Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.42 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TIẾN LONG

ĐỀ TÀI

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
TRONG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng ứng dụng

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TIẾN LONG

ĐỀ TÀI

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI


TRONG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2015

Chuyên ngành
Mã số

: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng ứng dụng
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thanh Hiếu

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tiến Long


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS


Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

KTVA

Khởi tố vụ án


Mục lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
YÊU CẦU BỊ HẠI................................................................................................................ 7
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại ......................................... 7
1.2. Cơ sở của việc quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại ................ 24
1.3. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của bị hại ...................................................................................................................... 31
Kết luận chƣơng 1 .............................................................................................................. 35
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ................................................ 36
2.1. Các trƣờng hợp chỉ đƣợc khởi tố theo yêu cầu ........................................................ 36
2.2. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố ............................................................................. 39
2.3. Nội dung và hình thức yêu cầu khởi tố ..................................................................... 42
2.4. Hậu quả pháp lý của yêu cầu, không yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố .................... 43
Kết luận chƣơng 2 .............................................................................................................. 54
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỀ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ..................................... 55

3.1. Thực trạng thi hành pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của bị hại ...................................................................................................... 55
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại ... 68
Kết luận chƣơng 3 .............................................................................................................. 73
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 74


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Theo quy định của luật tố tụng hình sự khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm KTVA. Quy định này phù hợp với đối tượng điều
chỉnh của luật hình sự, là quan hệ xã hội giữa Nhà nước và người phạm tội. Trong
quan hệ này, người phạm tội có nghĩa vụ pháp lí phải chịu trách nhiệm hình sự cịn
Nhà nước buộc người phạm tội phải chịu nghĩa vụ pháp lí đó. Như vậy, về lý luận,
KTVA hình sự phải do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện mà
khơng phụ thuộc vào ý chí của bị hại hay bất kì ai, khơng ai có quyền can thiệp.
Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp hậu quả của tội phạm không chỉ
là thiệt hại về thể chất, vật chất mà còn cả thiệt hại về tinh thần. Việc KTVA để
nhằm xác định sự thật của vụ án, xử lý tội phạm, người phạm tội chỉ đảm bảo về
mặt bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội nhưng đối với bản thân bị hại,
là người trực tiếp bị tội phạm tác động, thì lại gây thêm nhưng tổn thất về tinh thần
cho họ. Trong những trường hợp như vậy, việc trao cho bị hại quyền quyết định có
KTVA hay khơng sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích của người này, đồng thời
khơng làm họ phải chịu những tổn thất khác về tinh thần. Quy định này không áp
dụng đối với tất cả các loại tội phạm và tất cả các tội danh trong BLHS mà chỉ đối
với những loại tội và tội danh nhất định.
KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại là một trong những vấn đề lý luận và
thực tiễn rất quan trọng. Quy định này trong BLTTHS năm 2015 kế thừa các quy

định trước đây về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại, đồng thời có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng. BLTTHS năm 2015 quy định thủ tục giải quyết những vụ
án khởi tố theo yêu cầu của bị hại khá chi tiết và cụ thể, trở thành cơ sở pháp lý
quan trọng, đã và đang phát huy vai trị tích cực trong thực tiễn.
Từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực ngày 01/01/2018, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại. Lý
luận về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại so với lý luận về người bị buộc tội


2
và các vấn đề khác của tố tụng hình sự chưa phát triển. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu một cách tương đối tồn diện và đầy đủ về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị
hại là yêu cầu khách quan và cần thiết, nhằm đặt vấn đề trong một chỉnh thể thống
nhất, từ đó kịp thời sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định của pháp luật, đáp ứng
thực tiễn giải quyết vụ án.
Từ những lý do nêu trên, việc tác giả chọn đề tài: “Khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của bị hại trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” làm luận
văn thạc sĩ luật học là có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, vấn đề TV hình sự theo yêu
cầu của bị hại đã được đề cập ở những cấp độ và mức độ nghiên cứu khác nhau.
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học, chưa có nhiều nghiên cứu về KTVA hình sự
theo yêu cầu của bị hại. Gần đây, luận án tiến sỹ luật học Khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Đức Thái bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015 là cơng trình nghiên
cứu đầu tiên, trực tiếp và có hệ thống về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại
trong tố tụng hình sự Việt Nam. Luận án đã phân tích khái niệm KTVA hình sự, bị
hại, khởi tố theo yêu cầu của bị hại; nêu, đánh giá cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của
quy định KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại, bản chất pháp lý và ý nghĩa của
quy định KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại. Trên cơ sở lý luận, tác giả đánh

