Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.48 KB, 72 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀ NỘI TRONG THỜI
GIAN TỚI
III.1. Quan điểm, phương hướng chung trong huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh
tế ở Hà Nội thời gian tới.
Như trên đã trình bày, Hà Nội luôn là địa phương đứng thứ hai cả nước
sau TP.Hồ Chí Minh về đóng góp cho NSNN. Hà Nội là một trong số ít địa
phương trong cả nước có số điều tiết ngân sách về Trung ương với tỷ lệ cao. Tỷ
lệ phân chia các nguồn thu cho ngân sách Hà Nội hàng năm thấp nhất cả nước -
30% - 35% tổng số thu NSNN trên địa bàn. Hà Nội cũng là địa phương thường
xuyên dẫn đầu cả nước về huy động công trái, TPCP, tín phiếu KBNN và huy
động qua các công cụ khác của KBNN và ngân hàng.
Để phát huy vai trò là trung tâm đầu não về chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm văn hóa, khoa
học-công nghệ của cả nước, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế, là động lực của vùng
trọng điểm kinh tế phía Bắc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; để đạt được mục tiêu cụ thể
tăng trưởng GDP trung bình hàng năm khoảng 10-11% trong giai đoạn 2001-2010, và đến 2010 nâng mức GDP
bình quân trên một người dân Thủ đô lên 2200-2300UD, gấp 2,4 lần so với mức 990 USD năm 2000, thì nhu
cầu đầu tư phát triển của Hà Nội rất lớn, đặc biệt là nhu cầu đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội - một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đầu tư từ
nguồn ngân sách. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội giai đoạn 2001-
2010 chỉ rõ nhu cầu tổng vốn đầu tư xã hội của gia đoạn này lên tới 329.000 tỷ
đồng, bình quân 32.900 tỷ đồng/năm, gấp 2,56 lần so với bình quân hàng năm
giai đoạn 1996-2000, riêng giai đoạn 2001-2005 là 103.500 tỷ đồng, bình quân
20.700 tỷ đồng/năm, còn giai đoạn 2006-2010 lên tới 225.500 tỷ đồng, tăng gần
2,2 lần so với 5 năm trước, bình quân 45.100 tỷ đồng/năm.
Cùng với sự tăng cường xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu cần
giải quyết các nhiệm vụ kinh tế – xã hội theo tinh thần đổi mới của Đảng và nhà
nước, cũng như chủ trương chiến lược và kế hoạch phát triển mà Đảng bộ và
HĐND – UBND thành phố đã đặt ra, thì nhu cầu về vốn dài hạn ngày càng lớn
và yêu cầu sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này cũng ngày càng cao. Với mục
tiêu này, quá trình huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển cần


quán triệt các quan điểm và phương hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất,mạnh dạn nghiên cứu áp dụng các phương thức mới và kết hợp
sử dụng linh hoạt các phương thức, công cụ giải pháp hiện có để huy động ngày
càng nhiều vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô.
Tự do hóa kinh doanh là điều kiện hàng đầu để tạo nhu cầu và tăng năng
lực huy động vốn dài hạn. Việc cho phép khu vực kinh tế tư nhân tham gia ngày
2
càng rộng rãi vào các lĩnh vực kinh doanh sẽ, một mặt, cho phép họ có cơ hội
và an tâm đầu tư dài hạn trực tiếp trong những lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm
mà họ có lợi thế và ưa thích đầu tư, kể cả trong lĩnh vực thị trường vốn; mặt
khác, việc tự do hóa này sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn dài hạn để đầu tư xây mới
hoặc mở rộng sản xuất, hiện đại hóa thiết bị, công nghệ, đồng thời tạo nguồn
vốn dài hạn tiềm năng nhờ tăng các khoản thu thuế và nghĩa vụ tài chính, đóng
góp khác từ doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển thị trường tài chính và trình độ sản xuất, khả năng
tích lũy, bên cạnh những loại hình truyền thống..., sẽ xuất hiện những công cụ,
phương thức huy động vốn mới, thích hợp với điều kiện cụ thể địa phương. Vì
vậy, cần tăng cường sự chủ động và phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan
để nghiên cứu, mạnh dạn áp dụng đồng bộ, linh hoạt các công cụ, phương thức
tạo huy động các nguồn vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội Thủ
đô phù hợp quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển mà thành phố đặt ra,
làm tăng độ an toàn và linh hoạt của hoạt động tín dụng hiện nay trên địa bàn,
giảm thiểu tính trạng “lấy ngắn nuôi dài” và đơn điệu trong hoạt động này.
Có thể thấy trước là cho đến năm 2010, Hà Nội mới chỉ có thể xây dựng chứ chưa phát triển được
TCCK. Vì vậy, trong vòng 5-7 năm nữa rất có thể NHTM vẫn phải đóng vai trò chính trong việc huy động và
cho vay vốn dài hạn đối với nền kinh tế vì những lý do sau:
- Theo kế hoạch từ nay đến năm 2010, Hà nội mới xây dựng được thị trường chứng khoán giao dịch tập
trung, nhưng đa phần các doanh nghiệp ở Hà Nội, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh với khả năng tài chính
yếu, hiệu quả hoạt động kém sẽ khó lòng có thể vay vốn dài hạn trực tiếp thông qua thị trường này bằng cách
niêm yết, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, họ sẽ vẫn phải đi vay vốn ngân hàng.

- Nguồn vốn dài hạn của ngân sách nhà nước (thông qua chính sách tài trợ), vốn ODA và NGO ở Hà
nội sẽ có xu hướng giảm vì định hướng chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư của Việt Nam sẽ là giảm dần tỷ trọng đầu
tư phát triển từ vốn Ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ ngoài Ngân sách và như ông Michael Klein
(Phó chủ tịch World Bank) nói”Việt nam đang phát triển rất nhanh và đến lúc nào đó Việt nam sẽ không thể nhận
nhiều viện trợ nữa”.
- Dù có khó khăn về nguồn vốn nhưng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và vì mục tiêu kinh doanh
các NHTM vẫn phải có giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh cho vay vốn trung và dài hạn vì đây là hoạt động kinh
doanh phổ biến và đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
Tuy nhiên, trong tương lai, việc khai thác các nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng sẽ ngày càng
khó khăn hơn vì những lý do sau:
- Kinh tế và thị trường tài chính phát triển người có vốn có nhiều cơ hội để đầu tư trực tiếp hơn là gửi
Ngân hàng lấy lãi. Vốn của doanh nghiệp gửi ở NHTM chủ yếu sẽ dưới hình thức tiền gửi không có kỳ hạn để sử
dụng các dịch vụ ngân hàng. Tiền tiết kiệm của cá nhân, hộ gia đình có thể đầu tư vào chứng khoán, góp vốn,
mua cổ phần, đầu tư vào bất động sản... Mặt khác, khi xã hội phát triển nhu cầu tiêu dùng của xã hội sẽ ngày
càng tăng, tỷ lệ tiền giành cho tiết kiệm ở Hà nội không nhiều như hiện nay.
- Công cụ tài chính chủ yếu của các NHTM để thu hút vốn dài hạn của các NHTM là các chứng chỉ tiền
gửi dài hạn và trái phiếu, tuy nhiên kết quả phát hành trái phiếu sẽ phụ thuộc nhiều vào sự ổn định kinh tế vĩ mô
2
2
3
(nhất là các nhân tố tỷ lệ lạm phát, tỷ giá…). Chừng nào nền kinh tế Việt nam chưa ổn đinh, phát triển bền vững
thì các NHTM sẽ khó khăn khi định ra lãi suất huy động và công chúng cũng không yên tâm khi gửi tiền kỳ hạn
dài tại Ngân hàng.
- Sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên thị trường tài chính giữa các Ngân hàng với các định chế tài
chính khác như Công ty tài chính, các Quỹ tài chính. Giữa các Ngân hàng nội địa với Ngân hàng nước ngoài và
các định chế tài chính nước ngoài sẽ ngày càng xuất hiện nhiều hơn khi Việt Nam hội nhập kinh tế và tài chính
quốc tế.Trong cuộc cạnh tranh này đã thấy trước sự yếu kém, hạn chế của hệ thống NHTM Việt Nam.
Thứ hai, kết hợp hài hòa các nguồn vốn trong quá trình huy động, sử dụng
vốn đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế Thủ đô.
Sự kết hợp các nguồn vốn là điều kiện để giảm thiểu rủi ro kinh doanh

cho mỗi chủ đầu tư và góp phần khai thác nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
vốn đầu tư xã hội.
Trong thời kỳ trước mắt, vốn đầu tư dài hạn từ NSNN và có nguồn gốc
NSNN vẫn chiếm vị trí chủ lực trong tổng các nguồn vốn đầu tư dài hạn trên địa
bàn Thủ đô. Song, sau dăm bảy năm nữa, chắc chắn nguồn vốn ngoài NSNN sẽ
có sự gia tăng nhanh chóng cả về lượng và chất, trở thành nguồn vốn đầu tư dài
hạn ngày càng quan trọng, tạo động lực nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển
kinh tế Thủ đô. Đặc biệt, cần tăng nguồn vốn nước ngoài đầu tư dài hạn trong tỷ
trọng vốn đầu tư xã hội, hướng trọng tâm thu hút đầu tư dài hạn vào các nhà đầu
tư lớn quốc tế, kể cả các nhà đầu tư là người nước ngoài có quốc tịch Việt Nam.
Nói cách khác, không nên nhấn mạnh nguồn vốn nội lực mà sao nhãng các
nguồn vốn bên ngoài. nhấn mạnh nguồn vốn NSNN mà coi nhẹ các nguồn vốn
ngoài NSNN.
Tập trung vốn NSNN cho các hoạt động chuẩn bị đầu tư, đầu tư mồi, đầu
tư tạo cơ sở để tư nhân đầu tư hoặc mở rộng đầu tư, đầu tư đảm bảo những sản
phẩm, dịch vụ, địa bàn mà tư nhân chưa thể hay không muốn đầu tư. Đồng thời,
khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia đầu tư trực tiếp, dài hạn vào các
lĩnh vực, dự án, hàng hóa và dịch vụ mà pháp luật không cấm và không cần sự
độc quyền kinh doanh, cung ứng của nhà nước, kể cả các lĩnh vực như cung cấp
điện, nước sạch, vệ sinh môi trường, giao thông công cộng và dịch vụ trình độ
cao khác.
Kết hợp hài hòa các nguòn vốn trong từng dự án đầu tư theo phương thức
hợp vốn, đồng tài trợ hoặc thành lập các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn kinh
doanh cổ phần đa sở hữu, thu hút rộng rãi các nguồn vốn và với quy mô, mức độ
tham gia khác nhau từ các chủ thể đầu tư nhà nước, tư nhân, tập thể trong nước
3
3
4
và nước ngoài...; Việc áp dụng các công cụ huy động vốn mới và phối hợp linh
hoạt các hình thức huy động vốn nêu trên sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện và

mở rộng sự kết hợp hài hòa các nguồn vốn này.
Thứ ba, kết hợp tăng cường huy động vốn với nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế trên cơ sở ngày càng tuân thủ các
nguyên tắc thị trường, bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và an toàn
trong hoạt động huy động và sử dụng vốn.
Việc huy động vốn phải gắn liền với việc sử dụng vốn có hiệu quả, bảo
đảm hoàn trả vốn huy động. Thống nhất cơ chế, quyền lợi, trách nhiệm vay và
trả nợ vốn vay.
Ngày càng đặt ra các hoạt động huy động và sử dụng vốn dài hạn trên cơ
sở các nguyên tắc kinh tế thị trường, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh và an toàn vốn vay, đầu tư. Giảm thiểu tình trạng huy động và sử dụng
vốn theo cơ chế hành chính, bao cấp. Đảm bảo tăng nguồn vốn dài hạn để đầu tư
dài hạn, nhất là cho các dự án khó có khả năng thu hồi và hoàn trả trực tiếp vốn
đầu tư.
Bảo đảm sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn vốn đầu tư dài hạn giữa các
thành phần kinh tế, giữa bên vay và cho vay.
Thứ tư, tập trung vốn dài hạn đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm
thuộc lĩnh vực ưu tiến phát triển phù hợp vị thế điều kiện đặc thù và yêu cầu phát
triển KT - XH Thủ đô.
Đại hội đảng bộ thành phố lần thứ 13 và các kế hoạch phát triển kinh tế
dài hạn và trung hạn của thành phố đã xác định phương hướng đầu tư dài hạn
phát triển kinh tế Thủ đô tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, các khu công nghiệp và các cơ
sở vật chất cần thiết, đổi mới máy móc thiết bị phục vụ phát triển kinh tế, nâng
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Tập trung vốn đầu tư phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, sử dụng công
nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến theo định hướng phát triển trong Quy hoạch
công nghiệp thành phố đến năm 2010, ưu tiên các sản phẩm: phần mềm tin học,
cơ khí chính xác, chế tạo khuôn mẫu, linh kiện điện tử, đồ gia dụng, phương tiện
vận tải, dệt may cao cấp...

