Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Các giải pháp tài chính chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.64 KB, 26 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTCP: Công ty cổ phần
VKD: Vốn kinh doanh
VLĐ: Vốn lưu động
TSCĐ: Tài sản lưu động
TSCĐ: Tài sản cố định
KHCN: Khoa học công nghệ
EBIT: Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
XDCBDD: xây dựng cơ bản dở dang
Chi phí SXKDDD: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
1
LỜI MỞ ĐẦU
Khi đánh giá tổng quát bộ nền kinh tế nói chung, người ta thường nghĩ
ngay đến sự tăng trưởng và phát triển, trong đó nổi bật lên là giá cả, cung -
cầu và thị trường, cùng các nhân tố kinh tế khác. Nhưng để có cái nhìn sâu sắc
hơn, người ta thường chú ý đến phần “tế bào” quan trọng nhất của nó – các
doanh nghiệp. Điều đó thật dễ hiểu bởi các doanh nghiệp và người tiêu dùng,
đôi khi là một, đôi khi tách rời, là những chủ thể quan trọng nhất cấu thành
nên hệ thống kinh tế. Nhắc đến các doanh nghiệp, người ta nghĩ ngay đến
tiềm lực vốn và doanh thu. Đó cũng là hai chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá
“sức mạnh” của một doanh nghiệp. Trong khi vốn là yếu tố đầu vào không thể
thiếu thì doanh thu – kết quả đầu ra cho ta cái nhìn tổng quan về tình hình
hoạt động của một doanh nghiệp. Để có một kết quả tốt, buộc chúng ta phải
có sự đầu tư thích đáng. Và một điều kiện không thể thiếu là nguồn vốn kinh
doanh phải đáp ứng tốt nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, phải được sử dụng
đúng mục đích và cuối cùng được phân phối một cách hiệu quả.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển năng động, vai trò của
vốn càng trở nên quan trọng. Vốn là tiềm lực của doanh nghiệp, qua nó ta có
cái nhìn khái quát về quy mô hoạt động cũng như các khả năng tài chính khác
của doanh nghiệp. Để phát huy sức mạnh ấy, chúng ta cần có một chính sách


tối ưu về vốn, trong đó có vấn đề huy dộng và sử dụng vốn sao cho thật sự
mang lại hiệu quả cao. Trong khuôn khổ chương trình đào tạo chuyên sâu của
nhà trường, cùng những kiến thức thu thập được trong suốt quá trình thực tập
tại Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông, em đã quyết định lựa
chọn và hoàn thoành công trình nghiên cứu của mình làm đề tài cho chuyên
đề tốt nghiệp cuối khoá. Đề tài em chọn là: “Các giải pháp tài chính chủ yếu
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
2
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần xây
dựng và lắp đặt viễn thông”.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài
viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp
ý tận tình của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, tập thể cán bộ
công nhân viên Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông, đặc biệt là
chị Chu Thị Tuyết Lan – trưởng phòng kế toán của Công ty, đã tạo mọi điều
kiện cho em học hỏi trong suốt qua trình thực tập, cũng như hoàn thành bài
viết này. Đồng thời cho em gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, đặc
biệt là cô giáo – Thạc sỹ Vũ Thị Yến, đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em
trong suốt thời gian qua!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 03 năm 2009
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hương
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
3
CHƯƠNG 1
VỐN KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN KINH DOANH
1.1. TỔNG QUAN VỀ VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn kinh doanh
∗ Khái niệm
Trong nền kinh tế, người ta thường ví doanh nghiệp như là tế bào quan
trọng nhất. Đó là các thực thể sản xuất và cung cấp hàng háo, dịch vụ thoả
mãn nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cũng đều cần
phải có vốn. Phạm trù vốn kinh doanh (VKD) luôn gắn liền với khái niệm
doanh nghiệp. Theo điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, “Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh”.
Khi xuất phát từ các yếu tố sản xuất, trong tác phẩm “Tư bản” của Max
vốn được khái quát hoá thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị
thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa đó đã bao
hàm đầy đủ bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị cho dù nó
được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tài sản cố định (TSCĐ), tài
sản lưu động (TSLĐ)… và vai trò quan trọng nhất của vốn là đem lại giá trị
thặng dư thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh(SXKD). Tuy nhiên, do
trình độ phát triển kinh tế – xã hội lúc bấy giờ, khái niệm về vốn chỉ bó hẹp
trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có sản xuất vật chất mới tạo ra
giá trị thặng dư.
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
4
Sau Max, các trường phái kinh tế học hiện đại đã kế thừa, phát huy
những quan điểm của học thuyết Mac Lênin trong quá trình nghiên cứu về
vốn. Theo khái niệm trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg, vốn là phạm
trù bao gồm: vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự
trữ hàng hoá để sản xuất ra các hàng hoá khác. Vốn tài chính doanh nghiệp là
tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Ở đây tác giả đã đồng nhất vốn
với tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là

biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp trong quá trình SXKD.
Theo P.Samuelson: “Vốn là các hàng hoá sản xuất ra để phục vụ cho
quá trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh
nghiệp (máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu…)
Theo một tác giả trong nước, vốn của doanh nghiệp được hiểu là “tiền
đề để doanh nghiệp tiến hành bất kỳ hoạt động SXKD nào cũng cần phải có
vốn. Vì vậy, vốn được coi là số tiền ứng trước cho kinh doanh.
Tóm lại có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, tuy nhiên có thể hiểu
vốn một cách khái quát: VKD của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn
bộ tài sản mà doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
sinh lời.
∗ Đặc điểm vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VKD đòi hỏi doanh nghiệp phải nhận
thức đúng đắn các đặc trưng của vốn. Sau đây là những đặc trưng chủ yếu của
VKD:
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định. Nói cách khác, vốn
là biểu hiện bằng giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp. Tài sản trong
doanh nghiệp có thể là tài sản hữu hình, tài sản vô hình hay tài sản tài chính.
Tại một thời điểm, vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc trưng
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
5
này giúp doanh nghiệp có sự nhìn nhận toàn diện về các loại vốn, từ đó đề xuất
các biện pháp phát huy hiệu quả tổng hợp của VKD.
- Vốn phải vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng
tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để trở thành vốn thì tiền phải được vận
động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái
biểu hiện nhưng điểm khởi đầu và điểm kết thúc của một vòng tuần hoàn phải
là hình thái tiền tệ với giá trị lớn hơn, tức là kinh doanh có lãi. Điều này đòi
hỏi trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp không được để vốn bị ứ đọng.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian tức là, đồng vốn tại các thời điểm khác

nhau có giá trị không giống nhau. Sở dĩ vốn có giá trị thời gian là vì những lý
do sau:
 Thứ nhất: một đồng vốn hôm nay đưa vào SXKD, năm sau sẽ có
giá trị ngoài đồng vốn gốc còn có giá trị tăng thêm do chính nó tạo ra.
 Thứ hai: do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan như lạm
phát, tiến bộ khoa học kỹ thuật nên sức mua đồng tiền ở mỗi thời điểm khác
nhau là khác nhau.
Do đó, huy động và sử dụng vốn kịp thời là điều hết sức quan trọng. Sau
đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này thông qua quá trình luân
chuyển của vốn.
- Vốn được gắn với chủ sở hữu nhất định, điều này có nghĩa là không có
đồng vốn nào vô chủ. Chỉ khi vốn được gắn với chủ sở hữu thì đồng vốn mới
được sử dụng một cách có hiệu quả.
- Vốn được quan niệm là một loại hoàng hoá đặc biệt trong nền kinh tế
thị trường. Trên thị trường vốn, người cần vốn và người có vốn có thể trao đổi
quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và giá của việc sử dụng vốn
là khoản lãi phải trả. Với loại hàng hoá đặc biệt này việc trao đổi không làm
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
6
thay đổi quyền sở hữu vốn mà chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn. Việc mua bán
vốn thường tuân theo các quy luật của thị trường.
- Vốn phải tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy
tác dụng trong hoạt động kinh doanh. Đặc trưng này đòi hỏi doanh nghiệp cần
lập kế hoạch để huy động đủ lượng vốn cần thiết và trong quá trình kinh
doanh cần tái đầu tư lợi nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh.
 Quá trình luân chuyển của vốn kinh doanh
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp luôn luôn
vận động không ngừng. Đối với một doanh nghiệp sản xuất, quá trình luân
chuyển VKD được minh hoạ qua sơ đồ sau:

TLSX
T - H … SX … H’ - T’ (T’>T)
SLĐ
Quá trình vận động của vốn bắt đầu từ khi nhà sản xuất bỏ tiền để mua sắm
các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Lúc này, vốn tồn tại dưới hình thái vật chất là
các tư liệu lao động và đối tượng lao động. Sau quá trình sản xuất, vốn được kết
tinh trong thành phẩm. Khi thành phẩm được tiêu thụ thì vốn trở lại hình thái vốn
tiền tệ ban đầu nhưng với lượng tiền lớn hơn (nếu kinh doanh có lãi).
Tại sao nghiên cứu quá trình luân chuyển VKD lại quan trọng? Sở dĩ như
vậy bởi vì nó đưa ra những chỉ dẫn hữu ích cho công tác quản lý VKD. Sơ đồ
luân chuyển VKD đưa ra hai chỉ dẫn quan trọng sau:
- Thứ nhất, trong một khoảng thời gian nhất định, nếu vốn quay được
nhiều vòng hơn thì sẽ tạo ra được nhiều T’ hơn mà không cần tăng vốn. Khi
đó, lợi nhuận trong kỳ đó sẽ tăng lên. Đó là lý do tại sao các doanh nghiệp
luôn nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp để tăng vòng quay vốn và sử dụng các
chỉ tiêu vòng quay VKD như một chỉ dẫn quan trọng về hiệu quả sử dụng vốn.
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
7
- Thứ hai, nếu một giai đoạn nào đó trong quá trình luân chuyển bị gián
đoạn thì sẽ gây ra sự đình trệ hay rối loạn cho sự tuần hoàn VKD. Điều này
đòi hỏi doanh nghiệp cần dự trữ một lượng tiền mặt và hàng tồn kho nhất định
nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thông suốt.
1.1.2. Phân loại Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
1.2.2.1. Vốn cố định của doanh nghiệp
∗ Khái niệm vốn cố định
Để hình thành các TSCĐ đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một lượng
vốn tiền tệ nhất định; lượng vốn tiền tệ này được gọi là VCĐ của doanh
nghiệp. VCĐ là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên
TSCĐ mà có đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và
hoàn thành một vòng luân chuyển khi TSCĐ hết hạn sử dụng.

