Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.79 KB, 21 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I.1. Khái niệm và vai trò của vốn dài hạn
Vốn, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các nguồn lực tài chính, nhân lực, tri thức, tài sản vật chất
và cả các quan hệ đã tích lũy được của cá nhân, DN, quốc gia…
Vốn, hiểu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là phần tiềm lực tài chính - tiền bạc của cá nhân, DN, quốc gia đó.
Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết cấu thành và tham gia vào quá trình sản xuất và tái
sản xuất - kinh doanh hình thành và tích lũy được trong mỗi gia đình, DN, địa phương và cả quốc gia. Các nhân
tố cấu thành vốn trong nước bao gồm: vốn tài chính - tiền tệ, các dạng của cải, tài sản vật chất và tri thức, nguồn
nhân lực và các quan hệ trong nền kinh tế thị trường… Chúng có thể chuyển hóa cho nhau và được đo lường
chung bằng tiền trong điều kiện nhất định (trừ vốn - con người).
Dưới đây chỉ xin đề cập tới vốn trong nước với cách hiểu theo nghĩa hẹp nêu trên.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế dài hạn là những khoản vốn dài hạn chi cho các hoạt động mở rộng sản
xuất - kinh doanh, những công trình xd CSHT trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế, cũng như cho
các hoạt động khác liên quan đến sản xuất - kinh doanh và phát triển kinh tế theo chiều sâu của đất nước, địa
phương và DN. Hơn nữa, theo cách hiểu thông thường hiện nay, vốn ngắn hạn là vốn có thời gian kể từ khi huy
động đến lúc hoàn trả là dưới 12 tháng, trung hạn thì từ trên 12 tháng đến dưới 5 năm và dài hạn là trên 5 năm.
Tuy nhiên, do trên thực tế hoạt động của ngân hàng, vốn có thời hạn trên 5 năm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên dưới
đây, vốn dài hạn được hiểu là vốn trung và dài hạn, tức có thời hạn hoàn trả vốn từ trên 12 tháng.
Trong cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp với chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm đã không tạo
động lực quan tâm nhiều đến việc huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nói chung, vốn dài hạn nói riêng
trong nền kinh tế, cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư cũng được quan niệm rất đơn giản.
Thậm chí chưa có sự phân định giữa vốn và tiền. Cơ chế phân phối vốn chỉ bó hẹp ở hai kênh: ngân sách nhà
nước và vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Từ đó dẫn đến những sai lầm như việc phát hành thêm tiền để
đầu tư, hay chưa chú ý đến các nguồn lực khác ngoài NSNN. Các địa phương không quan tâm đến việc tự huy
động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, thậm chí là không được phép thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các địa phương đã được coi trọng và phát huy. Những
nhận thức về vốn cũng đã thay đổi.
Mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay cũng như sắp tới
của Việt Nam là tạo sự chuyển biến tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tập trung đầu tư các công trình hạ
tầng cơ sở; tích cực đổi mới và nâng cao năng lực KH - CN, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các DN, thực
hiện thành công CNH - HĐH và không ngừng cải thiện chất lượng sống của nhân dân. Để thực hiện được các


nhiệm vụ trên thì cần phải có nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, về lâu dài
thì vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển bền
vững của cả nước cũng như của từng địa phương, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ
quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập trong phạm vi toàn xã hội, tác động trực tiếp đến mối
quan hệ giữa tích luỹ - tiêu dùng và các chính sách tiền tệ, tín dụng. Việc hoạch định và thực hiện chính sách
huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm
phát và ổn định tiền tệ, cũng như đến tốc độ và hiệu quả phát triển KT - XH nói chung.
Thực tế phát triển thế giới cho thấy, bất kỳ nước nào cũng đều phải sử dụng nguồn lực nội bộ là
chính. Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, dù là viện trợ, cho vay hay đầu tư từ nước ngoài cũng không thể thay
thế cho đầu tư từ các nguồn vốn trong nước. Hơn nữa, nguồn vốn nước ngoài không phải là vốn cho không, từ
trên trời rơi xuống mà đều có điều kiện và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Về lâu dài, vốn vay đều phải trả cả
gốc lẫn lãi, còn FDI phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc về chính quốc.