4
4
5
- Đầu tư để xây dựng và phát triển các ngành dịch vụ trình độ cao, chất lượng
cao.
- Đầu tư để phát triển kinh tế và xã hội ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô
thị sinh thái và sản xuất hàng hóa tập trung, kết hợp với du lịch.
- Đầu tư để phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ.
III.2. Phương hướng và giải pháp huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển dài hạn qua ngân sách nhà nước
Để nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung
đối với Thủ đô Hà Nội cần coi trọng những giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý vốn XDCB TT và cải cách hành
chính trong đầu tư XDCB. Cần tăng dần thẩm quyền phê duyệt dự án XDCB dùng
NSNN cho cấp quận, huyện lên mức cao hơn 5 tỷ đồng và tăng cường thanh kiểm tra
chất lượng, hiệu quả các dự án XDCB của Thành phố dùng NSNN. Cải thiện và đơn
giản hóa các thủ tục hành chính, cấp giấy phép đầu tư, cấp đất, cấp giấy phép xây dựng,
các qui định trong thủ tục hải quan, thanh tra, kiểm tra... đối với các dự án đầu tư. Trước
mắt, cụ thể Thành phố cần tập trung thực hiện:
- Công khai hóa thủ tục đầu tư. Trên cơ sở hệ thống lại toàn bộ các thủ tục
đầu tư, cơ quan chủ trì quản lý vốn đầu tư của Thành phố (Sở Kế hoạch và Đầu
tư) lập danh mục chi tiết thủ tục đầu tư, có hướng dẫn cụ thể và công khai hóa
danh mục này đối với doanh nghiệp, chủ đầu tư. Nội dung danh mục phải bao
gồm trách nhiệm của đơn vị và cá nhân trong xử lý thủ tục đầu tư nếu gây khó khăn,
chậm trễ cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Để làm được việc này, Thành phố phải có
văn bản qui chế hóa trách nhiệm trong việc xử lý thủ tục đầu tư.
- Thực hiện một cửa, một đầu mối tiếp nhận, xử lý (thẩm định và phê duyệt) các
dự án đầu tư. Sớm khắc phục tình trạng chủ đầu tư phải đi gõ cửa quá nhiều cơ quan
khác nhau như xin giới thiệu địa điểm và thoả thuận quy hoạch, kiến trúc; thoả thuận về
môi trường; thoả thuận về phòng cháy chữa cháy.....
-Việc phối kết hợp các nguồn vốn trong đầu tư là cần thiết nhưng phải thông qua

một đầu mối duy nhất để điều phối. Sớm khắc phục tình trạng tách biệt, phân tán giữa
sử dụng vốn đầu tư XDCB với vốn sự nghiệp đầu tư, giữa vốn đầu tư với vốn tín dụng,
giữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp của ngân sách với vốn hỗ trợ lãi suất vốn vay như hiện
nay. Cơ quan đứng ra quản lý, điều hoà sự phối kết hợp các nguồn vốn trong đầu tư phát
triển phải là Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố.
-Lập ra "đường dây nóng" thuộc lãnh đạo Ủy ban nhân dân Thành phố để tiếp
nhận mọi thông tin liên quan đến những vướng mắc của doanh nghiệp và nhà đầu tư
5
5
6
trong việc thực hiện thủ tục đầu tư để xử lý nhanh nhất là một giải pháp cần thiết trong
cải thiện thủ tục đầu tư. "Đường dây nóng" có nhân viên trực liên tục trong ngày để
nhận thông tin phản ánh, yêu cầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Việc xử lý các thông
tin thông qua "đường dây nóng" có thể bằng nhiều cách phù hợp:
+ Gửi trực tiếp đến cơ quan liên quan yêu cầu xử lý và trả lời.
+ Thông qua công văn, ý kiến của ủy ban nhân dân Thành phố.
+ Giải thích trực tiếp nếu có thể.
-Hoàn thiện thủ tục đầu tư phù hợp đặc thù của Thủ đô Hà Nội. Mục tiêu cải thiện
môi trường đầu tư của Thành phố là phải tạo ra lợi thế so sánh cao hơn so với các địa
phương để thu hút và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Muốn vậy, việc hoàn thiện thủ
tục đầu tư vừa phát huy được lợi thế và vừa hạn chế được phức tạp riêng của Thành phố
khi tuân thủ thủ tục đầu tư của Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Thứ hai, tích cực sử dụng nguồn vốn XDCB TT để thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu
đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng, mục tiêu đã chọn. Theo
định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005, thì cơ cấu kinh tế của Thủ
đô Hà Nội vẫn là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và từ giai đoạn 2006-2010 thì
chuyển mạnh trọng tâm sang cơ cấu: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Do vậy, vốn
đầu tư phát triển từ NSNN Thành phố các cấp trong thời gian tới cần trực tiếp hoặc tạo
điều kiện thúc đẩy đầu tư xã hội vào những lĩnh vực và đối tượng sau:
- Trong công nghiệp: chuyển dần sang ưu tiên cho các ngành công nghệ cao,

công nghiệp cơ - kim khí, điện - điện tử và công nghệ tin học, các ngành công nghiệp
sản xuất sản phẩm xuất khẩu, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất sản phẩm
xuất khẩu, thu hút nhiều lao động; đồng thời, hướng đầu tư vào lấp đầy khu công
nghiệp, khu chế xuất, mở mang thêm một số khu công nghiệp vừa và nhỏ.
- Trong dịch vụ: đầu tư phát triển du lịch, văn hóa gắn liền với môi trường
sinh thái và bảo vệ bản sắc dân tộc của Thủ đô. Phát triển các dịch vụ tài chính và thị
trường chứng khoán. Đồng thời Thành phố cần tập trung đầu tư mạnh để hỗ trợ sự
nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục thể thao.
- Trong nông nghiệp: đầu tư chế biến nông sản thực phẩm, chuyển dịch kinh tế
nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Về cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ: Cần tăng mạnh đầu tư phát triển các thị
trấn, thị tứ và mở rộng đầu tư ra ngoại thành.
Thành phố cần có qui định rõ mức đáp ứng cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư đối
với từng loại dự án đầu tư. Các dự án đầu tư sản xuất, nếu vốn thiết bị có tỷ trọng dưới
50% nên xem xét cụ thể mới quyết định đầu tư.
6
6
7
Thứ ba, linh hoạt hóa hình thức đầu tư, về cơ chế, lâu nay việc sử dụng vốn đầu tư
do Thành phố quản lý đang có xu hướng chuyển dần từ hình thức cấp phát không hoàn
lại sang hình thức cấp phát có hoàn lại (tín dụng đầu tư). Trong cấp phát không hoàn lại,
chủ yếu được cấp phát để thực hiện dự án đầu tư, nhưng từ năm 1998 Thành phố đã vận
dụng hình thức cấp phát sau khi chủ dự án đã thực hiện dự án đầu tư. Trong cơ cấu vốn
đầu tư vào một dự án đầu tư, vừa qua đã xuất hiện một số dự án có cơ cấu vốn đầu tư
tổng hợp, đa dạng: vốn cấp phát (ĐT XDCB Tập trung), vốn tín dụng đầu tư, vốn tích
lũy của doanh nghiệp, vốn huy động của các thành phần kinh tế và dân cư, vốn trong
nước và vốn ODA. Tuy vậy, sắp tới việc tiếp tục vận dụng linh hoạt hình thức đầu tư để
nâng cao hơn hiệu quả đầu tư là việc cần được Thành phố lưu ý. Trong đó cần mở rộng
các hình thức:
- Đầu tư vốn "mồi" để xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp và khu chế xuất.

Tuy nhiên thực tế cho thấy nếu hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất có qui
mô quá lớn chỉ phù hợp thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thì
nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi rất lớn. Do vậy phải kéo dài thời gian
xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ làm giảm hiệu quả vốn đầu tư. Việc tiếp tục hình thành
một số khu công nghiệp nhỏ (diện tích 10 - 15ha) vừa đủ khả năng tập trung vốn đầu
tư để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện sớm thu hút các nhà đầu tư lấp đầy đự
án.
- Đầu tư vốn " mồi " để xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, vốn đầu tư
của Nhà nước chỉ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng đến điểm đầu mối còn
công trình từ điểm đầu mối đến người sử dụng có thể huy động các nguồn vốn khác.
Hình thức đầu tư này phù hợp với xây dựng các công trình như: trạm điện, đường
giao thông liên huyện và liên xã, trạm cấp nước, kênh mương tiêu úng chính.
- Ngân sách địa phương bảo lãnh cho các chủ dự án đầu tư vay vốn ngân hàng thương
mại, huy động vốn của dân cư để đầu tư vào dự án.
- Đầu tư vốn vào các Quỹ đầu tư của Thành phố trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển
vốn. Đây cũng là hình thức đầu tư vốn " mồi " gián tiếp, hình thành vốn điều lệ để
các Quỹ đầu tư huy động các nguồn vốn khác và đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Đầu tư bằng quỹ đất, quỹ nhà vào các dự án đầu tư thông qua đấu thầu.
- Đầu tư vào nguồn nhân lực cho các dự án đầu tư thông qua các dự án hợp tác đào
tạo nhân lực.
- Đầu tư vào các dự án quản lý và giải phóng mặt bằng xây dựng đô thị. Lâu nay chi
phí đầu tư giải phóng mặt bằng được cơ cấu trong tổng dự toán đầu tư của dự án đầu
tư. Việc này không những phản ánh không chính xác tương quan suất đầu tư của
7
7
8
từng dự án đầu tư khác nhau mà vấn đề còn ở chỗ:
+ Do phải có vốn mới tổ chức đền bù được nên dẫn đến công tác giải phóng
mặt bằng chậm.
+ Do việc xác định chi phí đền bù để lập dự toán đầu tư thường không chính