giá thực trạng, nêu ra những ưu điểm và bất cập, khó khăn vướng mắc trong q
trình áp dụng và hướng hồn thiện những quy định về KTVA hình sự theo yêu cầu
của bị hại.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, có một số luận văn đã nghiên cứu trực tiếp
về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại trong tố tụng hình sự như: Khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu người bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả
Nguyễn Đức Thái, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009; Khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam của
tác giả Hoàng Lan Phương,

hoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009; Khởi


3
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
của tác giả Ma Thị Thắm, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Các luận
văn nói trên đều đã phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về KTVA hình sự theo
yêu cầu của bị hại trong tố tụng hình sự; phân tích các quy định của BLTTHS năm
2003 để chỉ ra những điểm tiến bộ và bất cập, hạn chế trong các quy định đó và làm
rõ những vấn đề thực tiễn trong thực hiện quy định về KTVA hình sự theo yêu cầu
của bị hại.
Ở cấp độ tạp chí chun ngành có nhiều bài viết về KTVA hình sự theo yêu
cầu của bị hại như: “Một số vấn đề lí luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại” của tác giả Trần Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm sát số 01/2006); “Người
bị hại đã yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên tồ theo trình tự, thủ tục
nào” và “Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong BLTTHS năm 2003” của tác giả Hoàng Thị Liên (Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số 8/2006 và Tạp chí Kiểm sát số 2/2008); “Một số vướng mắc khi
giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại” của tác giả Lê Văn
Cân (Tạp chí Kiểm sát số 4/2008); “Đình chỉ điều tra vụ án khởi tố theo yêu cầu của

người bị hại khi họ rút đơn theo quy định tại khoản 2 điều 105 BLTTHS năm 2003”
của tác giả Mai Thế Bày (Tạp chí Kiểm sát số 20/2009); “Vấn đề khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu người bị hại” của tác giả Nguyễn Hải Ninh (Tạp chí Luật học số
6/2010); “Vấn đề người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên toà trong một số
vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại” của tác giả Võ Hồng Sơn (Tạp
chí Nghề Luật số 2/2012); “Bàn về một số vấn đề về khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại” của tác giả Phạm Thái (Tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2012).
Những cơng trình khoa học trên đây, ở những mức độ khác nhau, đã đề cập
những vấn đề lý luận, pháp luật cũng như thực tiễn về KTVA hình sự theo yêu cầu
của bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề pháp luật và
thực tiễn trong các cơng trình nghiên cứu nói trên được nghiên cứu trên cơ sở quy
định và thi hành BLTTHS năm 2003.


4
Vấn đề KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại quy định tại BLTTHS năm
2015 mới được đề cập tại một số cơng trình như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội; Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015
chủ biên Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng; Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015
chủ biên Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi. Tuy nhiên, trong những cơng trình này,
vấn đề KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại chỉ được nghiên cứu một cách khái
qt nên cần những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu hơn. Một số bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành gần đây, tuy có đề cập đến vấn đề khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại trong BLTTHS năm 2015 nhưng vẫn chỉ là những khía cạnh nhất định
như: “ hởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại” của tác giả Phạm Thái (Tạp
chí Luật học số 9/2016); “Bồi thường thiệt hại cho người bị buộc tội oan trong vụ
án hình sự khởi tố theo yêu cầu của bị hại” của tác giả Trần Hồng Ca (Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 10/2016); “Quy định của BLTTHS năm 2015 về KTVA hình
sự theo yêu cầu của bị hại” của tác giả Lương Văn Cơng (Tạp chí Kiểm sát số
9/2016); “ hởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại - những vướng mắc khi

thực hiện và kiến nghị khắc phục” của tác giả Vũ Gia Lâm (Tạp chí Luật học số
12/2017); “Về quy định Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại tại Điều 155
BLTTHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Văn

hánh (Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật số 5/2017); “ hông yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố đối với các tội phạm chỉ
được khởi tố theo yêu cầu” của tác giả Mai Thanh Hiếu và Phạm Thái (Tạp chí
Khoa học pháp lý số 03/2018); “Quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại ở giai đoạn
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự” của tác giả Huỳnh Thanh Đạm (Tạp chí Kiểm sát
số 15/2018)… Mặt khác, những vấn đề lý luận về KTVA hình sự theo yêu cầu của
bị hại vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. Luận văn của tác giả sẽ kế thừa và phát
triển những vấn đề lý luận của những cơng trình nghiên cứu trước, phân tích những
vấn đề pháp luật và thực tiễn mới về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại, tìm ra
những điểm tiến bộ cũng như những hạn chế, bất cập trong BLTTHS năm 2015, từ
đó đề xuất những giải pháp hồn thiện pháp luật, bảo đảm thực hiện quy định về
KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại.


