đảm bảo trong mọi
trường hợp tranh chấp sẽ được giải quyết, không phụ thuộc và việc một bên có
tham gia tố tụng hay khơng. Theo quy tắc tố tụng của Phòng Thương mại
quốc tế ICC: “Nếu một trong các bên mặc dù đã được thông báo hợp lệ mà
bên nhận được thông báo vẫn vắng mặt khơng có lý do chính đáng thì trọng
tài vẫn có quyền tiếp tục các bước tố tụng và quá trình tố tụng vẫn được coi là
tiến hành với sự có mặt của các bên”
Bên cạnh đó, hầu hết các Trung tâm trọng tài đều có các chuyên viên
được đào tạo để giám sát quá trình tố tụng. Các chuyên viên này sẽ đảm bảo
Hội đồng trọng tài được thành lập, các khoản phí trọng tài được nộp đầy đủ,
ghi nhớ các thời hạn...Theo điều 27 Quy tắc tố tụng của ICC, trước khi kí bất
kỳ quyết định nào Hội đổng trọng tài phải nộp bản dự thảo quyết định cho
ICC. ICC có thể quyết định sửa đổi về hình thức quyết định trọng tài, có thể
lưu ý Hội đồng trọng tài về những vấn đề chính của vụ tranh chấp. Hội đồng
trọng tài không được ban hành quyết định khi chưa được ICC phê chuẩn về
hình thức của quyết định. Những quy định này nhằm hạn chế tối đa những sai

sót có thể làm cho quyết định của trọng tài bị tuyên vồ hiệu.
* Những nhược điểm cơ bản của Trọng tài thường trực
Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận, hình thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thường trực vẫn còn những nhược điểm đáng lưu ý.
Nhược điểm lớn nhất của trọng tài quy chế là tốn kém chi phí. Ngồi các chi
phí thù lao cho các trọng tài viên thì các bên cịn phải trả thêm các chi phí hành
chính.
Ngồi ra, q trình tố tụng bị kéo dài mà Hội đồng trọng tài và các bên
bắt buộc phải tuân theo.Ví dụ, theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam, bị đơn có quyền gia hạn thời hạn nộp bản tự bảo vệ tới 75
ngày (Điều 10) hoặc việc gửi giấy triệu tập phải được gửi cho các bên trước 30
15


ngày trước ngày mở phiên họp giải quyết tranh chấp.Tất cả các thời hạn trên
đều phải được tuân thủ nghiêm ngặt, nếu không sẽ bị coi là vi phạm thủ tục tố
tụng theo quy định của pháp luật.

3.

Thực trạng hoạt động của Trọng tài thương mại ở Việt Nam

trước năm 2003
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, ở Việt Nam đã tồn tại một hệ
thống các cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nước. Đây là cơ quan trực thuộc
Chính phủ, có chức năng quản lí về hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh
chấp hợp đồng kinh tế, đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp và tuyên bố
doanh nghiệp bị phá sản và được tổ chức ở ba cấp: cấp Trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện, v ề tố tụng, trọng tài cấp trên có qụyền giải quyết khiếu nại đối với
quyết định của trọng tài cấp dưới giống như hệ thống Tồ án. Trong q trình

giải quyết tranh chấp, với tư cách là một cơ quan Nhà nước, Trọng tài có
quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp khẩn cấp
tạm thời đồng thời có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu quyết định
của mình khơng được các bên tự nguyện thi hành. Như vậy, Trọng tài kinh tế
Nhà nước trước đây vừa là một cơ quan hành chính lại vừa là cơ quan tư pháp;
vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hợp đồng vừa giải quyết tranh
chấp về hợp đồng. Trọng tài kinh tế nhà nước tự kiểm tra, giám sát các quyết
định giải quyết tranh chấp của mình, tự cưỡng chế thi hành quyết định của mình
trong phạm vi pháp luật quy định mà không cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan
tư pháp như: Tồ án, Viện kiểm sát; chỉ có sự phối hợp cùng hoạt động với các
cơ quan như: Ngân hàng, cơ quan tài chính, cơ quan thuế... cùng cấp.
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường có sự định
hướng của Nhà nước, hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp đứng trước yêu
cầu phải đổi mới để phù hợp với các quan hệ mới phát sinh trong nền kinh tế
thị trường. Đáp ứng đòi hỏi đó của thực tiễn, ngày 01/07/1994, Trọng tài kinh
tế Nhà nước đã giải thể, thay vào đó là cơ quan Toà kinh tế nằm trong hệ
thống Toà án nhân dân. Đồng thời, các Trung tâm trọng tài kinh tế (theo
NĐ116/CP ngày 05/09/1994) và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (hình
16