xác nên phải điều chỉnh mức vốn đầu tư.
+ Ngoài ra do không được tổ chức quản lý mặt bằng theo qui hoạch và giải
phóng mặt bằng sớm đã dẫn dến tình trạng lấn chiếm, xây dựng sai qui hoạch gây khó
khăn cho công tác giải phóng mặt bằng trước thi công.
Thứ tư, đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng xây dựng, việc giải phóng mặt
bằng nhanh hay chậm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư xây dựng. Hiện nay việc
giải phóng mặt bằng của nhiều dự án đầu tư trên địa bàn Hà Nội đang bị ách tắc, kéo dài
gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu tư và làm nản lòng nhiều nhà đầu tư. Để cải thiện
và đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, Thành
phố cần tập trung vào một số biện pháp:
- Kiện toàn và nâng cao năng lực Ban quản lý giải phóng mặt bằng các cấp của
Thành phố.
+ Để hoạt động có hiệu quả, Ban này có cơ cấu đủ chuyên môn và đại diện ủy
ban nhân dân Quận, Huyện. Trong đó phải có bộ phận chuyên trách.
+ Nguồn tài chính phục vụ hoạt động của Ban từ kinh phí ngân sách Thành phố
và tiền phạt hành chính vi phạm qui hoạch đô thị theo nguyên tắc quản lý tài chính Nhà
nước.
- Rà soát lại toàn bộ các văn bản về cơ chế chính sách qui định liên quan đến
giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố, để điều chỉnh, sửa đổi, cụ thể hóa các văn
bản chưa đủ đáp ứng (trong thẩm quyền của Thành phố) hoặc đề nghị Chính phủ cho ý
kiến. Đặc biệt, trong việc hoàn thiện văn bản cần lưu ý:
+ Phân loại đất đảm bảo cơ sở khoa học và sát thực tiễn.
+ Giá đất nông nghiệp quá trình nông thôn chuyển sang đô thị hóa phải nâng lên
mức cao hơn, mức chênh lệch giữa giá đất đền bù và giá đất trong dự án đầu tư (đã thu
hồi) hiện nay là quá cao nên khó khăn cho việc thu hồi đất.
+ Mốc lịch sử để tính giá đất và cấp quyền sử dụng đất không nên chia ra nhiều
giai đoạn như hiện nay.
- Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác qui hoạch xây dựng, thời gian
qua, công tác qui hoạch chưa quan tâm đúng mức đến tính phức tạp của giải phóng mặt
bằng dẫn đến chi phí đền bù lớn, hiệu quả của dự án sau đầu tư thấp nhưng trách nhiệm

8
8
9
của cơ quan qui hoạch chưa được quan tâm đúng mức.
- Lập quy hoạch các khu đất phục vụ dãn dân , di dân, xây dựng các khu tái
định cư và định cư tạm thời phục vụ GPMB, đồng thời bố trí một lượng vốn đầu tư đáng
kể để thực hiện các dự án đầu tư phục vụ tái định cư do giải phóng mặt bằng.
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, đa số người dân mặt tiền bị giải tỏa sau khi tái
định cư phải chuyển đổi nghề nghiệp kinh doanh. Thực tế này đòi Thành phố không chỉ
quan tâm đến số tiền đền bù là nhà, đất mà cần tính đến có sự hỗ trợ nhất định cho các
hộ dân khi tái định cư phải chuyển đổi nghề nghiệp.
- Công khai hóa cơ chế chính sách đền bù và nâng cao công tác tuyên truyền,
vận động, việc không công khai hóa cơ chế chính sách đền bù vô hình trung tạo cơ hội
nẩy sinh các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực. Mặt khác, điều đó dẫn đến sự hiểu biết,
vận dụng thực hiện khác nhau giữa các địa phương gây nghi ngờ cho nhân dân. Vì vậy,
trên cơ sở cơ chế chính sách, qui định về giải phóng mặt bằng phải tổ chức tuyên truyền,
công khai rộng rãi, vận động nhân dân tự nguyện chấp hành việc giải tỏa.
- Áp dụng biện pháp cưỡng chế, trong công tác giải phóng mặt bằng, việc giải
tỏa nhà ở của dân cư không thể nói 100% là "thông đồng bén giọt". Vì vậy, biện pháp
cuối cùng khi đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết mà người dân không tự nguyện thực
hiện, là sử dụng biện pháp cưỡng chế. Song việc cưỡng chế phải thực hiện đúng nơi,
đúng chỗ, đúng thời điểm và theo pháp luật.
Thứ năm, tăng cường các biện pháp bảo đảm quy trình đầu tư, Theo cơ chế quản
lý đầu tư xây dựng hiện hành, thì trình tự đầu tư gồm 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư;
Thực hiện đầu tư; Kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
Việc thực hiện đúng qui trình đầu tư không những có ý nghĩa nâng cao hiệu quả
đầu tư nói chung, mà có khi quyết định "vận mệnh" của dự án đầu tư. Tuy vậy, thực tế
để làm được việc đó vẫn còn không ít vướng mắc. Vấn đề đòi hỏi là ở chỗ, chủ đầu tư
phải vừa tháo gỡ được vướng mắc, vừa phải đảm bảo qui trình đầu tư không gây ảnh
hưởng đến hiệu quả dự án đầu tư.

Thực tế quản lý đầu tư hiện nay cho thấy, một số công đoạn trong giai đoạn
chuẩn bị đầu tư do thực hiện chậm nên phải triển khai song song với giai đoạn thực hiện
dự án đầu tư. Mặt khác, do nguồn vốn đầu tư phải bố trí ra nhiều năm nên vốn bố trí để
thực hiện dự án năm nay phải chuyển một bộ phận để đầu tư gối đầu cho năm sau. Điều
đáng quan tâm nữa là, không ít dự án đầu tư đã nghiệm thu nhưng không thể bàn giao
công trình đưa vào khai thác và sử dụng vì vướng mắc nguồn vốn thanh toán.
Những vấn đều nêu trên ít nhiều đều ảnh hưởng xấu đến hiệu quả đầu tư của dự
án đầu tư, mà nguyên nhân chính là do khách quan hoặc chủ quan đã dẫn đến không
9
9
10
tuân thủ qui trình đầu tư.
Để đảm bảo qui trình đầu tư trong điều kiện quản lý đầu tư xây dựng hiện nay
trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, trước hết đòi hỏi cơ quan quản lý đầu tư xây dựng xác định
rằng, việc bảo đảm qui trình đầu tư phải tuân thủ trên những nguyên tắc cơ bản nhưng
có tính đến việc cho phép vận dụng linh hoạt tùy theo điều kiện thực tế mà không ảnh
hưởng chất lượng công trình và tăng khối lượng đầu tư quá mức không cho phép. Đồng
thời, nâng cao chất lượng lựa chọn, xây dựng, thẩm định và xét duyệt dự án đầu tư. Đây
là các khâu chủ yếu trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Thời gian qua do trách nhiệm, năng lực của chủ đầu tư và các tổ chức tư vấn
hạn chế nên không ít dự án chuẩn bị có chất lượng thấp, khá nhiều dự án phải điều
chỉnh, duyệt đi, duyệt lại... Để khắc phục tình trạng này trước hết là nâng cao tính tự
chịu trách nhiệm của chủ đầu tư, cơ quan tư vấn đầu tư và được điều chỉnh bởi văn bản
pháp lý.
Vấn đề nói trên đã đề cập trong Nghị định 52/NĐ-CP song qui chế hóa cụ
thể hơn nữa trách nhiệm pháp lý của chủ đầu tư và cơ quan tư vấn trong việc đảm
bảo chất lượng dự án đầu tư cần được Thành phố có văn bản triển khai.
Ngoài ra, cần thực hiện nghiêm túc các quy định về đấu thầu và chỉ định thầu.
Nghị định 88/NĐ-CP và Nghị định 14/NĐ-CP đã qui định chặt chẽ việc thực hiện qui
trình đấu thầu và chỉ định thầu. Tuy vậy, cụ thể hóa hơn nữa một số điểm cần thiết ở cấp

Thành phố là việc nên làm bảo đảm nguyên tắc không gây phiền hà thủ tục cho nhà đầu
tư. Đơn cử ra đây một vài vấn đề cần có văn bản cụ thể hóa hơn:
- Về giá xét thầu, qui chế mới đã bỏ giá sàn và chỉ có giá trần và tổng mức đầu
tư của dự án, đây là " mốc " quan trọng để xem xét kết quả trúng thầu. Nhưng thực tế
nhiều đơn vị dự thầu chỉ bỏ thầu với giá từ 60 - 65% giá trần. Đây là phá giá và chắc
chắn gây tổn hại đến công trình. Việc này cần có qui định cụ thể hơn khi xem xét đơn
giá của từng gói thầu.
- Về chỉ định thầu, cần có qui định cụ thể là chủ đầu tư phải làm rõ một số vấn
đề trước khi quyết định chỉ định thầu, như: Lý do chỉ định thầu, vì sao chọn đơn vị được
chỉ định thầu, trách nhiệm của chủ đầu tư đối với chủ thầu, các dự án có xây lắp nhất
thiết phải có thiết kế dự án được duyệt.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả của công tác kế hoạch hóa vốn đầu tư,Đối với các
nguồn vốn khác do Thành phố quản lý, nhìn chung việc triển khai kế hoạch hóa vốn đầu
tư còn nhiều phức tạp, khó khăn. Chất lượng công tác kế hoạch hóa vốn đầu tư chưa cao
trong thời gian qua tác động không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng
vốn đầu tư tập trung do Thành phố quản lý. Để cải thiện hiệu quả công tác kế hoạch hóa
vốn đầu tư do Thành phố quản lý trong thời gian tới, cần lưu ý:
10
10
11
- Thực hiện tốt công tác định hướng đầu tư từng thời kỳ (giai đoạn 5 năm). Trên cơ sở
định hướng để xây dựng các chương trình, cụm công trình đầu tư trọng điểm gắn
liền với chương trình phát triển kinh tế - xã hội mà Hội đồng nhân dân Thành phố đã
thông qua. Và trên cơ sở cân đối, sắp xếp các dự án trọng điểm ưu tiên đầu tư, hình
thành danh mục đầu tư cho cả giai đoạn và từng năm để xây dựng kế hoạch huy
động, khai thác nguồn vốn đầu tư đáp ứng. Dĩ nhiên, việc lựa chọn dự án đầu tư phải
trên cơ sở cân đối với khả năng huy động và nguồn vốn đầu tư.
- Về bố trí vốn đầu tư. Trên cơ sở điều kiện ghi vốn đầu tư theo cơ chế quản lý vốn
đầu tư của Chính phủ, Thành phố phải:
+ Kiên quyết loại khỏi danh mục bố trí vốn hàng năm đối với các dự án chưa đủ