5
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn xác định mục đích nghiên cứu là đề ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.
Đối tƣợng nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của luận văn, tác giả xác định đối tượng
nghiên cứu là:
- Quy định của BLTTHS năm 2015 về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại,
và những vấn đề khác có liên quan như khơng u cầu khởi tố, hậu quả pháp lý của
rút yêu cầu khởi tố;

- Đánh giá việc áp dụng quy định này trong thực tiễn có những khó khăn,
vướng mắc, bất cập, tồn tại gì, làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật và tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về thời gian là các văn bản pháp luật có liên quan đến KTVA
hình sự theo yêu cầu của bị hại, chủ yếu là BLTTHS năm 2015; số liệu giải quyết án
được phân tích và đánh giá từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách
tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử để giải quyết những vấn đề đặt ra.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quy
định KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại trong BLTTHS năm 2015 và đề ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại.


6
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để cơ quan có
thẩm quyền nghiên cứu, vận dụng trong q trình hồn thiện pháp luật tố tụng hình
sự. Đồng thời, qua việc phát hiện những tồn tại trong thực tiễn giải quyết các vụ án
hình sự khởi tố theo yêu cầu của bị hại, luận văn đề ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
Với ý nghĩa như vậy, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận án

cấu trúc gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
bị hại
- Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của bị hại
- Chương 3: Thực trạng thi hành và giải pháp nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của bị hại


7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU BỊ HẠI
1.1 Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Để rút ra khái niệm khởi tố tụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, trước hết cần
làm rõ khái niệm bị hại và khái niệm KTVA hình sự.
Về khái niệm bị hại
Trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về
khái niệm bị hại:
Các quan điểm truyền thống cho rằng bị hại chỉ có thể là cá nhân (thể nhân)
mà không thể là cơ quan, tổ chức:
Theo tác giả Vũ Gia Lâm: “Người bị hại” được hiểu…là khái niệm dùng để
chỉ con người cụ thể, cá nhân bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp về thể chất, tinh
thần hoặc tài sản chứ không thể là pháp nhân hay cơ quan, tổ chức”.1
Theo tác giả Nguyễn Đức Thái: “Người bị hại là cá nhân bị hành vi phạm tội
trực tiếp tác động, gây ra các thiệt hại cụ thể và xác định được về thể chất, tinh
thần, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác được pháp luật quy định”.2
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật học pháp lí, người bị hại được xác định
là: “Người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra.
Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về

tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”.3
Các quan điểm khác thì cho rằng bị hại khơng chỉ là cá nhân mà cịn có thể là
cơ quan, tổ chức:

1

Vũ Gia Lâm (2011), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Luật học, (11), tr. 29.
2
Nguyễn Đức Thái (2015), Khởi tố vụ án hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật
học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 33.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 198.


8
Theo tác giả Lê Tiến Châu: “Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.4
Theo tác giả Lê Nguyên Thanh “Người bị hại là cá nhân, tổ chức bị tội phạm
trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản.
Người bị hại được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cơng nhận khi xác
định có dấu hiệu thiệt hại”.5
Trong quy định của BLTTHS hiện hành, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín
do tội phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra.
Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng bị hại khơng chỉ là cá nhân (thể nhân)
mà cịn có thể là cơ quan, tổ chức. Việc quy định vậy sẽ tháo gỡ được những vướng
mắc trong thực tế quá trình tố tụng.
Về nội dung, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài

sản. Bị hại là cá nhân, một con người cụ thể đang tồn tại trong xã hội, cá nhân có
thể là cơng dân Việt Nam hoặc người khơng có quốc tịch Việt Nam nhưng phải là
người đang sống. Theo pháp luật Việt Nam, sự tồn tại đó bắt đầu từ khi người ta
sinh ra còn sống và kết thúc khi được xác định là đã chết.6
Thiệt hại do tội phạm gây ra cho cá nhân có thể là thiệt hại về thể chất (như
tính mạng, sức khoẻ, bệnh tật); có thể là thiệt hại về tinh thần (uy tín, danh dự, nhân
phẩm); tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó (bị mất, chiếm đoạt, hư hỏng);
hoặc thiệt hại về các quyền và lợi ích hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Sự thiệt hại đó phải là thiệt hại trực tiếp do chính tội phạm gây ra, thiệt hại có mối
liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Đối với thiệt hại về tinh thần thì thiệt hại
thường khơng cụ thể, khơng có thể định lượng được. Vì vậy, ngay cả trong trường

4

Lê Tiến Châu (2007), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Khoa học pháp lí, (1), tr.38.
Lê Nguyên Thanh (2012), Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, tr. 27. Dẫn theo: Võ Thị im
Oanh, Ngô Quang Cảnh (2016), “Một số điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại, đương sự
trong vụ án hình sự”, Khoa học pháp lý, (9), tr. 67.
6
Trần Thu Hạnh (2017), “Bị hại trong BLTTHS năm 2015 và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật”, Khoa
học Đại học quốc gia Hà Nội, (tập 33, số 2), tr 56.
5


9
hợp tội phạm chưa gây ra thiệt hại thì cá nhân có nguy cơ bị xâm hại cũng được coi
là bị hại.
Bị hại là cơ quan, tổ chức phải được thành lập, hoạt động một cách hợp pháp
và đang tồn tại vào thời điểm bị thiệt hại. Bị hại là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về

tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Việc dùng thuật ngữ “bị” thể
hiện những tác động gây ra thiệt hại phải mang tính tiêu cực từ bên ngồi mà cá
nhân, cơ quan, tổ chức khơng mong muốn tiếp nhận nó.
Về hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản; cơ quan, tổ chức
bị thiệt về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra nhưng phải được các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng xác định là bị hại thì mới được coi là bị hại.
Tổng hợp các yếu tố trên, có thể hiểu một cách khái quát bị hại là cá nhân trực
tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về
tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Từ những phân tích nêu trên về bị hại, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản
của bị hại như sau:
- Thứ nhất, bị hại là cá nhân đang tồn tại vào thời điểm bị thiệt hại
Bị hại là cá nhân bao gồm cơng dân Việt Nam, người nước ngồi, người
khơng quốc tịch và phải là người đang sống, nghĩa là trước thời điểm sinh ra (thai
nhi) và khi người đã chết (tử thi) hoặc đã chết do hành vi phạm tội gây ra không
được gọi là bị hại. Hành vi loại bỏ thai nhi hoặc xâm hại đến tử thi thì thai nhi và tử
thi đó khơng phải là bị hại; Cá nhân đã chết do hành vi phạm tội gây ra không phải
là bị hại.
- Thứ hai, bị hại là cơ quan, tổ chức phải được thành lập, hoạt động một cách
hợp pháp đang tồn tại vào thời điểm bị thiệt hại.
Một trong những thay đổi về nhận thức trong BLTTHS năm 2015, đó là bị hại
khơng chỉ là cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Cũng
có ý kiến cho rằng, bị hại phải là thể nhân chứ không thể là cơ quan hay tổ chức, vì
cơ quan, tổ chức thì không bị thiệt hại về thể chất. Tuy nhiên, bị hại phải được hiểu


10
là con người pháp lý chứ không chỉ là con người tự nhiên nên bị hại có thể là cá
nhân hay cơ quan, tổ chức.7
Cơ quan, tổ chức có thể có tư cách pháp nhân hoặc khơng có tư cách pháp