thành trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng
Trọng tài Hàng hải theo QĐ 204/Ttg ngày 28/04/1993) đã ra đời . Tuy nhiên,
trong một thời gian dài, Tồ án nói riêng và các cơ quan Nhà nước nói chung
khơng hề có sự hỗ trợ, giúp đỡ đối với hoạt động trọng tài. Vì vậy, trong một
thời gian dài, trọng tài hoạt động rất kém hiệu quả, các vụ tranh chấp đưa ra
trọng tài giải quyết không nhiều, các phán quyết trọng tài dù đã được tuyên
cũng rất khó có khả năng thi hành trên thực tế, bởi phán quyết đó khơng được
cơ quan nhà nước cưỡng chế thi hành.
Có thể lấy con số thực tế các vụ tranh chấp đã được đưa ra trọng tài giải

quyết để minh chứng cho điều đó. Đối với Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam:
- Năm 2004, thụ lí 32 vụ. Các đương sự nước ngồi bao gồm: Singapore
06, Nhật 01, Hồng Kông 02,Hàn 03, Đài Loan 02, Anh 01, Hà Lan
03,Inđônễia 01,Tây Ban Nha 01, Uruquay 01, Vanuatu 01.
-

Năm 2005, thụ lí 32 vụ. Các đương sự nước ngoài bao gồm: Singapore

01, Hàn 08, Malaixia 02, Đài Loan 02, áo 02, Hà Lan 01, Đức 02, Hoa kỳ
01,Na Uy 01, Slovakia 01.
(theo: />Đối với các Trung tâm trọng tài thành lập theo Nghị địmh 116/CP ngày
05/09/1994 của Chính phủ, tình hình hoạt động càng khơng có gì khả quan.
Đơn cử như Trung tâm Trọng tài kinh tế Sài Gòn - một trong năm Trung tâm
trọng tài được thành lập theo Nghị định 116/CP thì: năm đầu tiên thành lập
(1998) thụ lí 10 hồ sơ; năm 1999 cịn 7 hồ sơ; năm 2000 thụ lí 6 hồ sơ; năm
2001 còn lại 3 vụ; năm 2002 chỉ còn 2 hồ sơ. Từ năm 2003 đến nay, khơng
cịn người tìm đến. Trong số 30 hồ sơ, chỉ giải quyết được 16 trường hợp (12
vụ hoà giải thành, 4 vụ ra phán quyết) [18]. Các trung tâm trọng tài khác
(Trung tâm Trọng tài kinh tế Hà Nội, Trung tâm Trọng tài kinh tế Thăng long,
Trung tâm Trọng tài kinh tế Bắc giang, Trung tâm Trọng tài kinh tế Cần thơ)
từ khi thành lập đến nay cũng gần như trong cảnh “không người tìm đến”. [15,
từ tr.45 đến tr.46].

17


Từ thực tế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại của các Trung tâm trọng tài kể trên, có thể thấy rằng, hoạt động của trọng
tài còn quá khiêm tốn so với đòi hỏi của thực tiễn. Đây là con số đáng lo ngại,