thủ tục đầu tư (trừ ngoại lệ đối với một số dự án đặc thù theo qui định), và dự án hiệu
quả kinh tế - xã hội chưa rõ ràng. Ưu tiên các dự án đầu tư thực hiện tiến độ nhanh để
dứt điểm, rút ngắn thời gian thực hiện đầu tư. Việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư phải căn
cứ cả tiến độ thực hiện dự án để xem xét, không bố trí vốn, không thanh quyết toán cho
các dự án không nằm trong danh mục dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt
để ngăn chặn tình trạng ‘‘tiền trảm, hậu tấu’’, ‘‘sự đã rồi‘‘ trong XDCB bằng vốn
NSNN....
+ Hạn chế tối đa việc bố trí vốn dàn trải và kéo dài nhiều năm. Các dự án nhóm
C chỉ nên tối đa là 2 năm. Việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư phải có cơ cấu hợp lý tạo
nguồn đẩy nhanh giai đoạn chuẩn bị đầu tư, trong đó tập trung xử lý vốn giải phóng
mặt bằng.
- Về phạm vi kế hoạch hóa vốn đầu tư:
+ Để chủ động cân đối khả năng huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư ĐT
XDCB tập trung, phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội, yêu cầu công tác kế hoạch
hóa vốn đầu tư do Thành phố quản lý phải được thực hiện trên tất cả các nguồn vốn do
Thành phố quản lý. Ngoài ra ở cấp Thành phố phải tổng hợp được khả năng huy động
và nhu cầu sử dụng vốn đầu tư từ các nguồn vốn khác trên địa bàn.
+ Kế hoạch hóa vốn đầu tư phải được tập trung về một đầu mối theo dõi ở Thành
phố nhưng nguyên tắc là được xây dựng từ cấp cơ sở. Cấp trên chỉ tham gia định hướng
đầu tư cho cấp dưới chứ không ấn định dự án đầu tư cho cấp dưới.
Hiện nay các nguồn vốn đầu tư do Thành phố quản lý đang có 5 đầu mối tổng
hợp xét duyệt kế hoạch là: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính và Vật giá, Chi nhánh
Quỹ hỗ trợ phát triển, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Kho bạc Nhà nước Hà
Nội. Với việc này, vừa gây khó khăn cho công tác tổng hợp thực hiện kế hoạch vốn đầu
tư kịp thời để cung cấp số liệu và có căn cứ làm tham mưu cho ủy ban nhân dân Thành
phố, vừa gây khó khăn cho các Sở, Quận, Huyện và chủ đầu tư trong việc chấp hành cơ
11
11
12
chế quản lý vốn đầu tư của Nhà nước. Vì vậy thiết nghĩ Thành phố phải xử lý sớm, và

nên qui định Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối của Thành phố trong việc thực hiện kế
hoạch hóa vốn đầu tư do Thành phố quản lý.
Thứ bảy, hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả đầu tư. Việc đánh giá hiệu quả đầu
tư là khâu cực kỳ quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư. Thế nhưng thực tế đánh giá
hiệu quả đầu tư lâu nay chỉ đề cập khi thẩm định dự án đầu tư để quyết định đầu tư. Mà
ở giai đoạn này cơ quan thẩm định chỉ tập trung thẩm định:
- Đối với dự án đầu tư có hoàn vốn (sử dụng vốn vay) thì, cơ quan cho vay tập trung
thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư có bảo đảm khả năng hoàn vốn.
- Đối với dự án đầu tư XDCB tập trung (sử dụng vốn cấp phát của ngân sách) thì cơ
quan quản lý cấp phát với tập trung thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội một cách
chung chung.
- Các dự án sử dụng vốn sự nghiệp hoặc dự án nhóm C có tổng dự toán thấp thường
không được thẩm định hoặc thẩm định còn sơ sài. Cơ quan quản lý bị động trong
việc cung cấp số liệu cho cấp trên chỉ đạo, điều hành quản lý vốn đầu tư. Số liệu
không được cập nhật đầy đủ và kịp thời kịp thời, nên chất lượng phân tích hiệu quả
đầu tư chưa cao. Do không theo dõi, phân tích kịp thời hiệu quả của dự án đầu tư
trong quá trình thực hiện nên không đủ thông tin để kiên quyết dừng bố trí vốn đối
với dự án biểu hiện hiệu quả kinh tế - xã hội chưa rõ ràng. Không đánh giá cụ thể
được hiệu quả sau đầu tư của từng dự án đầu tư đã gây ra sự thiếu vắng luồng thông tin
tin cậy nhất phục vụ điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp. Thiếu thông tin đồng bộ để đánh
giá công tác quản lý vốn đầu tư XDCB tập trung của Thành phố; Sở, ngành; Quận,
Huyện và chủ đầu tư.
Bởi vậy, trong thời gian tới việc hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả đầu tư cần
coi trọng hơn các nội dung và khía canh sau:
- Về tiêu thức đánh giá hiệu quả đầu tư:
+ Qui mô và cơ cấu vốn đầu tư (tỷ trọng của Hà Nội và so với cả nước).
+ Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn và sử dụng vốn đầu tư.
+ Tỷ trọng thực hiện kế hoạch vốn đầu tư.
+ Số lượng và cơ cấu dự án đầu tư, đối tác đầu tư.
- Các chỉ tiêu do đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: Tổng sản phẩm quốc nội

(GDP), GDP/người, Doanh thu, Lợi nhuận, Nộp ngân sách, Số lao động thu hút, Thu
nhập của người lao động, Chỉ số ICORs.
- Về thời gian đánh giá hiệu quả đầu tư: Đánh giá theo kỳ kế hoạch, Đánh giá 6 tháng, quí
12
12
13
và phạm vi cho phép và đánh giá thường xuyên đối với các dự án đầu tư trong quá trình
thực hiện.
- Về quy định trách nhiệm của các cấp quản lý và cơ quan liên quan.
+ Quy định đầu mối đánh giá hiệu quả đầu tư.
+ Trách nhiệm thống kê, tổng hợp, theo dõi, phân tích và đánh giá của cơ quan đầu
mối quản lý vốn đầu tư (bao gồm đầu mối thành phố; từng Sở, ngành; Quận, Huyện.
+ Xây dựng và thực hiện cơ chế thưởng, phạt trong việc hoàn thành nhiệm vụ theo
dõi, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư.
- Về cơ chế thưởng phạt trong quản lý đầu tư.
+ Cơ sở để thưởng phạt là mức độ hiệu quả đầu tư đã được đánh giá.
+ Nguồn ngân sách để chi thưởng: trích một tỷ lệ nhất định nguồn vốn đầu tư của
ngân sách Thành phố để hình thành Quỹ thưởng phạt mức độ đạt hiệu quả đầu tư; thu từ
tiền phạt không đạt hiệu quả đầu tư; và nguồn khác (nếu có).
+ Đối tượng thưởng, phạt: chủ dự án đầu tư; đơn vị và cá nhân trong bộ máy quản
lý vốn đầu tư từ Thành phố đến, xã, thị trấn.
Có thể nói, để nâng cao hiệu quả vốn ĐT XDCB trên địa bàn Thủ đô, cần có sự
tham gia đồng bộ và phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành và trong tất cả các khâu
liên quan đến huy động và sử dụng vốn ĐT XDCB, mà 7 giải pháp trên chỉ là những nội
dung quan trọng nhất .
III.3. Phương hướng và giải pháp huy động, sử dụng vốn đầu tư dài hạn qua
KBNN
III.3.1. Phương hướng huy động vốn qua KHNN
Những năm tới nhiệm vụ huy động vốn của KBNN hết sức nặng nề:
Riêng năm 2004, KBNN phải huy động trên 40.000 tỷ đồng. Nhiệm vụ năm 2004 của hệ thống KBNN

là sẽ tiếp tục tổ chức phát hành 2.500 tỷ đồng Công trái giáo dục đợt II và khoảng 9.000 tỷ đồng Trái phiếu
Chính phủ đầu tư các công trình giao thông thuỷ lợi. Theo Quyết định 182/QĐ-TTg của Thủ tướng, đến 2010 hệ
thống KBNN, trong đó có KBNN Hà Nội, phải triển khai huy động, quản lý và sử dụng 63.024 tỷ đồng TPCP
bằng cả nội tệ và ngoại tệ với thời hạn 5-10 năm nhằm đầu tư cho các công trình giao thông thuỷ lợi quan trọng
của đất nước, trong đó có 41.529 tỷ đồng đầu tư cho 20 công trình giao thông và 12.925 tỷ đồng đầu tư cho 16
công trình thuỷ lợi. Bên cạnh nhiệm vụ phải huy động trung bình trên 1000 tỷ đồng TPCP/năm, trong những
năm tới, KBNN Hà Nội sẽ bắt đầu thực hiện chủ trương của Thành phố về phát hành TPCQĐP nhằm tăng cường
khai thác và sử dụng vốn dài hạn trực tiếp cho đầu tư phát triển Thủ đô. Đó là những nhiệm vụ rất nặng nề đặt
lên vai hệ thống KBNN Hà Nội. Để KBNN Hà Nội có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ đó cần thực hiện tốt
những giải pháp chủ yếu sau:
III.3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn qua KBNN
a) Huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ
13
13
14
- NHNN Thành phố cần chỉ đạo các NHTM xây dựng chiến lược và kế hoạch mở rộng qui mô huy
động vốn trong nước cho ĐTPT thông qua phát hành TPCP;
- Tăng cường năng lực quản lý nợ công thông qua xây dựng chiến lược quản lý vay và trả nợ, có bộ máy quản
lý nợ công tập trung thống nhất.
- KBNN phải nắm bắt được nhu cầu thanh toán vốn từ nguồn TPCP thuộc các cơ quan chức năng như Bộ
GTVT, Bộ NN&PTNT, v.v. để có kế hoạch cung ứng vốn kịp thời cho các công trình, không để xảy ra tình
trạng thiếu vốn và đảm bảo việc huy động vốn phải phù hợp với tiến độ giải ngân của công trình, tránh tình
trạng huy động song mà không giải ngân được phải gánh chịu lãi suất huy động.
- Tăng số lượng các thành viên tham gia đấu thầu TPCP. Thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ hơn nữa của hệ
thống ngân hàng, các TCTD phi ngân hàng và TTCK trong hoạt động đầu tư vào TPCP. Nâng dần tỷ trọng
đầu tư vào TPCP của các định chế tài chính trong nước.
- Nâng tính minh bạch của thị trường tài chính cũng như mức độ hấp dẫn của TPCP, đa dạng hoá các công cụ
và hình thức huy động.
- Đảm bảo nguồn nhân lực có trình độ, được thường xuyên bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, trang bị đủ tri thức, đủ năng lực để làm chủ công nghệ quản lý và công nghệ thông tin hiện đại.

- Hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá công nghệ thông tin và phát triển các ứng dụng thiết thực cho các
lĩnh vực quản lý trong hệ thống KBNN.
b) Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
- Trên cơ sở thực hiện phân cấp quản lý ngân sách theo Luật NSNN, chính quyền thành phố có chủ trương
triển khai phát hành TPCQĐP và thành lập Quỹ đầu tư phát triển Hà Nội nhằm huy động vốn phát triển
CSHT kinh tế - xã hội, phúc lợi công cộng trên địa bàn thành phố, đồng thời giảm nhẹ gánh nặng cho
NSTW.
- Chủ động nghiên cứu, xây dựng hoặc kiến nghị trình cấp có thẩm quyền và cơ quan hữu quan phối hợp hoàn
thiện hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cần thiết đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả huy động, quản lý
và sử dụng nguồn vốn dài hạn từ TPCQĐP (ví dụ: ban hành Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị
định 141/NĐ-CP về phát hành TPCQĐP, quản lý và sử dụng nguồn vốn này).
- KBNN làm tốt công tác tham mưu tư vấn cho chính quyền thành phố và các cơ quan tài chính trong việc xây
dựng chiến lược phát hành TPCQĐP, hấp dẫn các nhà đầu tư và giảm thiểu rủi ro. Chiến lược và kế hoạch
phát hành TPCQĐP phải căn cứ vào Chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, dựa vào kết
quả phân tích và dự báo khả năng cũng như nhu cầu huy động vốn, tiến độ huy động cho từng dự án cụ thể,
tránh cả hai tình trạng vốn ứ đọng cũng như thiếu vốn. Kế hoạch phát hành TPCQĐP phải nêu rõ qui mô,
đối tượng, phương thức phát hành, lãi suất, thời hạn, lựa chọn thời điểm phát hành hợp lý gắn với bố trí
nguồn và kế hoạch trả nợ rõ ràng. Bên cạnh đó, ổn định nguồn thu ngân sách của thành phố và nâng cao khả
năng dự báo nguồn thu là cơ sở quan trọng thiết lập kế hoạch huy động nguồn lực tài chính cho ĐTPT nói
chung và khai thác vốn dài hạn qua phát hành TPCQĐP của Hà Nội nói riêng. Đặc biệt, cần xây dựng tiêu
thức cho Thành phố trong việc phát hành trái phiếu công ích và phát hành trái phiếu thu nhập (trái phiếu
công trình) để làm căn cứ xây dựng và thông qua các kế hoạch huy động, quản lý vốn huy động từ TPCQĐP
của Thành phố trong thời gian tới. Chúng tôi cho rằng chỉ phát hành trái phiếu công ích cho các dự án nào
mà không thể huy động được vốn tư nhân hoặc dự án đó có ý nghĩa công ích cao, nếu để tư nhân triển khai
sẽ gây tổn hại lợi ích chung lớn hơn lợi ích của việc tiết kiệm vốn đầu tư từ NSNN. Còn lại, Thành phố nên
tăng cường phát hành trái phiếu công trình.
14
14
15
- Lập kế hoạch và nâng cao chất lượng kế hoạch huy động vốn: Kế hoạch huy động phải được xây dựng và

tổng hợp từ dưới lên, tách riêng chiến lược và kế hoạch huy động vốn trung và dài hạn. Căn cứ xây dựng kế
hoạch là Chiến lược và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, dự toán ngân sách thành phố, nhu cầu
đầu tư, khả năng cung ứng vốn từ nguồn vốn ĐTPT của NSNN, nhu cầu huy động vốn cho từng dự án cụ
thể theo kế hoạch và qui hoạch đầu tư chi tiết. Việc cân đối kế hoạch huy động dựa trên nguyên tắc chủ
động, tích cực, xuất phát từ đánh giá và dự báo chính xác nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, xuất phát từ
nhu cầu thật sự cần thiết phải phát hành TPCQĐP, nắm chắc và khai thác tốt nguồn lực tài chính trong nước,
đảm bảo tính khả thi. Việc phân bổ và giao kế hoạch huy động vốn phải gắn liền với giao kế hoạch NSNN.
Lưu ý lựa chọn thời điểm phát hành TPCQĐP thích hợp, vừa bám sát nhu cầu sử dụng vốn, vừa phù hợp với
diễn biến thực tế trên thị trường tài chính.
- KBNN Hà Nội phối hợp và tranh thủ sự giúp đỡ, hướng dẫn của các Bộ ngành TW, các cấp chính quyền
thành phố, các cơ quan tài chính trên địa bàn cũng như chính quyền và cơ quan tài chính các địa phương
khác trên cả nước trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch phát hành TPCQĐP.
- Đa dạng hoá các loại kỳ hạn TPCQĐP, đặc biệt chú trọng tăng qui mô phát hành trái phiếu trung dài hạn 3-5
năm, nghiên cứu khả năng phát hành với kỳ hạn dài hơn, thậm chí từ 10 đến 30 năm. Phân biệt rõ TPCQĐP
có tính chất nghĩa vụ và TPCQĐP có tính chất tự nguyện để có hệ thống giải pháp phát hành và sử dụng
thích hợp:
(1) Loại TPCQĐP có tính chất nghĩa vụ có lãi suất thấp, thời hạn 5-10 năm nhằm huy động vốn xây
dựng các công trình dự án có ý nghĩa kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng chiến lược trên phạm vi
quốc gia và toàn Thành phố. Theo đó phải có qui định cụ thể nghĩa vụ mua đối với từng đối tượng
cụ thể kết hợp với các biện pháp tuyên truyền giáo dục. Riêng đối với các công trình mang tính phúc
lợi xã hội, giáo dục, y tế,... trên địa bàn có thể xem xét phát hành TPCQĐP trên cơ sở vận động;
(2) Loại TPCQĐP có tính chất tự nguyện nhằm huy động vốn đầu tư vào những dự án có hiệu quả kinh
tế cao, có khả năng thu hồi trực tiếp hoặc gián tiếp qua thu phí, huy động theo nguyên tắc tự nguyện
(chẳng hạn xây dựng nhà máy điện, cấp nước, nhà ở, giao thông, cầu, cảng, sân bay, nhà ga,...).
Phương thức, nội dung, tính chất, lãi suất,... dựa trên qui luật thị trường, cạnh tranh bình đẳng với
các loại hình tín dụng khác. Cần đa dạng hoá các phương thức phát hành loại TPCQĐP này, có thể
phát hành cả trái phiếu huy động vốn trong nước bằng vàng và ngoại tệ.
- Chú trọng phát triển các kênh huy động vốn trên địa bàn, đặc biệt là tăng cường cho các KBNN quận huyện
năng lực đánh giá và dự báo chính xác tiềm năng huy động, bám sát địa bàn dân cư triển khai có hiệu quả
các biện pháp huy động vốn theo đúng tiến độ kế hoạch.

- Phát triển đồng bộ cả hai hình thức phát hành trái phiếu bán lẻ và đấu thầu, bảo lãnh phát hành.
- Thông qua hoạt động của thị trường thứ cấp để có căn cứ xác định mức lãi suất trái phiếu, tiến tới xoá bỏ cơ
chế lãi suất trần trong các đợt đấu thầu trái phiếu qua NHNN và TTGDCK.
- Mở rộng và đẩy mạnh phát hành trái phiếu qua bảo lãnh và đại lý phát hành, bổ sung thêm đối tượng được
bảo lãnh phát hành thông qua hạ thấp điều kiện vốn pháp định đối với tổ chức bảo lãnh phát hành, hình
thành tổ hợp bảo lãnh hay đồng bảo lãnh với hạt nhân là tổ chức tài chính tiền tệ với sự tham gia của các
ngành khác đủ điều kiện tham gia kinh doanh chứng khoán theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP. Có mức phí
bảo lãnh hấp dẫn, khuyến khích phát triển phương thức phát hành này. Bổ sung thêm đối tượng được làm
đại lý phát hành TPCP là hệ thống Bưu điện do có mạng lưới rộng khắp đến tận xã phường, khu vực cụm
dân cư, rất thuận tiện cho các tầng lớp dân cư, các hộ gia đình mua TPCP và TPCQĐP.
15
15
16
- Nghiên cứu triển khai phát hành trái phiếu đấu thầu qua hệ thống KBNN, một mặt, hệ thống KBNN Hà Nội
hoàn toàn có khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ này, mặt khác tạo thế chủ động cho KBNN phát huy tốt lực
lượng và thế mạnh sẵn có khai thác vốn cho ĐTPT thành phố.
- Hoàn thiện thị trường, tạo môi trường thuận lợi phát triển thị trường trái phiếu thứ cấp. Tăng tính thanh
khoản của TPCP thông qua tạo điều kiện tự do mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, cải tiến cơ chế, thủ tục
hành chính trong các giao dịch này. Điều hành hoạt động của TTGDCK Hà Nội đáp ứng yêu cầu phát triển
thị trường vốn các tỉnh thành phía Bắc, khuyến khích các chi nhánh NHTM, công ty tài chính ở các tỉnh
thành phố mở thêm dịch vụ mua bán chứng khoán tạo điều kiện mở rộng thị trường chứng khoán thứ cấp.
- Thực hiện công khai hoá thông tin, xếp hạng tín nhiệm và có biện pháp nâng cao hệ số tín nhiệm của
TPCQĐP Hà Nội. Có chiến lược và kế hoạch xây dựng và nâng cao uy tín của chính quyền thành phố trong
các hoạt động vay và trả nợ. Công khai hoá, minh bạch hoá thông tin tài chính ngân sách không chỉ là thực
hiện các văn bản pháp qui như Quyết định 225/1998/QĐ/TTg của Thủ tướng hay Thông tư 83/1999/TT-
BTC của Bộ Tài chính về qui chế công khai hoá tài chính, mà còn là yếu tố then chốt tạo ra sức hấp dẫn của
trái phiếu đối với nhà đầu tư, tạo điều kiện cho họ có thể đánh giá và dự báo được khả năng thanh toán và
mức độ rủi ro của TPCQĐP trước khi quyết định đầu tư.
III.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN
III.3.3.1. Cấp phát vốn kịp thời, đầy đủ, chính xác

- Thực hiện cấp phát theo đúng qui định gắn liền với cải cách thủ tục hành chính đảm bảo giải ngân kịp thời
nguồn vốn đầu tư
- Việc phân bổ dự toán chi tiết trong năm và theo từng quí phải có sự thẩm tra của cơ quan tài chính làm căn
cứ cho việc tạm ứng, cấp phát hay thanh toán các khoản chi từ KBNN. Mọi thủ tục hành chính, quản lý, qui
định phải thích ứng nhịp độ phát triển kinh tế nhanh, nhịp độ hoạt động xã hội nhanh,... phải nắm chắc tình
hình, phân tích kịp thời, dự báo kịp thời để giải quyết nhanh vấn đề
- Cơ quan KBNN chỉ thực hiện chi khi hội tụ đủ các điều kiện như đã có trong dự toán ngân sách được giao,
đã được chi tiết theo loại, mục, tiến độ thực hiện, kể cả dự toán quí đã được cơ quan tài chính ra thông báo
thẩm tra; đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành; đã được thủ trưởng đơn vị
sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi. Việc áp dụng phương thức thanh toán trực tiếp
vừa tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị, giảm tầng nấc trung gian, vừa làm rõ trách nhiệm cá nhân của lãnh
đạo đơn vị thụ hưởng ngân sách, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN.
- Trong quá trình hoàn thiện qui trình cấp phát thanh toán ngân sách cần thực hiện tốt qui định các hình thức
chi trả, thanh toán theo Luật NSNN là: (1) theo dự toán thay cho hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí
trước đây; (2) bằng lệnh chi tiền. Chính việc bỏ hình thức chi trả thanh toán bằng hạn mức kinh phí đã giảm
bớt những thủ tục rườm rà, không cần thiết, hao tốn thời gian và công sức của người phục vụ cũng như
người được phục vụ. Hạn chế dần hình thức chi trả thanh toán bằng lênh chi tiền do tuy hình thức này đang
chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi NSNN nhưng nhiều ý kiến cho rằng hiệu quả không cao, nhất là về mặt
quản lý tài chính, ngân sách.
- Hoàn thiện hệ thống định mức tiêu chuẩn chi tiêu, kiện toàn chế độ kế toán, quyết toán ngân sách.
- Thực hiện tốt chương trình cải cách hành chính, cụ thể là cải cách triệt để các thủ tục hành chính trong hoạt
động nghiệp vụ của KBNN, đảm bảo quản lý chặt chẽ, chi đúng chế độ chính sách, chi kịp thời, đồng thời
tránh gây phiền hà.
16
16
17
- Nghiên cứu triển khai chủ trương đấu thầu các công trình để hạn chế tiêu cực, phát triển các hình thức đầu
tư BOT, BT, thí điểm thực hiện Nhà nước mua công trình hoàn thành sát với giá trị thực làm cơ sở tổng kết
triển khai nhân rộng.
III.3.3.2. Nâng cao hiệu quả kiểm soát chi của KBNN