nhân.
“Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và
chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ
pháp luật một cách độc lập.”8
- Thứ ba, thiệt hại của bị hại là thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín
trực tiếp do tội phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra.
Thiệt hại do tội phạm gây ra đó là những đối tượng tác động trực tiếp của tội
phạm khi xâm phạm khách thể của luật hình sự. Thiệt hại đó phải là thiệt hại trực
tiếp, điều đó thể hiện: thiệt hại phải là hậu quả của hành vi phạm tội thì mới được
coi là thiệt hại trực tiếp. Giữa hành vi phạm tội và thiệt hại xảy ra hoặc đe doạ xảy
ra phải có mối quan hệ nhân quả.9
Thiệt hại gây ra phải là những thiệt hại cụ thể, thiệt hại đó phải có tính hiện tại
và xác định được. Điều cơ bản khi xác định thiệt hại của bị hại là sự thiệt hại do một
tội phạm được quy định trong luật hình sự, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của người bị thiệt hại, các quyền được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, các
thiệt hại về tinh thần, uy tín, danh dự thường khơng cụ thể và định lượng chỉ mang
tính tương đối. Vì vậy, khơng chỉ trong trường hợp tội phạm đã trực tiếp gây ra thiệt
hại mà khi chưa gây ra thiệt hại thì cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng được coi là bị
hại.
Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại về sức khoẻ (do bị gây thương tích, gây tai
nạn hay bị người phạm tội vi phạm quy tắc nghề nghiệp gây ra…), cũng có thể là
thiệt hại về tính mạng (trong trường hợp hành vi tước bỏ tính mạng trái pháp luật
7

Nguyễn Hồ Bình (chủ biên, 2016), Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 160.
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
108.
9

Thịnh Quang Thắng (2010), Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học,
hoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 9.


11
người khác của người phạm tội nhưng trên thực tế bị hại không chết); thiệt hại về
tinh thần (như bị người phạm tội lăng nhục, vu khống, bị xúc phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín…); cũng có thể là thiệt hại đối với tài sản. Mỗi loại thiệt hại này, thể
hiện tính chất, mức độ xâm hại đến một loại khách thể tương ứng được luật hình sự
bảo vệ.
- Thứ tư, thiệt hại của bị hại phải là hậu quả trực tiếp và có mối quan hệ nhân
quả với hành vi phạm tội.
Bị hại bị hành vi phạm tội gây thiệt hại, nhưng không phải mọi trường hợp
chủ thể bị hành vi phạm tội gây thiệt hại đều là bị hại. Bị hại phải là đối tượng tác
động mà hành vi phạm tội hướng tới xâm hại, đồng thời hành vi phạm tội phải trực
tiếp gây ra thiệt hại cho bị hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại, và nó có mối quan hệ
nhân quả với hành vi phạm tội.10
Để xác định bị hại thì thiệt hại mà tội phạm gây ra phải là thiệt hại trực tiếp.
Nghĩa là thể chất, tinh thần, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải là đối tượng
mà tội phạm gây thiệt hại hoặc hướng đến gây thiệt hại.
Thiệt hại trực tiếp này phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội thì
cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại mới được coi là bị hại nếu khơng chỉ có thể là
ngun đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
- Thứ năm, hành vi xâm hại đến bị hại phải là hành vi phạm tội, được quy định
trong BLHS.
Không phải tất cả các hành vi xâm hại tới thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín,
danh dự và các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, cơ quan, tổ chức đều bị
coi là tội phạm. Chỉ những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và được BLHS
ghi nhận thì mới bị coi là tội phạm. Hành vi chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu đã
được quy định trong BLHS. Còn những vi phạm khác tuy có tính nguy hiểm cho xã

hội nhưng khơng phải là tội phạm thuộc lĩnh vực điều chỉnh của các ngành luật
khác.

10

Nguyễn Đức Thái (2015), tlđd chú thích số 2, tr. 36.


12
Bị hại phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm được BLHS
ghi nhận gây ra. Nếu không, chỉ là trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của các
ngành luật khác điều chỉnh.
- Thứ sáu, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ
chức bị thiệt hại về tải sản, uy tín do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra chỉ
trở thành bị hại trong tố tụng hình sự khi chủ thể đó được cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng cơng nhận là bị hại (thông qua giấy triệu tập). Trường hợp hành vi
phạm tội không bị phát hiện và xử lý hoặc trường hợp khơng xác định được người
bị thiệt hại thì mặc dù trên thực tế có người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra những cũng không trở thành bị hại trong vụ án hình sự.11
- Thứ bảy, để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại, pháp luật tố tụng hình sự
đã dự liệu trong trường hợp bị hại chết, mất tích, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sát nhập, hợp nhất thì người đại
diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ
chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo đảm phát
hiện chính xác và xử lý một cách cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Trình
tự, thủ tục đó được chia thành các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,

TV

hình sự là giai đoạn mở đầu

quá trình tố tụng hình sự.
hi đề cập đến “giai đoạn” trong một q trình nào đó người ta phải chỉ ra
thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của nó cùng với mục đích, nhiệm vụ, kết
quả cần đạt được cũng như cách thức tiến hành để đạt được mục đích đã đặt ra. Giai

11

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 148-149.