vì thực tế có nhiều tranh chấp phát sinh nhưng các thương nhân không lựa
chọn trọng tài để yêu cầu giải quyết cho mình. Tình trạng này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân như: các thương nhân chưa có thói quen đưa tranh chấp ra
trọng tài, chưa hiểu biết cụ thể về trọng tài, ngại chi phí cao cho q trình giải
quyết tại trọng tài... Nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất, đó là pháp luật về
trọng tài có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn đời sống kinh doanh, thậm
chí có những quy định của pháp luật còn mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, theo
NĐ 116/CP: “Trường hợp quyết định của trọng tài khơng được một bên chấp
hành thì bên kiaj£Ĩ quyền u cầu Tồ án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế” (Điều 31). Điều đó có nghĩa là sau khi vụ
việc đã được giải quyết bởi trọng tài thì đương sự vẫn có quyền khởi kiện tại
Tồ án. Trong khi đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế lại coi
đây là một trong những trường hợp mà đương sự sẽ khơng cịn quyền khởi
kiện tại Tồ án bởi Toà án trả lại đơn khi sự việc đã được giải quyết bằng một
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc của cơ quan có
thẩm quyền (xem điều 32). Do đó, nếu các bên lựa chọn trọng tài thì cũng
đồng nghĩa với việc chấp nhận rủi ro khi một bên không chịu thi hành phán
quyết của trọng tài.Vì vậy, có thể nói các quy định của pháp luật chưa bảo vệ
thoả đáng quyền lợi của các chủ thể tranh chấp, chưa tạo được sự tin cậy vững
chắc cho các nhà kinh doanh khi họ đưa tranh chấp tới trọng tài. Vì vậy, thay
vì lựa chọn trọng tài như một hình thức giải quyết tranh chấp tối ưu, họ lại lựa
chọn các hình thức giải quyết khác như: tự thương lượng, hoà giải, khởi kiện
ra Tồ án; hoặc thậm chí họ dùng cả “luật rừng’ để tự bảo vệ quyền lợi cho
mình [16, tr.673]. Đây là điều rất đáng lưu tâm đối với các nhà lập pháp nói
riêng và đối với các cơ quan thi hành pháp luật cũng như bảo vệ pháp luật nói
chung, bởi vì luật pháp chưa đủ sức bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
những chủ thể bị xâm phạm về quyền lợi.

18



Chính từ yêu cầu bức xúc của thực tiễn này mà Pháp lệnh trọng tài
thương mại (2003) đã ra đời. “Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài đã đánh dấu
một bước tiến mới trong quá trình lập pháp ở Việt Nam nói chung và pháp luật
trọng tài nói riêng. Pháp lệnh đã khắc phục được những điểm bất cập, chồng
chéo, mâu thuẫn của các văn bản trước đây về trọng tài, đồng thời đáp ứng yêu
cầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” [17, tr.49]. Cụ thể,
Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã có nhiều quy định mới, đặc biệt là những
quy định về sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối vófi hoạt động trọng tài - điều
mà trước đây còn bị bỏ ngỏ. Vì vậy, các nhà kinh doanh hiện nay khi có tranh
chấp có thể yên tâm lựa chọn trọng tài để yêu cầu giải quyết tranh chấp cho
mình. Trọng tài đã trở nên có sức hấp dẫn hơn so với trước đây.

19

t'


CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỂ
S ự HỖ TRỢ T ư PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA








TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1. Khái quát chung về hỗ trợ tư pháp
1.1. Khái niệm hỗ trợ tư pháp
Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng như trên thế giới, khái niệm tư
pháp được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau.Trong pham vi bài nghiên
cứu này, khái niệm tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của cơ quan có thẩm
quyền để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội.
Cũng trong phạm vi bài nghiên cứu này, hỗ trợ tư pháp được hiểu là
hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết những bế tắc
trong hoạt động Trọng tài đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài
thương mại.
Sự trợ giúp này là vô cùng cần thiết đối với hoạt động của Trọng tài
thương mại. Tuy nhiên, hỗ trợ tư pháp hoàn toàn khác với can thiệp tư pháp.
Can thiệp tư pháp là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đơn phương đưa
ra các quyết định có ảnh hưởng tới thẩm quyền của Trọng tài thương mại.
Nếu như hỗ trợ tư pháp là các hoạt động trợ giúp của các cơ quan nhà
nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng nhằm tháo gỡ những khó khăn
trong hoạt động của trọng tài thì can thiệp tư pháp là các hoạt động vi phạm về
thẩm quyền độc lập của Trọng tài.
Sự phân biệt này là hết sức cần thiết bởi ranh giới giữa hỗ trợ tư pháp và
can thiệp tư pháp là rất nhỏ trong khi ý nghĩa của chúng lại hoàn toàn khác
nhau. Hỗ trợ tư pháp sẽ giúp đảm bảo tính khả thi trong quyết định của trọng
tài, nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài. Còn can thiệp tư pháp lại hạn
chế quyền tự do kinh doanh của các trung tâm Trọng tài bởi Trọng tài là một
cơ quan tài phán độc lập, các trung tâm trọng tài được tổ chức theo mơ hình
20