Thực tế của quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã cho chúng ta thấy: cùng với vốn bên ngoài,
bao giờ cũng phải có vốn đối ứng bên trong mới có thể triển khai công trình một cách thuận lợi. Thêm vào đó,
cần phải có vốn đầu tư cho các công trình "ngoài hàng rào" như đầu tư cho các cơ sở hạ tầng về điện, cấp thoát
nước, thông tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng xã hội khác.
Nhiều công trình đầu tư không phát huy được hiệu quả hoặc hiệu quả thấp một phần là do các yếu tố
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội "ngoài hàng rào" không đáp ứng được yêu cầu. Một nhà máy được xây dựng mà
không có công trình cơ sở hạ tầng kinh tế đồng bộ thì khó có thể hoạt động tốt được. Ngoài ra, đi cùng với nhà
máy tất yếu phải có các cơ sở hạ tầng xã hội như các khu dân cư, trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể
thao... nếu không, sẽ gây không ít khó khăn cho hoạt động và ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
nhà máy. Theo kinh nghiệm của các nước, vốn đầu tư cho các công trình ngoài hàng rào đôi khi còn cao hơn
vốn đầu tư cho các nhà máy. Vì vậy, dù là công trình được đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài thì vốn đầu tư trong
nước cũng rất quan trọng.
Về tỷ trọng giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, xét về lâu dài, vốn trong nước phải nhiều hơn vốn
nước ngoài. Không thể mong đợi sự tăng trưởng nhanh và vững chắc nhờ vào các nguồn vốn từ bên ngoài. Kinh
nghiệm phát triển của các nước cũng đã chứng minh điều đó, ở đây chỉ có trường hợp ngoại lệ của các nước có
nguồn tài nguyên quý, với trữ lượng lớn như dầu mỏ của các tiểu vương quốc A-rập, Bruney... nhưng ngay cả
những trường hợp này thì cuối cùng vốn bên trong (dù chỉ là vốn có được do bán tài nguyên thiên nhiên) sẽ lớn

hơn vốn bên ngoài.
Cuối cùng, xét về lợi ích dân tộc, nếu không có vốn đầu tư trong nước đủ mức cần thiết thì xét về lâu
dài, nguồn của cải làm ra có thể lớn, nhưng phần của cải thực sự mà ta được hưởng (tính thông qua chỉ tiêu
GNP) lại rất ít. Như vậy, nền kinh tế có vẻ phồn vinh, sản phẩm có vẻ dồi dào nhưng của cải đó không thuộc sở
hữu của nhân dân trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp trong nước chỉ dừng lại ở mức 30-40% như
hiện nay có một lý do quan trọng là thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít doanh nghiệp phải dùng "quỹ đất' để
góp vốn, phần còn thiếu lại phải đi vay nước ngoài để góp vốn cho các liên doanh. Một số doanh nghiệp trong
nước mua thiết bị nước ngoài theo hình thức trả chậm, nhưng do không có vốn nên lại phải vay thương mại với
những điều kiện bất lợi, làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của công trình.
Có thể nói, vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư dài hạn là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của sự nghiêp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Không có vốn đầu tư dài
hạn thì sẽ không có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, không đổi mới và nâng cao được năng lực KH - CN, cải thiện sức
cạnh tranh và nâng cao trình độ phát triển của đất nước, địa phương, DN.
I.2. Đặc điểm vốn đầu tư phát triển dài hạn
Vốn đầu tư dài hạn có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đòi hỏi quy mô vốn lớn và thời hạn thu hồi vốn dài
Vốn đầu tư dài hạn được sử dụng vào việc nghiên cứu và áp dụng khoa học, công nghệ mới, đổi mới và
hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển theo chiều sâu… Đây là những lĩnh vực, dự án thường đòi
hỏi quy mô vốn đầu tư rất lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Thậm chí, có những dự án không thể tính được thời
hạn thu hồi vốn trực tiếp, nhất là vốn đầu tư cho xây dựng đường xá, cầu cống, nghiên cứu khoa học cơ bản…
Điều này càng rõ nét đối với những quốc gia và địa phương nào đang ở giai đoạn đầu cất cánh…
Đặc điểm của nguồn vốn dài hạn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chi
phối mạnh phưong thức huy động vốn, quá trình quản lý và sử dụng vốn. Nói cách khác nó ảnh hưởng đến chiến
lược vốn - một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước và địa phương.