13
đoạn TV hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin
về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc quyết
định không khởi tố vụ án hình sự mà quyết định này khơng bị hủy bỏ theo quy định
của pháp luật.
Quyết định KTVA hình sự là văn bản pháp lý kết thúc giai đoạn TV , mở ra
giai đoạn điều tra. Hay nói cách khác quyết định TV hình sự là cơ sở pháp lý để
tiến hành điều tra. Sau khi có quyết định KTVA hình sự, các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra mới được phép áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự để tiến hành
điều tra vụ án. Trừ các trường hợp trong quá trình giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trước khi
KTVA như: thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử
thi; trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.
Như vậy thuật ngữ “KTVA hình sự” dùng để chỉ một giai đoạn của quá trình
tiến hành tố tụng hình sự. Cịn quyết định

TV

hình sự là một quyết định tố tụng

của cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Tác giả Lê Cảm đưa ra khái niệm: “KTVA hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự
đầu tiên mà trong đó cơ quuan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay khơng) các dấu
hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời
ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc khơng khởi tố) vụ án hình sự liên quan
đến hành vi đó.12
Theo Từ điển Luật học, “KTVA hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở
đầu các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền khởi tố
tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm”.13

12

Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự”, Kiểm sát, (2), tr. 26-27.
Viện nghiên cứu hoa học Pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Nxb. Từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr. 429.
13


14
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà nội

đưa ra khái niệm: “KTVA hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó
cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có hay khơng có dấu hiệu tội phạm
để quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự”.14
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của hoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội đưa ra khái niệm: “KTVA hình sự là giai đoạn ban đầu của quá trình tố tụng
hình sự, trong giai đoạn này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm
xác định sự việc có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự nhằm khẳng định về mặt pháp
lý có hay khơng có tội phạm xảy ra”.15
Theo tác giả Lê Lan Chi, “KTVA hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
trong đó các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay khơng có dấu hiệu của tội
phạm để quyết định việc khởi tố vụ án, giai đoạn này mở đầu bằng hoạt động tiếp
nhận thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố hoặc khơng
KTVA hình sự”.16
Tuy có sự khác nhau, nhưng các khái niệm trên đều có chung nội hàm: Thứ
nhất, đây là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự; Thứ hai, trong giai đoạn này cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định có sự việc phạm tội xảy ra hay
khơng; Thứ ba, trên cơ sở những căn cứ và trình tự, thủ tục của luật tố tụng hình sự,
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ban hành quyết định KTVA hình sự sau
khi xác định dấu hiệu của tội phạm, quyết định khơng KTVA hình sự sau khi xác
định khơng có dấu hiệu của tội phạm hoặc có các căn cứ khác theo quy định của
pháp luật. Trong trường hợp đặc biệt, khi xác định “những hành vi tuy có dấu hiệu
tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể…” thì khơng KTVA
hình sự mà có thể xử lý bằng các biện pháp khác.
14

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr. 273.
15
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên, 2013), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. ĐHQGHN, Hà Nội tr.

293.
16
Lê Lan Chi (2010), Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, hoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 20.


15
Từ nội hàm khái niệm KTVA hình sự nêu trên, có thể rút ra những đặc điểm
của KTVA hình sự như sau:
- Thứ nhất, Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình
sự, giai đoạn KTVA hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác
định tiền đề về pháp luật nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng)
của việc điều tra vụ án hình sự.17
Chỉ được

TV

khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Dấu hiệu tội phạm là

tiền đề pháp luật về nội dung, việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên nguồn tin về
tội phạm gồm: tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo
trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người
phạm tội tự thú.
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội
phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan,
tổ chức, cá nhân thơng báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm
trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn

bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm
là trường hợp trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã phát hiện
sự việc có dấu hiệu tội phạm.
Người phạm tội tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan,
tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị
phát hiện.

17

Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự”, Kiểm sát, (2), tr. 26-27.