Hệ thống KBNN cần phải đặc biệt chú trọng đến công tác quản lý, kiểm soát chi, đưa ra những cơ chế, biện
pháp kiểm soát các khoản chi thật cụ thể, rõ ràng để kiểm soát chi đúng chế độ, chi đúng thẩm quyền, dứt khoát
từ chối các khoản chi sai, chống tiêu cực lãng phí.
- Thực hiện tốt hạch toán kế toán ngân sách nhà nước theo chế độ kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ
KBNN ban hành kèm theo Quyết định 130/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Nghiêm chỉnh tuân thủ
các qui định liên quan tới thu chi NSNN nói chung và quản lý vốn đằu tư từ nguồn NSNN nói riêng như Thông
tư số 79/2003/TT-BTC hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, Thông
tư số 80/2003/TT-BTC hướng dẫn tập trung, quản lý các khoản thu ngân sách qua KBNN, Thông tư 98/2003/TT-
BTC hướng dẫn quản lý, sử dụng chi phí quản lý dự án đầy tư từ nguồn vốn NSNN, v.v.1
- Thực hiện tốt Thông tư số 100/2003/TT-BTC hướng dẫn quản lý, cấp phát, thanh quyết toán vốn đầu tư từ
nguồn TPCP và Công văn số 1495/KB/TTVĐT ngày 30.10.2003 của KBNNTW hướng dẫn kiểm soát thanh
toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP, Quyết định 601/KBNN/QĐ/TTVĐT ngày 28.10.2003 về qui trình kiểm
soát thanh toán vốn đầu tư trong nước. Khi kiểm soát thanh toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP, KBNN Hà Nội
cần tuân thủ nghiêm túc các qui định sau:
(1) Vốn đầu tư từ nguồn này bố trí cho dự án được giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Kế hoạch
vốn đầu tư hàng năm không bị giới hạn bởi năm kế hoạch đã thông báo, được giải ngân liên tục cho
đến khi kết thúc dự án, được theo dõi, quản lý riêng, không được thanh toán hoặc điều chuyển cho
các mục tiêu, nhiệm vụ, dự án khác. Đến hết năm tài chính nếu chưa thực hiện và thanh toán hết kế
hoạch đã thông báo thì được chuyển sang năm sau để tiếp tục thực hiện và thanh toán;
(2) Đối với những dự án đã được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước nay chuyển sang đầu tư
bằng nguồn TPCP để trả nợ thì KBNN chỉ thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ
thanh toán trả nợ và số tiền trả nợ từng lần, không kiểm soát giá trị khối lượng XDCB hoàn thành đã
được Quĩ HTPT kiểm soát khi giải ngân rồi;
(3) Đối với những dự án đã đầu tư bằng nguồn vốn ứng trước của NSNN nay được bố trí bằng nguồn
TPCP để thu hồi vốn ứng thì sau khi có thông báo vốn của Sở Tài chính đối với dự án do địa
phương quản lý thì Phòng TTVĐT gửi bản sao thông báo vốn và giấy đề nghị cho Phòng Kế toán để
hạch toán điều chỉnh vốn đã thanh toán từ nguồn vốn ứng của ngân sách sang nguồn TPCP;
(4) Nguồn vốn thanh toán từ nguồn TPCP do cơ quan Tài chính chuyển sang KBNN cùng cấp. Các dự
án thuộc TW quản lý, KBNTW căn cứ thông báo kế hoạch vốn thanh toán của Bộ Tài chính để
chuyển vốn về KBNN tỉnh nới chủ đầu tư mở tài khoản;

(5) Quyết toán vốn đầu tư hàng năm và quyết toán dự án đầu tư hoàn thành được lập riêng, không cân
đối chung vào dự toán chi của các Bộ và NSĐP.
- Triển khai có hiệu quả cơ chế quản lý, cấp phát, thanh quyết toán vốn đầu tư theo các thông tư 44 và
45/2003/TT-BTC.
- Phối hợp tốt với các cơ quan có liên quan để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động. Căn cứ vào danh
mục công trình theo Quyết định 182/2003/QĐ-TTg, Bộ GTVT và Bộ NN&PTNT tính toán kỹ khả năng
thực hiện hàng năm của từng dự án để có phân kỳ đầu tư, có kế hoạch nhu cầu vốn hàng tháng với
KBNNTW để ngành Kho bạc có kế hoạch huy động vốn sát với nhu cầu sử dụng.
17
17
18
- Phối hợp thẩm định quyết toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP với các cơ quan chức năng.
- Tranh thủ sự giúp đỡ, phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán, sự giám sát của nhân dân để đảm bảo
hiệu quả đầu tư từ nguồn trái phiếu, chống lãng phí thất thoát.
- Hiện đại hoá hoạt động KBNN nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý kinh tế, tài chính và ngân sách trong
giai đoạn mới.
Tóm lại, muốn tăng cường khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn dài hạn thông qua KBNN Hà Nội
cần áp dụng hệ thống các giải pháp đồng bộ, một mặt phát huy những ưu điểm, lợi thế, thành tích trong huy động
và sử dụng nguồn vốn thông qua phát hành TPCP của KBNN Hà Nội những năm qua để tiếp tục hoàn thành
vượt mức chỉ tiêu kế hoạch phát hành TPCP được TW tin cậy giao phó. Mặt khác, KBNN Hà Nội cần chủ động
phối hợp với các cơ quan chức năng dưới sự chỉ đạo của chính quyền Thành phố lên phương án, kế hoạch phát
hành và sử dụng TPCQĐP như một kênh huy động mới, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc khai thác cao
độ nguồn lực tài chính dồi dào trong dân để đầu tư xây dựng CSHT của Thủ đô.
III.4. Những phương hướng và giải pháp huy động, sử dụng vốn qua các ngân hàng thương mại
III.4.1. Phương hướng và giải pháp tăng cường huy động vốn dài hạn qua các
NHTM
III.4.1.1. Các Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn ngắn hạn.
Đây là thế mạnh độc quyền của Ngân hàng vì không có tổ chức tài chính phi ngân hàng nào được phép
huy động tiền gửi không kỳ hạn và được làm dịch vụ thanh toán như ngân hàng. Số dư huy động vốn ngắn hạn
càng nhiều thì số lượng vốn được sử dụng cho vay trung và dài hạn sẽ càng lớn (theo tỷ lệ quy định).

Huy động vốn thông qua hình thức tiết kiệm và tiền gửi thanh toán là những dịch vụ truyền thống của
Ngân hàng, tuy nhiên nếu vẫn chỉ chào mời những ích lợi cũ như gửi tiền sẽ có lãi, được thanh toán v.v.. thì khó
có thể huy động tối đa được các nguồn vốn nhàn rỗi. Ngoài lãi suất, người có tiền hiện nay còn quan tâm đến
những tiện ích mà họ có thể được hưởng từ tiền gửi. Vì vậy, những vấn đề mà các Ngân hàng cần cần quan tâm
là:
- Khuyến khích người gửi tiềnbằng cách đưa ra các hình thức tiết kiệm mới phù hợp với nhu cầu người
gửi tiền, nhất là các hình thức tiết kiệm tích luỹ cho nhu cầu tiêu dùng, đồng thời tăng các tiện ích về lãi suất,
cầm cố, chuyển nhượng, xác nhận số dư sổ tiết kiệm, thời gian và địa điểm thanh toán… cho khách hàng; Cung
cấp các dịch vụ thuận tiện và sinh lời đối với các tài khoản pháp nhân như: dịch vụ thanh toán ưu đãi, trả lãi trên
số dư tiền gửi, chuyển kỳ hạn tiền gửi, cho vay vốn và thực hiện các nghĩa vụ bảo lãnh trên cơ sở số dư trên tài
khoản tiền gửi của pháp nhân…
- Đẩy mạnh thu hút vốn thông qua phát triển dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh các hình thức huy động truyền thống như nhận tiền gửi tiết kiệm, mở tài khoản cá nhân các
NHTM phải phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng như :
+ Dịch vụ thanh toán: Hiện nay NHTM có các hình thức thanh toán được sử dụng rộng rãi như séc, uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, hối phiếu, lệnh phiếu, thẻ thanh toán. Trong số này thanh toán bằng hình
thức uỷ nhiệm chi-chuyển tiền chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên, các phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt mới chỉ chủ yếu được thực hiện trong các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình và cá nhân chủ yếu vẫn thanh toán
bằng tiền mặt. Vấn đề hiện nay là các NHTM phải có các biện pháp trước hết phải cải tiến dịch vụ thanh toán để
người dân thấy sự tiện lợi của việc thanh toán không dùng tiền mặt, thay đổi thói quen dùng tiền mặt và thực
hiện các thanh toán giao dịch, chi tiêu qua tài khoản tiền gửi cá nhân. Đây là nguồn vốn có tiềm năng rất lớn mà
các Ngân hàng hiện vẫn chưa khai thác được.
18
18
19
+ Dịch vụ ngân hàng bán lẻ: Công nghệ này cùng một lúc cung ứng cho khách hàng một loạt các dịch
vụ như vay tiền, trả nợ, tính lãi, chuyển tiền, lĩnh tiền mặt, kiểm tra số dư…rút ngắn thời gian giao dịch cho
khách hàng lại đảm bảo chính xác an toàn và hiệu quả. Hiện ở Việt Nam mới có Ngân hàng Ngoại thương thực
hiện. Nếu các NHTM đồng loạt triển khai dịch vụ này chắc chắn sẽ hút được một lượng vốn rất lớn.
+ Dịch vụ thanh toán thẻ: Đây là dịch vụ phát triển với tốc độ nhanh nhất trên thế giới hiện nay. việc