doanh nghiệp, trong đó, các trọng tài viên khơng hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước mà hưởng thù lao do các đương sự chi trả. Do vậy, quyền tự do kinh
doanh của các Trung tâm trọng tài cũng cần được tôn trọng như bất kỳ một

chủ thể kinh doanh nào khác trong xã hội. Bên cạnh đó, sự can thiệp từ phía
các cơ quan tư pháp cũng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương
sự khi họ đã lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Mặt khác, can thiệp tư
pháp sẽ dẫn tới việc các cơ quan tư pháp làm thay trọng tài còn Trọng tài tuy
tồn tại độc lập nhưng lại không phát huy được vai trò là một cơ quan tài phán
tư độc lập.
1.2. Nội dung của sự hỗ trợ tư pháp trong hoạt động trọng tài
Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối vói hoạt động Trọng tài thương mại
bao gồm các hoạt động chủ yếu như: chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đối với
Trọng tài vụ việc; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; huỷ quyết định Trọng
tài; xem xét điều khoản thoả thuận Trọng t à i ; xem xét sự đúng đắn, khách
quan vô tư của Trọng tài viên trong quá trình làm nhiệm vụ.
Sự hỗ trợ của các cơ quan tư pháp phải đảm bảo nguyên tắc: không can
thiệp quá sâu vào hoạt động trọng tài, khơng làm mất đi tính độc lập của trọng
tài, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động giám sát cũng như hỗ trợ hoạt động
trọng tài.
1.3. Các cơ quan hỗ trợ tư pháp
Trong khoa học pháp lí thế giới, việc xác định cơ quan nào là cơ quan tư
pháp vẫn chưa có sự thống nhất, ồ Việt Nam, pháp luật đã mặc nhiên cơng
nhận Tịa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án là các cơ quan tư pháp.
Theo đó, mỗi cơ quan được quy định cho những nhiệm vụ và quyền hạn khác
nhau trong quá trình hỗ trợ hoạt động của Trọng tài thương mại phù hợp với
chức năng của cơ quan đó.
* Tồ án nhân dân
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Tòa án là cơ quan
quyền lực nhà nước duy nhất được thực hiện chức năng xét xử và ra các phán
quyết buộc các bên thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
21



Tuy nhiên, khơng phải tất cả các Tồ án được thành lập trên lãnh thổ
Việt Nam đều tham gia hỗ trợ hoạt động trọng tài, mà chỉ có Tồ kinh tế - Toà
án chuyên giải quyết các tranh chấp về thương mại mới tham gia hỗ trợ hoạt
động trọng tài thương mại. Bởi vì, các vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết của Trọng tài phải là những tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương
mại mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh
(điều 2 Nghị định 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004). Vậy nên có thể khẳng
định rằng, chỉ có Tồ kinh tế với thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có tính
chất tương tự như Trọng tài mới tham gia hỗ trợ hoạt động trọng tài. Cịn các
Tồ án khác như: Tồ hình sự, Tồ dân sự, Tồ lao động, Tồ hành chính
khơng tham gia vào hoạt động hỗ trợ này, vì hoạt động của các Toà trên khác
cơ bản so với hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
* Viện kiểm sát nhân dân
Theo điểm 23 điều 1 Nghị quyết 58/2001 ngày 25/12/2001 về việc sửa
đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 sửa điều 137 Hiến pháp 1992:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thưc
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách
nhiệm do luật định.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02/04/2004, Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng nhiệm vụ bằng công tác: kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự , hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật (khoản 4 điều 3 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân ngày 02/04/2004).
Như vậy, Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đều khơng
có quy định về sự hỗ trợ của cơ quan kiểm sát đối với hoạt động của trọng tài
thương mại. Trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại, sự hỗ trợ của cơ quan
kiểm sát có được quy định nhưng cũng được thể hiện khá khiêm tốn so với cơ
quan toà án và cơ quan thi hành án. Tựu trung lại, Viện kiểm sát nhân dân cấp