16
Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo đúng
trình tự, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải tiến hành kiểm tra, xác
minh nguồn tin, tùy từng sự việc mà đề ra biện pháp kiểm tra, xác minh phù hợp.
Khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm, xác định có dấu hiệu của
tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền

TV

hình sự phải ra quyết định khởi tố; nếu

khơng có dấu hiệu tội phạm hoặc có các căn cứ khác theo quy định của pháp luật thì
ra quyết định khơng
đoạn


TV

hình sự, đây là các văn kiện tố tụng đặc trưng của giai

TV . Trong trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản,

yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả và đã yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định
đối với việc khởi tố hoặc khơng

TV nhưng chưa có kết quả thì cơ quan có thẩm

quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố. Dấu hiệu tội phạm được xác định trong giai đoạn TV hình sự là cơ
sở, căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra, nói cách khác
giai đoạn TV hình sự đã xác định tiền đề pháp luật về nội dung của việc điều tra
vụ án hình sự.
Quyết định TV hình sự là cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện việc điều tra.
Hoạt động điều tra chỉ được tiến hành sau khi có quyết định
TV

TV

hình sự, chưa

thì khơng được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ một số hoạt động được

tiến hành trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố
như:18 thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
để kiểm tra, xác minh nguồn tin; khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi;

trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản có thể thực hiện trước khi KTVA.
Quyết định TV hình sự là văn bản pháp lý làm cơ sở để tiến hành một cách hợp
pháp các hoạt động tiếp theo nhằm làm rõ vụ án hình sự và là cơ sở pháp lý trực
tiếp của các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh liên quan đến việc giải
quyết vụ án. Chính vì vậy, quyết định
18

TV

hình sự phải tn theo quy định chặt

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr. 274.


17
chẽ khi ban hành, quyết định KTVA hình sự phải ghi rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản
của BLHS được áp dụng và các nội dung số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành
văn bản tố tụng; căn cứ ban hành văn bản tố tụng; nội dung của văn bản tố tụng; họ
tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.19
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi
quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm
sát việc khởi tố.
Ngày

TV

hình sự là thời điểm bắt đầu để tính thời hạn điều tra vụ án. Sau


khi ra quyết định KTVA, hàng loạt các biện pháp tố tụng trong đó có cả những biện
pháp cưỡng chế đối với người thực hiện tội phạm sẽ được áp dụng. Với giá trị pháp
lý và các quy định chặt chẽ trong việc ban hành quyết định
đoạn khởi tố kết thúc bằng việc ra quyết định

TV

TV

hình sự nên giai

hình sự đã xác định tiền đề

pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ án hình sự.20
- Thứ hai, giai đoạn

TV

hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm

quyền tiếp nhận được tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và kết thúc
bằng quyết định TV hình sự hoặc quyết định khơng TV hình sự đối với hành
vi đó,21 mà quyết định này khơng bị hủy bỏ theo quy định của pháp luật.
Thời hạn dành cho giai đoạn

TV

hình sự được luật quy định cụ thể để hạn

chế việc kéo dài từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những

người chịu tác động của hành vi phạm tội, đặc biệt là bị hại, bảo đảm nguyên tắc
trách nhiệm TV hình sự.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: quyết

19

Nguyễn Đức Thái (2015), tlđd chú thích số 2, tr. 27.
Nguyễn Đức Thái (2015), tlđd chú thích số 2, tr. 27.
21
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên, 2013), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội tr. 294.
20


18
định KTVA hình sự; quyết định khơng KTVA hình sự; quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có
nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn
giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng khơng q 02
tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy
định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện
kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.
Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại
khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát
có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.
Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn KTVA hình sự được thể hiện chủ yếu ở các

mặt như sau:
- Thứ nhất, khởi tố đúng đắn và kịp thời là một trong những bảo đảm quan
trọng để xử lý nhanh chóng, cơng minh đối với hành vi phạm tội đã xảy ra.22 Nếu
hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án không được tiến hành khẩn trương,
chậm trễ, khơng đầy đủ sẽ có thể khơng phát hiện ra dấu hiệu tội phạm, dẫn đến
việc ra quyết định không khởi tố vụ án, bỏ lọt tội phạm.
- Thứ hai,

TV xác lập cơ sở pháp lí để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng tiến hành các hoạt động điều tra. Chỉ khi TV thì các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng mới được phép tiến hành đầy đủ hoạt động điều tra mà BLTTHS
quy định để giải quyết vụ án, trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm
BLTTHS quy định chỉ được tiến hành là một số hoạt điều tra.
- Thứ ba,

TV

hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong tố

tụng hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thơng qua quyết định TV hình sự một cách

22

Võ hánh Vinh (chủ biên, 2012), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr.
198.