* Đặc điểm luân chuyển của vốn cố định
Quy mô của VCĐ sẽ quyết định đến quy mô TSCĐ. Song ngược lại,
những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại chi
phối đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. TSCĐ có đặc điểm là
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh; TSCĐ hữu hình giữ nguyên
hình thái hiện vật ban đầu; giá trị của nó dịch chuyển dần từng phần vào giá
trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Đặc điểm này của TSCĐ đã quyết
định đến đặc điểm luân chuyển của VCĐ:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Điều này do đặc
điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
quyết định.
- VCĐ dịch chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm dưới hình
thức khấu hao, tương ứng với phần hao mòn TSCĐ.
- Sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, VCĐ mới hoàn thành một vòng
luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
8
sản phẩm dần tăng lên, song phần giá trị còn lại giảm cho đến khi TSCĐ hết
hạn sử dụng, giá trị của nó được chuyển hết vào giá trị sản phẩm thì VCĐ mới
hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải
kết hợp giữa quản lý theo giá trị và quản lý hình thái hiện vật của nó là các
TSCĐ của doanh nghiệp.
∗ Nội dung quản lý vốn cố định
VCĐ là biểu hiện bằng tiền của TSCĐ. Do TSCĐ có nhiều loại khác
nhau, mỗi loại có những đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau nên cần phân
loại để có biện pháp quản lý phù hợp. Phân loại TSCĐ là việc phân chia
TSCĐ ra thành những nhóm, những loại khác nhau theo những tiêu thức phân
loại nhất định. Sau đây là những cách phân loại TSCĐ chủ yếu.
- Phân loại theo hình thái biểu hiện

Theo hình thái biểu hiện, TSCĐ được chia thành 2 loại chính:
+ TSCĐ hữu hình: Là các TSCĐ được biểu hiện dưới hình thái vật chất
cụ thể như: Nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật kiến trúc…
+ TSCĐ vô hình: Là các TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, chúng
thường là những khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh và phát huy tác
dụng cho nhiều chu kỳ kinh doanh như: Các khoản chi mua bằng phát minh
sáng chế, chi phí mua nhãn hiệu, bản quyền, quyền sử dụng đất…
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào
TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Từ đó lựa chọn quyết định đầu tư hoặc cơ
cấu đầu tư sao cho có hiệu quả nhất.
- Phân loại theo mục đích sử dụng
Theo mục đích sử dụng, TSCĐ được chia thành 3 loại:
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
9
+ TSCĐ dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh: Bao gồm các TSCĐ
không kể là hữu hình hoặc vô hình được sử dụng trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
+ TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp và an ninh quốc phòng.
+ TSCĐ bảo quản, cất giữ hộ.
Cách phân loại này cho thấy cơ cấu TSCĐ theo mục đích sử dụng, từ đó
xác định được trong điểm của công tác quản lý TSCĐ.
- Phân loại theo công dụng kinh tế
Theo công dụng kinh tế, TSCĐ được chia thành 6 nhóm sau:
+ Nhà cửa, vật kiến trúc: Bao gồm toàn bộ nhà cửa, kho tàng, bến bãi,
hàng rào, bể nước…
+ Máy móc, thiết bị: Bao gồm toàn bộ máy móc thiết bị dùng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh như máy động lực, máy công tác, máy chuyên dụng…
+ Phương tiện vận tải, truyền dẫn: Gồm các TSCĐ là phương tiện vận tải,
các thiết bị truyền dẫn như hệ thống cáp, dây điện, ống dẫn khí…
+ Thiết bị, dụng cụ quản lý: Bao gồm tất cả các thiết bị và dụng cụ dùng

trong hoạt động quản lý như máy tính, máy điện tử, máy đo lường kiểm tra
chất lượng sản phẩm…
+ Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm: Bao gồm các
TSCĐ là vườn cây công nghiệp, cây lâu năm như vườn cà phê, cao su, điều…
và các đàn gia súc cơ bản như các loại súc vật cầy kéo, các loại súc vật cho
sản phẩm…Loại này thường chỉ có đối với các doanh nghiệp nông nghiệp.
+ Các TSCĐ khác: Bao gồm các TSCĐ còn lại không thuộc năm nhóm
trên như tranh, tượng, tác phẩm nghệ thuật…
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong
doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho vệc quản lý sử dụng TSCĐ và tính
toán khấu hao chính xác.
SV: NguyÔn ThÞ H¬ng Líp K43/11.01
10

×