Thứ hai, vốn đầu tư dài hạn dễ có độ rủi ro cao tùy thuộc vào tính chất của môi trường và cơ hội đầu
tư, cũng như các phương thức và chính sách huy động, sử dụng vốn.
Do thời hạn thu hồi vốn dài, nên đầu tư dài hạn dễ gặp rủi ro về kinh tế (lãi suất, lạm phát, khấu hao
vô hình, sự thay đổi cung – cầu tương lai…) và phi kinh tế (thay đổi chính sách, thể chế, thiên tai…). Đây là
điều mà các nhà đầu tư tư nhân hay e ngại. Điều này cũng giải thích vì sao tỷ trọng vốn dài hạn trong tổng vốn

huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường rất thấp. Tuy nhiên, tùy theo sự hấp dẫn của
môi trường đầu tư, nhất là mức độ tự do hóa kinh doanh, sự ổn định và những thay đổi có thể dự báo được của
chính sách, độ thông thoáng về thủ tục quản lí nhà nước, và các ưu đãi khác… mà vốn đầu tư dài hạn có thể
được huy động ngày càng nhiều hơn thông qua sự phối kết hợp linh hoạt của các công cụ và kênh huy động vốn
đa dạng, thích hợp, trong đó có đầu tư trực tiếp của các DN, các nhà đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn cho phát triển cần phải nhìn trên góc độ hiệu quả kinh
tế - xã hội tổng hợp và dài hạn.
Vì là đàu tư dài hạn nên hiệu quả của vốn đầu tư dài hạn cũng chậm phát huy tác dụng. Hơn nữa, do
một số dự án được đầu tư không thể định lượng được trực tiếp và chính xác lợi ích mà nó tạo ra (nhất là các
công trình CSHT công ích), nên cần đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn phát triển kinh tế trên góc độ hiệu quả
kinh tế - xã hội tổng hợp và dài hạn. Khi đưa ra quyết định cho mỗi dự án đầu tư cần xem xét hiệu quả với một
cách nhìn toàn diện, xem xét hiệu quả kinh tế cần đi đôi với hiệu quả xã hội. kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích
lâu dài, lợi ích cục bộ của từng bộ phận với lợi ích tổng thể của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế, xã hội luôn gắn
liền với nhau, tác động tực tiếp đến chính sách huy động và sử dụng vốn, đặc biệt đối với các công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng. Vì vậy, khi đầu tư vào các dự án ngoài việc chú trọng đến hiệu quả
kinh tế của dự án cần xem xét các vấn đề xã hội như công ăn việc làm, thu nhập, mức sống của người lao động...
để đảm bảo đạt được hiệu quả tổng hợp cao nhất.
Nhằm đạt được tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất, vốn đầu tư dài hạn cần được nhìn nhận theo
một quy trình khép kín trên cả 3 phương diện: huy động, sử dụng và quản lý, cũng như phải đảm bảo thông suốt
trên cả 3 giai đoạn: tích luỹ- huy động - đầu tư, đồng thời phải hướng vào đầu tư có trọng điểm với quy mô và
phương thức thích hợp, tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, tránh đầu tư tràn lan, đầu tư theo
kiểu phong trào, thiếu quy hoạch và nhất là không đảm bảo chất lượng xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ
và môi trường, dễ để lại hậu quả nặng nề về sau.
I.3. Các phương thức huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô
Xét trên phưong diện tổng thể, các nguồn vốn trong nước đều được sinh ra từ quá trình tiết kiệm và tích
lũy của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp và Nhà nước. Nguồn vốn này được huy động và sử dụng cho đầu tư phát
triển chủ yếu thông qua các kênh như Ngân sách nhà nước (mà quan trọng hơn cả là qua phần vốn XDCBTT và
qua KBNN), các ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại, thị trường tài chính, thuê mua tài chính và qua các
hình thức khác…
I.3.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua kênh Ngân sách Nhà nước

Huy động vốn qua kênh ngân sách nhà nước được thực hiện dưới các hình thức như động viên thuế,
phí và các hình thức vay nợ qua KBNN (như công trái, trái phiếu, tín phiếu...). Nói cách khác, nguồn vốn đầu
tư của NSNN được hình thành từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của nhà nước, còn
việc sử dụng cho đầu tư dài hạn chủ yếu thông qua phần vốn xây dựng cơ bản tập trung của NSNN các cấp và
kiểm soát chi qua KBNN.