19
thiếu cân nhắc kỹ, vội vàng và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp

theo trong việc truy cứu tố tụng hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo. 23
- Thứ tư,

TV

góp phần tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền con người,

cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc quy định trình tự, thủ tục giai đoạn TV một cách
chặt chẽ bảo đảm pháp luật được tôn trọng, thực thi một cách nghiêm túc từ phía
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng như những người liên quan. Trên
cơ sở đó đảm bảo quyền lợi cho nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Về khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm quyền KTVA hình sự để mọi
tội phạm đều bị xử lí kịp thời, đây là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Việc
KTVA hình sự khơng phụ thuộc vào bị hại có đồng ý hay khơng.
Tuy nhiên, trong thực tế, khơng ít trường hợp việc

TV

để truy cứu trách

nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội có thể gây thêm những tổn thất
khác cho bị hại. Vì thế, pháp luật đã quy định một số trường hợp tội phạm ít nghiêm
trong, xâm phạm đến danh dự nhân phẩm con người cho phép KTVA hình sự theo
yêu cầu của bị hại, tạo điều kiện cho bị hại được lựa chọn cách giải quyết.24 Trong
những trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền chỉ được KTVA khi có yêu cầu của
bị hại. Chỉ khi bị hại yêu cầu khởi tố thì người phạm tội mới bị đưa ra xử lý, cịn
nếu bị hại khơng u cầu thì cơ quan có thẩm quyền được TV và người phạm tội
sẽ khơng bị xử lý.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự nước ta, KTVA hình sự theo yêu cầu của

bị hại là trường hợp đặc biệt của KTVA hình sự và ngun tắc Nhà nước thực hiện
quyền cơng tố. KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại có sự khác biệt so với các
trường hợp KTVA hình sự thơng thường, đây là trường hợp

TV

có điều kiện.

Đối với trường hợp KTVA hình sự theo u cầu của bị hại, ngồi căn cứ để KTVA
hình sự như trong các trường hợp khác là phải có dấu hiệu của tội phạm thì cịn phải

23

Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự”, Kiểm sát, (2), tr. 27.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr 280.
24


20
có yêu cầu của bị hại. Yêu cầu của bị hại có thể được trình bày bằng văn bản hoặc
bằng lời.25
Hành vi có dấu hiệu tội phạm là có tính nguy hiểm cho xã hội và hành vi này
được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Tội
phạm chỉ được khởi tố khi bị hại yêu cầu là một số tội phạm do BLTTHS quy định
mà việc khởi tố theo yêu cầu của bị hại, những trường hợp TV

theo yêu cầu của

bị hại chỉ trong giới hạn Nhà nước và xã hội chấp nhận được để bảo đảm mọi hành

vi phạm tội đều được xử lý kịp thời.26 Đây là các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của cá nhân, hoặc tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức có tính nguy hiểm
khơng cao.

hi phát hiện ra hành vi có dấu hiệu của tội phạm, các cơ quan tiến

hành tố tụng khơng tự ý quyết định việc TV hình sự như trong trường hợp khác.
Để

TV

hình sự đối với những tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì ngồi

căn cứ vào dấu hiệu của tội phạm phải có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc đại diện
của bị hại, đây là yếu tố quan trọng, làm phát sinh việc

TV

và là cơ sở để chấm

dứt việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp nhất định.
Từ nhận thức về KTVA và nhận thức chung về bị hại, cũng như vai trò của bị
hại trong tố tụng hình sự, tác giả rút ra khái niệm về KTVA hình sự theo yêu cầu
của bị hại như sau: KTVA hình sự theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt
của KTVA hình sự, áp dụng đối với một số tội phạm xâm phạm sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và một số quyền nhân thân của bị hại là cá nhân hoặc tài sản, uy tín
của bị hại là cơ quan, tổ chức, theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
khi xác định có dấu hiệu của tội phạm chỉ được ra quyết định KTVA hình sự khi có
u cầu của bị hại.
Khái niệm trên thể hiện một số đặc trưng cơ bản của KTVA theo yêu cầu của

bị hại trong tố tụng hình sự như sau:

25

Mai Bộ (1999), “Bàn về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Kiểm sát, (3), tr. 30.
Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại”, Kiểm sát,
(01), tr.29.
26


×