22


tỉnh nơi Hội đồng trọng tài đang thụ lí giải quyết vụ tranh chấp có quyền kiểm
tra, giám sát quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hỗ
trợ hoạt động trọng tài; kiểm sát việc huỷ quyết định trọng tài của Toà án khi
đương sự yêu cầu...(điều 34, điều 53, 55, 56 Pháp lệnh Trọng tài thương mại).
Tức là, Viện kiểm sát không kiểm tra, giám sát trực tiếp hoạt động của trọng
tài mà chỉ kiểm tra, giám sát hoạt động hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài.
Điều này thể hiện đúng bản chất của hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan
kiểm sát cũng như không làm mất đi bản chất của trọng tài. Trọng tài vẫn là tổ
chức giải quyết các tranh chấp có tính chất “quyền lực tư”, thể hiện ý chí tự
định đoạt tối đa của các đương sự mà không bị sự can thiệp quá sâu từ phía
các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan kiểm sát nói riêng.
*Các cơ quan thi hành án
Cơ quan thi hành án là cơ quan có trách nhiệm đưa các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án áp dụng vào thực tiễn. Vì vậy, thi
hành án có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc “củng cố được hiệu quả pháp
luật, tăng cường pháp chế, bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của
QƠng dân và bằng cách đó nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước (mà đại diện
là các cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án)” [16, tr.14]. Bởi vì, một bản án hay
quyết định của Tồ án dù được xử đúng đến đâu thì quyền lợi của các bên bị
xâm phạm cũng chưa được bảo đảm trên thực tế; chỉ khi bản án, quyết định đó
được thi hành thì chủ thể bị xâm phạm quyền lợi của mới thực sự được bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ở Việt Nam, cơng tác thi hành án dân sự được thực hiện theo Pháp lệnh
thi hành án dân sự ngày 14/01/2004. Theo điều 11 Pháp lệnh thi hành án dân
sự, các cơ quan thi hành án dân sự gồm có: Cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện, cơ quan thi hành án quân khu và

trung ương và tương tương. Hệ thống cơ quan thi hành án được quản lí thống
nhất bởi Cơ quan quản lí thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Pháp lệnh thi hành án dân sự đã có quy định rất rõ về những bản án,
quyết định dân sự được cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Điều 1 Pháp lệnh
23


thi hành án dân sự (1993) quy định: “Những bản án, quyết định dân sự của
Tồ án nói trong Pháp lệnh này bao gồm bản án, quyết định về dân sự, hơn
nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình
sự và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định”. Còn theo điều 1 Pháp
lệnh thi hành án dân sự (2004), ngồi những bản án, quyết định kể trên, cịn
bổ sung thêm các bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài; quyết
định của Trọng tài nước ngoài được Tồ án Việt Nam cơng nhận và cho thi
hành tại Việt Nam; quyết định của trọng tài thương mại Việt Nam.
Đây là những quy định mới có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với hoạt
động trọng tài. Bởi vì, xuất phát từ bản chất của một tổ chức xã hội nghề
nghiệp, do các trọng tài viên thành lập nên, trọng tài hoạt động không nhân
danh quyền lực nhà nước và cũng khơng có sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nhân danh ý chí của các bên và
mang tính “quyền lực tư” nhiều hơn. Vì vậy, việc thi hành phán quyết trọng
tài trở thành điểm yếu nhất của tố tụng trọng tài. Phán quyết trọng tài trước
đây nếu không được một bên tự nguyện thi hành thì bên kia “có quyền u
cầu Tồ án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế” (điều 31 Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994). Nhưng trên thực tế,
khơng có quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài.
Hiện nay, vói những quy định mód trong Pháp lệnh Trọng tài thương
mại, Pháp lệnh thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án sẽ thi hành phán quyết
của trọng tài thương mại Việt Nam và trọng tài nước ngoài như một bản án,
quyết định dân sự của Toà án. Các chủ thể khi đưa tranh chấp ra Trọng tài giải

quyết đã yên tâm, bởi vì phán quyết trọng tài đã được thi hành bởi một cơ
quan nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước, nhân danh Nhà nước cưỡng chế
thi hành.
Như vậy, các cơ quan tư pháp tham gia hỗ trợ hoạt động trọng tài theo
Pháp lệnh Trọng tài thương mại bao gồm: Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân và cơ quan thi hành án. Tuỳ thuộc vào chức năng, ầhịêm vụ cụ thể
của từng cơ quan đó mà pháp luật quy định có sự hỗ trợ khác nhầu đối với
hoạt động trọng tài. Sự trợ giúp của ba cơ quan này đã giúp cho hoạt động
24


×