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn vốn tích luỹ đầu tư từ ngân sách Nhà nước
(chênh lệch giữa số thu từ thuế, phí với chi tiêu dùng thường xuyên), nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính
phủ cho đầu tư phát triển và các nguồn vốn khác như từ quỹ dự trữ tài chính, các tài sản của Nhà nước... Đây là
nguồn vốn đầu tư hết sức quan trọng trong nền kinh tế, chủ yếu dùng để đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở,
tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để khuyến khích kinh tế phát
triển. Với việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước trên cả hai lĩnh vực thu và chi ngân sách nhà
nước, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước sẽ ngày càng tăng trong tổng số chi ngân sách
nhà nước và luôn giữ vai trò là nguồn vốn quan trọng trong xã hội trong quá khứ, hiện tại và những năm trước
mắt.
Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là tìm cách nâng cao phần tích luỹ của NSNN và
phát triển nguồn vốn tín dụng. Để tăng nguồn vốn tích luỹ của NSNN cần áp dụng các chính sách tăng thu triệt
để các nguồn thu và tiết kiệm triệt để các khoản chi, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu dùng của ngân sách.
Ngân sách phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể góp phần nâng cao tỷ trọng tích lũy trong
nước để đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cần coi trọng giải quyết hài hòa về lợi ích kinh tế giữa
Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành các chính sách, chế độ động viên vào NSNN thông qua thuế và
phí; vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính
sách xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng, vừa phải tạo điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung vốn của DN, cơ sở, địa
phương cho mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển theo chiều sâu, giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo
và mở rộng nguồn thu lâu dài.
Do vậy, việc giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất; giảm dần các ưu đãi và
miễn giảm thuế; mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế; đảm bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành
phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh quá
trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, khuyến khích đổi mới công nghệ, hướng dẫn tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu,
điều tiết thu nhập,... là hết sức quan trọng và cần thiết trong chính sách thuế, phí của Nhà nước khi động viên
NSNN.

Tuy nhiên, trong điều kiện, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân còn thấp, nguồn thu của ngân sách
Nhà nước (chủ yếu là thuế) còn có hạn; trong khi đó nhu cầu chi ngân sách và vốn cho đầu tư phát triển kinh tế
rất lớn, nguồn vốn huy động thông qua thu thuế, phí cho ngân sách nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng lớn cho đầu tư phát triển. Do vậy, vay nợ của Chính phủ là biện pháp rất quan trọng để bù đắp thiếu
hụt ngân sách Nhà nước và bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu Chính phủ và cho phép các địa phương phát hành trái phiếu (trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu
đô thị) là biện pháp hữu hiệu nhất để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đồng thời còn tập trung được lượng vốn nhàn
rỗi trong xã hội để tăng nguồn chi cho phát triển kinh tế xã hội do nó đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu của
ngân sách mà không phải dùng biện pháp phát hành - lạm phát và không lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài, dễ gây
nên bất ổn về kinh tế. Biện pháp này được sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả các nước phát
triển có nguồn thu tương đối lớn. Tuy nhiên, cũng không thể lạm dụng biện pháp này bởi lẽ khi vay nợ quá lớn
thì sẽ tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong trả gốc và lãi, đặc biệt việc cung cấp lượng tín dụng ròng
từ hệ thống ngân hàng cho ngân sách Nhà nước lớn cũng sẽ gây nên áp lực lạm phát cao. Vì vậy, cần phải nắm
vững nhu cầu vay vốn, mục đích sử dụng vốn, khả năng cung ứng nguồn vốn, từ đó xây dựng chiến lược và kế
hoạch huy động vốn cho hiệu quả và phải quản lý vay nợ tốt để tránh gây nên sự bất ổn định về tài chính.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị, thông
qua việc vay từ các ngân hàng thương mại và vay trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phát hành trái phiếu
qua KBNN.