đẩy mạnh phát hành thẻ giúp các Ngân hàng mở rộng đối tượng khách hàng với chi phí giao dịch thấp đồng thời
khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngoài ra, các NHTM còn nên phát triển các dịch vụ khác như bảo lãnh ,kinh doanh chứng khoán, mua
bán nợ và dịch vụ mua–bán nhà đất để tận dụng các nguồn vốn thanh toán, nguồn tiền gửi ký quỹ của các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân.
III.4.1.2. Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn trung và dài hạn
Tiếp tục phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi dài hạn và trái phiếu ngân hàng để thu hút vốn đồng thời
tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Đồng thời tận dụng các nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư.
III.4.1.3. Phát hành cổ phiếu
Một biện pháp để huy động nguồn vốn dài hạn của các NHTM mà ít có người đề cập đến hiện nay ở
Việt Nam là phát hành cổ phiếu. Hiện nay quy mô vốn tự có của các NHTM cổ phần ở Hà Nội rất thấp (trung
bình 9,7 triệu USD một Ngân hàng, trong khi đó nhiều Ngân hàng trong khu vực châu Á vốn tự có của họ phải
đạt tỷ thậm chí hàng chục tỷ USD). Vốn tự có thấp làm hạn chế năng lực tài chính của các Ngân hàng, thể hiện
rõ nhất qua các giới hạn bảo lãnh, cho vay (sau này khi Luật các TCTD được sửa đổi sẽ là thêm các giới hạn về
chiết khấu thương phiếu, các giấy tờ có giá và thuê mua tài chính).
Do nhiều lý do, hiện các NHTM cổ phần mới chỉ phát hành cổ phiếu riêng lẻ chưa phát hành rộng rãi
ra công chúng. Còn các NHTM nhà nước thì chưa được phép phát hành cổ phiếu (vấn đề hiện còn nhiều tranh
cãi). Để nâng cao năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam đồng thời tăng nguồn vốn dài hạn cho ngân hàng
chúng tôi nghĩ giải pháp khả thi và gần như chắc chắn các NHTM sẽ phải thực hiện là phát hành cổ phiếu rộng
rãi ra công chúng trên TCCK. Vấn đề là ở chỗ nếu có đủ điều kiện thì thì thực hiện sớm ngày nào có lợi cho các
Ngân hàng và nền kinh tế ngày đó.
III.4.1.4. Huy động vốn từ các tổ chức tài chính khác
Do chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của mình, một số tổ chức tài chính thường có những nguồn vốn
tạm thời chưa sử dụng đến trong một vài thời điểm rất lớn như vốn của Kho bạc nhà nhà nước, tiền gửi của các
công ty tài chính và quỹ tài chính. Các NHTM cũng nên tận dụng nguồn vốn này thông qua các tài khoản tiền
gửi.
III.4.1.5. Thu hút vốn từ các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và lân cận
Hà nội đang xây dựng và triển khai kế hoạch hợp tác phát triển với 7 tỉnh vùng Bắc Bộ và lân cận. Đã
có một số NHTM cổ phần đã mở chi nhánh tại một số tỉnh như Hà Bắc, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Tiềm năng về vốn ở các tỉnh này chắc chắn chưa được khai thác nhiều vì hệ thống ngân hàng và các định chế tài

chính ở các địa phương đó chưa phát triển. Vì vậy, với thế mạnh về năng lực tài chính, trình độ công nghệ các
NHTM Hà nội nên nhanh chóng mở thêm các chi nhánh tại các tỉnh để hút vốn từ đó về, giống như các NHTM
phía Nam đang thực hiện ở Hà nội hiện nay.
III.4.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay trung và dài hạn của các
NHTM
Như chúng tra đã biết quan hệ tín dụng có liên quan đến rất nhiều đối tượng.Việc khai thác các nguồn
vốn dài hạn là trách nhiệm chủ yếu của Ngân hàng, nhưng việc nâng cao hiêụ quả sử dụng vốn cho vay dài hạn
lại liên quan đến nhiều chủ thể. Do đó cần phải có giải pháp từ nhiều phía:
19
19
20
III.4.2.1. Những giải pháp về phía Ngân hàng:
- Có kế hoạch kinh doanh vốn trung và dài hạn với những mục tiêu và đối tượng khách hàng khác nhau:
Tập trung giành vốn dài hạn cho các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và các DN dân doanh có năng
lực tài chính lớn, có chiến lược lâu dài và kế hoạch mở rộng thị trường. Giành vốn trung hạn cho các DN vừa và
nhỏ có kế hoạch ngắn và trung hạn.
- Tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính nói chung và khả năng cho vay nói riêng của các
NHTM. Hiện nay, trung bình vốn tự có của một NHTMCP Hà Nội là 163.475 triệu đồng, như vậy với điều kiện
cho vay đối với một khách hàng không quá 15% vốn tự có thì một Ngân hàng chỉ cho vay một khách hàng tối đa
đến 24.521 triệu đồng, 05 NHTMCP Hà Nội hợp vốn chỉ cho vay 1 khách hàng được 122.606 triệu đồng (tương
đương 7,8 triệu USD). Đối với 05 NHTM nhà nước cũng vậy, theo tính toán nếu cả 5 Ngân hàng này hợp vốn lại
thì mức cho vay tối đa 1 khách hàng cũng chỉ là 1.500 tỷ đồng. Do đó các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để
thực hiện các dự án lớn khó lòng có thể vay đủ vốn từ các Ngân hàng.
- Cải tiến quy trình, thủ tục tín dụng: Tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận nhanh và dễ dàng hơn vốn
tín dụng bằng cách cải tiến cơ chế, thủ tục cho vay theo hướng hoàn thiện các thủ tục, quy trình nghiệp vụ theo
định hướng khách hàng, chuẩn hoá các quy trình cho vay, mẫu biểu theo tiêu chuẩn ISO-9001. Đơn giản hoá các
thủ tục và rút ngắn thời gian lập hồ sơ tín dụng.
- Nghiên cứu để đưa ra các phương thức cho vay mới khuyến khích các tổ chức kinh tế và hộ gia đình
tăng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn như: cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp, cho vay kinh doanh bất động sản
đồng thời với việc phát triển các nghiệp vụ tín dụng mới đa đạng đáp ứng nhu cầu của kinh tế thị trường như:

chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá…
- Chủ động tiếp cận tìm hiểu các nhu cầu cũng như khả năng của doanh nghiệp để tư vấn, mời chào
khách hàng vay vốn và sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng. Không thụ động chờ đợi khách hàng cung cấp các
thông tin mà phải chủ động tìm kiếm và thẩm định thông tin về khách hàng để đưa ra các quyết định đầu tư đúng
đắn, kịp thời, không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư. Giải pháp này muốn đạt hiệu quả phải được thực hiện đồng bộ với
việc nâng cao khả năng phân tích thẩm định dự án và tư vấn của đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng.
- Đối với các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay thì Ngân hàng tìm kiếm năng lực bảo lãnh giúp
doanh nghiệp hoặc phối hợp với các Quỹ, tổ chức tài chính, các hiệp hội nghề nghiệp để tài trợ vốn cho doanh
nghiệp.
-Tiến hành các khoản cho vay dài hạn có thế chấp bằng bất động sản (quyền sử dụng đất và các tài sản
gắn liền với đất). Với những bất động sản (có chứng minh quyền sử dụng và quyền sở hữu rõ ràng, hợp pháp)
ngân hàng có thể dễ dàng xử lý khi khách hàng không có khả năng thanh toán nợ.Bên cạnh việc cho vay để giao
dịch, đầu tư kinh doanh trên thị trường bất động sản thì các NHTM cũng nên có các biện pháp đẩy mạnh cho vay
các hộ gia đình và cá nhân mua nhà ở.
- Cho vay đồng tài trợ: Mặc dù nhận thức được lợi ích của cho vay hợp vốn nhưng do cơ sở pháp lý để
cho vay đồng tài trợ còn một số vấn đề vướng mắc nên việc cho vay đồng tài trợ giữa các TCTD ở Hà Nội chưa
phổ biến, chủ yếu mới diễn ra trong cùng hệ thống Ngân hàng. Trong điều kiện vốn có kỳ hạn của các Ngân
hàng không dồi dào, giới hạn cho vay thấp thì giải pháp cho vay đồng tài trợ là giải pháp vừa có thể đáp ứng
được nhu cầu vốn cho các dự án lớn mà lượng vốn dài hạn của mỗi tổ chức tham gia lại ở mức vừa, rủi ro được
phân tán cho nhiều bên tham gia. Để mở rộng đối tượng tham gia, trong thời gian tới nên đẩy mạnh cho vay
đồng tài trợ giữa các TCTD các hệ thống hoặc với các định chế tài chính khác như Quỹ phát triển nhà ở Hà nội
(sau này là Quỹ đầu tư phát triển TP Hà nội), Quỹ Hỗ trợ phát triển.
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệpcũng là hình thức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn dài hạn
của các NHTM. Việc các Ngân hàng tham gia vốn với các DN vừa giúp DN có thêm vốn hoạt động vừa mở rộng
khả năng của Ngân hàng tham gia trực tiếp vào quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
20
20
21
- Phát triển dịch vụ thuê mua tài chính. Thuê mua tài chính đang là một hoạt động khá phổ biến ở các
nước để cung cấp vốn dài hạn cho các dự án đầu tư phát triển. Dịch vụ này vừa giúp doanh nghiệp không đủ

điều kiện vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng vẫn có thể có phương tiện để đổi mới sản xuất, dây chuyền
công nghệ vừa giúp các hộ gia đình, cá nhân có thể mua sắm được các động sản, đồng thời nâng cao trách nhiệm
theo dõi, giám sát, đánh giá của Ngân hàng.
III.4.2.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp
- Tạo lập uy tín với Ngân hàng bằng cách tăng cường năng lực tài chính (vốn tự có, tài sản và bất động
sản, nguồn vốn hoạt động và kết quả kinh doanh) để vừa có đủ điều kiện vay vốn vừa có tín nhiệm để đễ dàng
vay vốn dài hạn của Ngân hàng. Bên cạnh đó có chiến lược phát triển và dự án, phương án sản xuất kinh doanh
có tính khả thi, hiệu quả để Ngân hàng có căn cứ xem xét quyết định tài trợ vốn dài hạn.
- Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến vay và sử dụng vốn để Ngân hàng có
thể xem xét chính xác các điều kiện vay vốn trên quan điểm hai bên cùng hợp tác và có lợi, bảo đảm an toàn vốn
và phát triển. Khi cần thiết các DN có thể tranh thủ sự tư vấn của các chuyên gia Ngân hàng để xây dựng các
dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
- Hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý về tài sản để có điều kiện thực hiện các giao dịch bảo đảm trong quan hệ tín
dụng với Ngân hàng.
- Tìm hiểu và cập nhật các chính sách tín dụng của Ngân hàng để tìm kiếm các điều kiện vay dài hạn
phù hợp với doanh nghiệp.Trong trường hợp không đủ điều kiện để vay vốn dài hạn thì có thể sử dụng dịch vụ
thuê mua tài chính của ngân hàng.
III.4.2.3. Giải pháp về phía Thành phố
- Xây dựng và phát triển Hà Nội thành trung tâm kinh tế, đầu tư và thương mại lớn, trung tâm tài chính
- tiền tệ quốc gia để làm cơ sở cho hoạt động tài chính nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng phát triển.
- Phát triển hệ thống tài chính bao gồm cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ một cách cân đối và toàn
diện để hỗ trợ nhau phát triển, tránh rủi ro. Trước mắt nhanh chóng đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà
Nội đi vào hoạt động để các chứng khoán dài hạn có điều kiện mua-bán. Xây dựng hệ thống đăng ký giao dịch
bảo đảm thống nhất toàn Thành phố, xây dựng hệ thống thông tin DN và ngân hàng trên mạng điện tử Thành
phố. Đưa tình hình vay, cho vay, nộp thuế, nợ nần quá hạn,.v.v.. của các DN và ngân hàng lên web-site của
Thành phố để tiện cho các hoạt động giám sát, thẩm định và phòng tránh lừa đảo trong hoạt động tín dụng.
- Xây dựng và thực hiện một số chương trình kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng của Thành phố.
- Đẩy nhanh hơn nữa tiến trình củng cố, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp nhà nước của
Thành phố, đặc biệt gắn chặt tiến trình này với TTCK.
- Thnh lập các Quỹ như Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ hỗ trợ đầu tư, Quỹ