Cơ sở pháp lý cho việc khai thác và sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN đó đã được xác lập khá
đồng bộ.
Luật NSNN số 01/2002/QH11 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các tỉnh thành phố trực thuộc TW
quyền chủ động huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển địa phương. Khoản 3 Điều 8 Luật
NSNN qui định: "Trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc TW có nhu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc
phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh
quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động
trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ
nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh".
Tuy nhiên, Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh được thực hiện theo qui định riêng của Chính phủ, nghĩa là không nhất
thiết phải tuân theo giới hạn 30% này.
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13.11.2003, KBNN thực hiện chức năng: (1) quản lý nhà

nước về Quĩ NSNN, các quĩ tài chính nhà nước và các quĩ khác của nhà nước; (2) thực hiện việc huy động vốn
cho NSNN, cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật.
Chính chức năng thứ hai của KBNN qui định phạm vi và hình thức khai thác, sử dụng vốn dài hạn thông qua
KBNN Hà Nội. Khoản 10 Điều 2 Quyết định này khẳng định KBNN có nhiệm vụ: "Tổ chức huy động vốn trong
nước và ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành công trái, trái phiếu theo qui định
của pháp luật". Điều 3 Quyết định 235 nêu rõ "KBNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành
hệ thống dọc từ TW đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Theo đó, KBNN Hà Nội chỉ được phép huy động
cho NSNN và cho ĐTPT bằng hai công cụ công trái và trái phiếu.
Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về việc phát hành TPCP, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương, cụ thể hoá hoạt động huy động thông qua
KBNN, thay thế Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về Qui chế phát hành TPCP. Trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu
chính quyền địa phương đều là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ hay UBND cấp tỉnh phát hành, có thời
hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của người phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu Chính phủ bao gồm 6 loại: Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc, Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu
đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng Tổ quốc. Ngoại trừ Tín phiếu và Trái phiếu Kho bạc phát
hành để bù đắp thiếu hụt của NSNN trong năm tài chính hoặc theo dự toán hàng năm, 5 loại Trái phiếu Chính
phủ còn lại và Trái phiếu của Chính quyền địa phương (đối với Hà Nội là trái phiếu đô thị) đều có thể là những
công cụ để KBNN Hà Nội huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển Thủ đô. Trái phiếu được phát hành
bằng cả đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc
không ghi tên.
Các loại Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ, Công trái XDTQ đều có thời
hạn trên 1 năm và do Chính phủ, Bộ Tài chính quyết định nên KBNN Hà Nội chỉ đóng vai trò tham gia khai
thác và sử dụng "gián tiếp", nghĩa là theo chỉ tiêu nhiệm vụ thu chi được TW giao. Công cụ trực tiếp huy động
và sử dụng vốn đầu tư của KBNN Hà Nội được qui định trong Nghị định 241/2003/NĐ-CP chính là Trái phiếu
chính quyền địa phương - loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn trên 1 năm do UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho KBNN
hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn phát hành, nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc
nguồn vốn đầu tư của NSĐP, đã ghi trong kế hoạch năm nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Điều
kiện phát hành TPCQĐP là:
(1) dự án công trình phải thuộc Kế hoạch đầu tư 5 năm;
(2) có phương án phát hành, kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ;

(3) Chủ tịch UBND ra quyết định uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn
chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái phiếu.
Trái phiếu CQĐP được phát hành theo 3 phương thức:
1. Đấu thầu: lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu trái phiếu
2. Bảo lãnh phát hành: tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành
trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại
hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
3. Đại lý phát hành: tổ chức phát hành uỷ thác cho một tổ chức khác thực hiện bán trái phiếu cho các nhà
đầu tư. Chỉ có các Công ty chứng khoán, Quĩ đầu tư, Công ty Tài chính và các ngân hàng được phép bảo lãnh
hoặc đại lý phát hành trái phiếu.
Đáng lưu ý là TPCQĐP không được phép phát hành bằng phương thức bán lẻ, dù là qua hệ thống
KBNN hay không. Lãi suất TPCQĐP do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định hoặc hình thành theo kết quả đấu
thầu trong giới hạn biên độ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định và mặt bằng lãi suất thực tế của TPCP cùng
kỳ hạn tại thời điểm phát hành. Khoản thu từ TPCQĐP được ghi thu vào ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp
tỉnh chịu toàn bộ trách nhiệm thanh toán gốc lãi và các chi phí liên quan tới TPCQĐP. Việc thanh toán được
thực hiện thông qua các tổ chức tài chính, tín dụng nhận uỷ thác do TPCQĐP chỉ được phát hành bằng phương
thức đấu thầu, bảo lãnh hay đại lý phát hành. Người sở hữu TPCQĐP cũng có các quyền lợi tương tự như người
sở hữu các loại TPCP, đó là: (1) được thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi khi đến hạn; (2) được bán, tặng,
cho, thừa kế, cầm cố, chiết khấu trái phiếu; (3) được miễn thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ trái phiếu.
TPCQĐP cũng được mua bán trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, cầm cố tại NHNN, được niêm yết và giao
dịch trên thị trường chứng khoán. KBNN còn nhận ký gửi trái phiếu theo yêu cầu của người sở hữu trái phiếu
với mức phí do Bộ Tài chính qui định.
Đồng bộ với việc tạo ra khuôn khổ pháp lý tăng cường quyền chủ động chi địa phương, thực hiện đẩy
mạnh phân cấp ngân sách theo Luật NSNN, cho phép chính quyền địa phương khai thác các nguồn lực cho đầu
tư phát triển, các qui định pháp lý đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã khai thác được cũng
liên tục được hoàn thiện.
Dù là tham gia phát hành TPCP, một phần được sử dụng thông qua chi ĐTPT và tín dụng nhà nước hay
phát hành TPCQĐP trực tiếp sử dụng vào các công trình dự án đầu tư của Thành phố thì các nguồn vốn đều
được phản ánh vào ngân sách Thành phố nên việc sử dụng phải đảm bảo hiệu quả, tuân thủ các qui định của
Luật NSNN, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP và Thông tư số 59/2003/TT-BTC qui định chi tiết và hướng dẫn thi

hành Luật NSNN,... và các văn bản pháp qui liên quan tới quản lý đầu tư hiện hành như Nghị định số
52/1999/NĐ-CP, Nghị định số 12/2000/NĐ-CP, Nghị định 07/2003/NĐ-CP về Qui chế quản lý đầu tư và xây
dựng. Việc quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn của KBNN Hà Nội thực hiện theo Thông tư số
44/2003/TT-BTC, Thông tư 45/2003/TT-BTC và Thông tư số 100/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn
việc quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP. Theo đó, cần đặc biệt lưu ý lập kế
hoạch riêng cho các dự án đầu tư bằng nguồn TPCP khi lập kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, Sở Tài chính thông
báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho KBNN Hà Nội. Đối với các dự án do địa phương quản lý, căn cứ vào kế
hoạch thanh toán vốn đầu tư và tiến độ thực hiện các dự án, Bộ Tài chính chuyển vốn từ nguồn TPCP về Sở Tài
chính, Sở lại chuyển vốn sang KBNN Hà Nội để thanh toán cho các dự án. Chủ đầu tư quyết toán vốn đầu tư
hàng năm theo chế độ hiện hành về vốn đầu tư nguồn NSNN nhưng quyết toán riêng nguồn vốn TPCP. KBNN
tổ chức hạch toán và theo dõi riêng nguồn vốn TPCP, KBNN Hà Nội quyết toán với Sở Tài chính, Sở lại quyết
toán với Bộ Tài chính riêng nguồn vốn này, không quyết toán vào NSĐP. KBNN Thành phố phải giúp cơ quan
quản lý trong việc mở hồ sơ theo dõi, nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo qui định đối với các dự
án đầu tư sử dụng nguồn vốn TPCP, thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất, tăng cường công tác quản lý,
kiểm tra việc thực hiện tiến độ, khối lượng, chất lượng công trình, tình hình sử dụng vốn, không được dùng
nguồn vốn TPCP để chi cho các nhiệm vụ, dự án ngoài danh mục, không để tình trạng vượt vốn đầu tư của dự
án đã được duyệt và tình trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực.