xúc tiến thương mại, hỗ trợ về thuế…để các Quỹ này có thể đứng ra bảo đảm các khoản vay dài hạn cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM.
- Thành phố có các giải pháp để tăng cường năng lực công nghệ cho doanh nghiệp như đưa ra các chính
sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, hiện đại hoá quy trình sản xuất, kinh doanh, xây dựng các
hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế…
- Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư để mở ra các thị trường cho doanh nghiệp.
- Phát triển hạ tầng hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, nhất là mặt bằng sản xuất để khuyến khích các doanh
nghiệp phát triển lâu dài.
- Đẩy nhanh lộ trình cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và khách hàng rút
ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí để thực hiện các thủ tục vay vốn.
21
21
22
III.5. Những phương hướng và giải pháp huy động, sử dụng vốn qua thị trường tài chính.
Để các hoạt động huy động và sử dụng vốn trên thị trường tài chính phát
triển thuận lợi, lành mạnh như đã đề cập ở trên, việc xd và vận hành TTGDCK
Hà Nội có vai trò, vị thế đặc biệt quan trọng. Vì vậy, dưới đây chúng tôi xin tập
trung vào nội dung này.
III.5.1. Mô hình tổ chức hoạt động tại TTGDCK Hà Nội.
III.5.1.1. Chiến lược phát triển trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Hà Nội cũng sẽ được
tiến hành trên cơ sở những quan điểm chung về phát triển thị trường chứng
khoán ở Việt Nam. Thị trường sẽ được xây dựng từng bước, với quy mô từ nhỏ
đến lớn, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Xây
dựng thị trường phải đảm bảo việc hoạt động an toàn, hiệu quả, ổn định, thích
ứng linh hoạt với những thay đổi của môi trường và tôn trọng các quy luật thị
trường và đảm bảo sự thuận tiện cho các đối tượng tham gia thị trường để khai
thác tối đa mọi nguồn lực của nền kinh tế. Mặc dù đây là một thể chế thị trường
bậc cao, song tiến trình phát triển thị trường rất cần thiết đòi hỏi sự tăng cường
quản lý bằng pháp luật của Nhà nước; đảm bảo an toàn và tạo động lực phát

triển, hạn chế những khuyết điểm của thị trường.
Trên cơ sở nghiên cứu những bối cảnh tác động, thực trạng của thị trường trong
thời gian qua, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010" tại quyết định số
163/2003/QĐ-TTg, trong đó chiến lược phát triển TTGDCK Hà nội sẽ được
thực hiện theo hai giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1 (từ nay đến 2010): xây dựng Trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà nội thành thị trường giao dịch tập trung cho chứng khoán doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại. Đây là một chiến lược đúng đắn thể hiện sự quan tâm của
Chính phủ cũng như của ngành tới khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ và
doanh nghiệp tăng trưởng, và là một sự nhìn nhận về tầm quan trọng của khu
vực này, cũng như tính cấp thiết của việc hình thành một thị trường chứng khoán
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Giai đoạn 2 (từ 2010) chuyển TTGDCK Hà nội thành một thị trường
OTC. Việc hình thành một thị trường OTC sẽ đánh dẫu một bước tiến quan
trọng trong tiến trình phát triển của thị trường chứng khoán nước ta, hoàn thiện
thể chế thị trường tài chính.
22
22
23
III.5.1.2. Mô hình tổ chức của TTGDCK Hà nội
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, TTGDCK Hà Nội được tổ chức
theo mô hình hiện tại với cơ cấu 8 phòng, là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc
Uỷ ban chứng khoán, có vai trò và vị trí pháp lý tương tự như TTGDCK Tp.
HCM hiện nay. Tuy nhiên, đến giai đoạn 2010, song song với việc nâng cấp
TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch, TTGDCK Hà nội cũng
cần được tổ chức theo một mô hình sao cho có thể đảm nhận được vai trò tương
tự như Sở giao dịch. Do vậy, Trung tâm giao dịch Hà nội cần có một số thay đổi
về vị trí pháp lý và các chức năng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, TTGDCK Hà Nội là một cơ quan độc lập, chịu sự quản lý của

UBCKNN. Vị trí của Trung tâm cần được xác định theo hướng mang tính độc
lập cao hơn, nhằm đảm bảo chức năng quản lý thị trường hiệu quả và kịp thời.
Thứ hai, với việc nâng cao vị trí pháp lý, TTGDCK Hà Nội sẽ có chức
năng cấp đăng ký thành viên của thị trường, cấp phép niêm yết hoặc nhận đăng
ký giao dịch đối với các công ty muốn tham gia thị trường Hà nội. Theo thông lệ
quốc tế, đây là một trong số các chức năng chủ yếu của một cơ quan điều hành
thị trường chứng khoán, tạo ra tính tự chủ trong quá trình vận hành thị trường,
do vậy nâng cao hiệu quả hoạt động cho thị trường.
Thứ ba,TTGDCK Hà Nội có chức năng giám sát và điều tra bước đầu đối
với các nghi vấn về giao dịch không công bằng trên thị trường, điều tra tại chỗ
đối với các công ty thành viên. Các quyền hạn này sẽ làm tăng cường hiệu quả
và tính kịp thời của công tác giám sát và quản lý thị trường, điều này đặc biệt
quan trọng trong quá trình vận hành và quản lý thị trường.
Cơ cấu phòng ban về cơ bản giống như mô hình hiện nay, tuy nhiên cần
bổ sung thêm hai phòng là Phòng điều tra và Phòng trái phiếu. Những bổ sung
này nhằm củng cố cho hoạt động của Trung tâm theo hướng đã đề xuất. Phòng
điều tra có chức năng điều tra tại chỗ bước đầu và báo cáo lên Thanh tra của
UBCKNN để xử lý vi phạm. Phòng trái phiếu sẽ là đơn vị quản lý giao dịch trái
phiếu trên TTGDCK Hà nội.
Về cơ cấu sở hữu, đến năm 2010 TTGDCK Hà nội vẫn thuộc sở hữu Nhà
nước (theo mô hình đơn vị sự nghiệp cấp 3). Giai đoạn sau đó, tuỳ theo điều
kiện phát triển cụ thể của thị trường và khi các công ty chứng khoán đã lớn
mạnh về mặt tài chính, Trung tâm giao dịch OTC có thể chuyển đổi từng bước
23
23
24
sang mô hình sở hữu thành viên hoặc cổ phần với mô hình quản trị hai cấp là
Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc.
III.5.1.3.Tổ chức hoạt động tại TTGDCK Hà nội
* Chứng khoán giao dịch trên thị trường

Giai đoạn 1 (từ nay đến 2010).
Nghị định số 144 thay thế Nghị định 48 vừa được Chính phủ ban hành
quy định điều kiện niêm yết trên TTGDCK cụ thể như sau:
- Đối với cổ phiếu, điều kiện niêm yết bao gồm :
+ Công ty có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm xin niêm yết từ 5 tỷ
đồng trở lên;
+ Có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt động kinh doanh có lãi trong
2 năm liên tục gần nhất. (Đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và niêm
yết ngay trên thị trường chứng khoán thì yêu cầu hoạt động kinh doanh của 1
năm trước khi xin niêm yết phải có lãi).
+ Các cổ đông là thành viên HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát của
công ty phải cam kết nắm giữ ít nhất 50% số cổ phiếu của mình sở hữu trong
thời gian 3 năm kể từ ngày niêm yết.
+ Tối thiểu 20% vốn cổ phần của công ty do ít nhất 50 cổ đông ngoài tổ
chức phát hành nắm giữ. Đối với công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng
trở lên thì tỷ lệ này tối thiểu là 15% vốn cổ phần.
- Đối với trái phiếu, điều kiện niêm yết bao gồm:
+ Là công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp Nhà nước có vốn
điều lệ đã góp tại thời điểm xin niêm yết từ 10 tỷ đồng trở lên;
+ Có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt động kinh doanh có lãi trong
2 năm liên tục gần nhất.
+ Có ít nhất 50 người sở hữu trái phiếu.
(Riêng trái phiếu chính phủ được niêm yết theo đề nghị của tổ chức phát
hành).
Việc phân chia khu vực giao dịch tại TTGDCK Tp. HCM hoặc Hà Nội sẽ
do UBCKNN trình cơ quan có thẩm quyền quyết định. Tuy nhiên, hiện nay vấn
24
24
25
đề này chưa có quyết định cụ thể. Tương tự, khu vực niêm yết trái phiếu và

chứng chỉ quỹ đầu tư cũng chưa có quy định cụ thể.
Như vậy, với các điều kiện niêm yết nêu trên, theo chúng tôi, để tạo điều
kiện cho TTGDCK Hà Nội hoạt động hiệu quả trong giai đoạn đầu nên quy định
loại hình chứng khoán niêm yết trên thị trường Hà Nội sao cho thu hút được
một khối lượng đáng kể hàng hoá cho thị trường này. Vì vậy, chúng tôi đề xuất
TTGDCK Hà Nội được niêm yết tất cả các loại hình chứng khoán hiện có, bao
gồm cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Đối với cổ phiếu, nên phân
chia niêm yết các doanh nghiệp có vốn từ 5- 30 tỷ đồng tại Trung tâm Hà nội.
Đối với trái phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư thì nên cho phép tất cả các loại hình
chứng khoán này được tập trung niêm yết tại TTGDCK Hà Nội, một mặt, để tạo
nhiều hàng hoá cho thị trường, mặt khác vì mô hình giao dịch đề xuất là áp dụng
cả hình thức giao dịch thoả thuận, do vậy sẽ phù hợp cho việc giao dịch các loại
chứng khoán này, đặc biệt là các loại trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp.
Đồng thời, khi TTGDCK Hà Nội đã đi vào hoạt động ổn định thì có thể
nghiên cứu cho phép các loại chứng khoán dưới 5 tỷ đồng được giao dịch qua hệ
thống thoả thuận với các điều kiện đơn giản hơn chứng khoán niêm yết. Điều
này phù hợp với tình hình thực tế hiện nay là các doanh nghiệp có vốn nhỏ dưới
5 tỷ chưa được tham gia vào thị trường chứng khoán niêm yết do chưa đủ điều
kiện, việc giao dịch các loại chứng khoán này có tính rủi ro cao. Tuy nhiên, xét
về nhu cầu của doanh nghiệp cần được tham gia thị trường để huy động vốn và
nhu cầu đầu tư của những nhà đầu tư với khả năng chấp nhận rủi ro cao thì việc
tạo ra một sân chơi riêng cho các đối tượng này là cần thiết. Các điều kiện tham
gia thị trường này cần được đơn giản hoá so với thị trường niêm yết để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường, theo đó chỉ cần yêu cầu
doanh nghiệp nộp báo cáo kiểm toán năm gần nhất và bảo đảm tỷ lệ 20% vốn
của công ty do ít nhất 50 cổ đông nắm giữ . Song vì đây là thị trường rủi ro cao
nên nhà đầu tư tham gia thị trường này cần phải có năng lực đánh giá chứng
khoán tốt và chấp nhận mức rủi ro cao.
Giai đoạn hai (từ 2010).
Đến giai đoạn 2010, khi TTGDCK Hà Nội phát triển thành thị trường

OTC hoàn chỉnh thì ta có thể áp dụng nhiều hình thức giao dịch khác nhau cho
các loại chứng khoán khác nhau, trong đó, những chứng khoán có tính thanh
khoản cao thì có thể áp dụng cơ chế xét duyệt niêm yết và giao dịch ở hệ thống
25
25

×