Như vậy khuôn khổ pháp lý cho việc khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư thông qua hệ thống
KBNN đã tương đối đầy đủ, chi tiết và đồng bộ. Khuôn khổ pháp lý cho việc KBNN Hà Nội huy động vốn
trong dân thông qua phát hành TPCQĐP cũng đã có, nhưng còn thiếu qui định cụ thể về việc quản lý sử dụng
nguồn vốn TPCQĐP. Về cơ bản, nội dung của các qui định này tương tự như nội dung quản lý vốn đầu tư từ
nguồn TPCP, song có những điểm khác biệt nhất định liên quan tới phân cấp ngân sách và quyền chủ động của
các cấp chính quyền địa phương, tính chất của các dự án đầu tư đa dạng phụ thuộc vào đặc thù của từng địa
phương nên cần có qui định riêng.
Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu thực tế và tiềm năng huy động vốn của địa phương, căn cứ vào những cơ
sở pháp lý quan trọng, KBNN Hà Nội hoàn toàn có điều kiện và triển vọng tăng cường huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn dài hạn trong dân cho đầu tư phát triển Thủ đô thông qua hai công cụ là Trái phiếu Chính
phủ và TPCQĐP.
I.3.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các ngân hàng thương mại
và tổ chức tín dụng

Ngoài kênh huy động vốn dài hạn thông qua ngân sách còn có các kênh huy động thông qua công cụ
vay và cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Về truyền thống và thực tại, với chức năng trung gian huy dộng vốn từ nơi cung ứng đến nơi có nhu
cầu đầu tư để giải quyết các quan hệ cung cầu về vốn đầu tư trên pham vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán
trong toàn bộ nền kinh tế, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong việc
góp phần thoả mãn nhu cầu bổ sung vốn đầu tư của các doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh qua trình tích tụ và
tập trung vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, việc huy động và cho vay vốn dài hạn từ các ngân hàng thương mại càng ngày càng khó
đáp ứng nhu cầu thực tế xã hội do có một số hạn chế sau:
- Nhu cầu vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng, đầu tư phát triển dài hạn nói chung là rất lớn, song
các ngân hàng lại bị giới hạn trong việc cho vay tối đa đối với một khách hàng, một dự án;
- Nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là các nguồn vốn ngắn hạn, song nhu cầu đầu tư phát triển dài
hạn, trong đó có các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng lại đòi hỏi các nguồn vốn có tính dài hạn.
- Việc huy động và cho vay vốn dài hạn của ngân hàng đòi hỏi các thủ tục và điều kiện ngặt nghèo
(nhất là về tài sản thế chấp) mà nhiều dự án và đơn vị có nhu cầu vay khó đáp ứng trên thực tế. Hơn nữa, vốn tự
có của ngân hàng cũng không phải là nhiều, vì vậy, khả năng huy động vốn của ngân hàng cũng bị hạn chế theo
các quy định nhằm đảm bảo an toàn chung cho hệ thống ngân hàng.
I.3.3. Huy động và sử dụng vốn thông qua thị trường tài chính
Với tư cách là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua - bán quyền sử
dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các công cụ
và dịch vụ tài chính nhất định, thị trường tài chính (TTTC) là tổng hòa các quan
hệ cung - cầu về vốn và được phân thành 2 loại: thị trường vốn ngắn hạn (thị
trường tiền tệ) và thị trường vốn dài hạn.
- Thị trường vốn ngắn hạn, hay còn gọi là thị trường tiền tệ, là các hoạt động
về cung- cầu vốn ngắn hạn (dưới một năm) diễn ra chủ yếu thông qua các hoạt
động của hệ thống ngân hàng các cấp.
- Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung - cầu vốn dài
hạn cho Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao
gồm thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, TTTC dù ngắn hạn hay dài hạn, đều ngày càng mang tính

mở và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại cả ở cấp
quốc gia, cũng như quốc tế. Chúng tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn
cho đầu tư phát triển từ các nguồn trong và ngoài nước, từ doanh nghiệp và
trong dân; cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa
dạng, phù hợp; làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và
giúp đánh giá xác thực hơn giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế; đồng thời
giúp thực hiện hiệu quả hơn các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường
mở...
Phát hành trái phiếu là hình thức phổ biến để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ở tất cả các
địa phương trên thế giới và nó luôn là phương thức huy động vốn quan trọng không chỉ đối với chính chính
quyền địa phương, mà đối với cả các doanh nghiệp (ngoài cổ phiếu).
Xét về tổng thể, huy động vốn của chính quyền địa phương từ việc phát hành trái phiếu đô thị là một
trong những lựa chọn ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của chính quyền đô thị trên khắp thế giới do
những lợi ích mà nó đem lại vượt ra ngoài mục đích ban đầu là huy động vốn.Việc cho phép và buộc chính
quyền địa phương phát hành trái phiếu để bù đắp nguồn vốn ngân sách nhà nước thiếu hụt cho đầu tư phát triển
dài hạn sẽ tạo ra áp lực buộc các chính quyền địa phương phải cải tiến, tăng cường tính minh bạch và công khai
hoá trong quản lý ngân sách địa phương, nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư công cộng, giúp phát triển thị
trường tài chính, tạo sự chủ động trong việc hoạch định chiến lược phát triển.
Tuy nhiên để phát hành trái phiếu được thành công phải có nhiều yếu tố đi liền với nó làm nền tảng
như:
- Phải có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát thấp;
- Lòng tin của các nhà đầu tư vào trái phiếu;
- Tồn tại một thị trường thứ cấp vận hành tốt và năng động để giảm bớt rủi ro cho nhà đầu tư vì trái phiều đô
thị thường là trái phiếu dài hạn,
- Chất lượng tín nhiệm cao trong việc trả nợ, điều này đòi hỏi chính quyền nguồn thu thuế, lợi tức, bảo
lãnh... đủ để nhà đầu tư tin vào việc có thể thu lợi từ trái phiếu đô thị,
- Hệ thống thông tin chất lượng cao về các hoạt động ngân sách của chính quyền địa phương, các dự án có
bán trái phiếu, hệ thống kế toán, kiểm toán công khai theo tiêu chuẩn quốc tế
Tuỳ theo cơ sở pháp lý xác định nghĩa vụ và phương thức điều hàng các khoản nợ huy động dưới hình
thức trái phiếu này, trái phiếu đô thị có 2 loại cơ bản sau đây:

Trái phiếu công ích (General Obligation Bonds -GOs)
Đây là loại trái phiếu đô thị được bảo đảm cả tiền gốc và lãi bằng toàn bộ các nguồn thu tài chính và
quyền lực thu thuế của chủ thể phát hành. Trái phiếu này có mức độ đảm bảo thanh toán cao, mức độ rủi ro
thấp, do vậy thông thường mức lãi suất của loại trái phiếu này thường thấp. Một số điểm đáng chú ý khi tham
khảo loại trái phiếu này là: Giới hạn theo luật về lượng nợ mà chính quyền địa phương được phép huy động.
Giới hạn này được Nhà nước cho phép hoặc do Hội đồng nhân dân địa phương quyết định.
Trái phiếu thu nhập hay trái phiếu công trình
Trái phiếu thu nhập (Revenue Bonds) là loại trái phiếu đô thị có lãi và gốc được trả dựa theo thu nhập
của công trình mà trái phiếu tài trợ, Ví dụ dễ thấy nhất của loại trái phiếu thu nhập là các trái phiếu tài trợ cho
các dự án về cầu dường có thu phí, các chương trình phát triển nhà ở, mở rộng bến cảng, sân bay...
Tại các nước công nghiệp phát triển, lịch sử phát triển của họ có phần đóng góp quan trọng của những
loại trái phiếu này. Đây là loại trái phiếu tập trung chủ yếu để phát triển hạ tầng, giúp Chính phủ và chính quyền
địa phương nhẹ gánh ngân sách.
Trái phiếu thu nhập được xem là loại có chất lượng thấp hơn trái phiếu công ích. Bởi vì mỗi công trình
có những rủi ro khác nhau và tuỳ thuộc vào điều kiện khai thác công trình đó có hiệu quả hay không. Thu nhập
thu được dùng để trả nợ từ các công trình tuỳ theo loại, nhưng nó chính là tiền thu từ việc sử dụng từ các tiện

×