Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.93 MB, 45 trang )


M ỤC LỤC

Trang
Mỡ đầu.......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tà i.....................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ khoa học của đề t à i........................................................ 2
2.1. Mục đích................................................................................................................ 2
2.2. Nhiệm v ụ ............................................................................................................... 2
3. Cơ sứ lý luận và phương pháp nghiên cứu.......................................................... 2
3 .1. Cơ sở lý luận......................................................................................................... 2
3.2. Phương pháp nghiên c ứ u .................................................................................... 3
3.3. Kết cấu của đề t à i ................................................................................................ 3
Cliuưng I: Những vấn đề lý luận về tuyên truyền, giáo dục pháp lu ậ t......4
1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tuyên truyền, giáo dục pháp luật............. 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tuyên truyền, giáo dục pháp luật..................... 4
1.2. Vai trò của tuyên truyền, giáo dục pháp l u ậ t ................................................. 5
2. Mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức và phương pháp tuyên
truyền, giáo dục pháp lu ậ t..........................................................................................6
2.1. Mục đích, chủ thể, đối tượng của tuyên truyền, giáo dục pháp lu ật.................6
2.2. Nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật... 11
3. Quan điểm của Đảng về tuyên truyền, giáo dục pháp luật và yêu cầu khách
quan của việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong giai
đoạn hiện nav..............................................................................................................13
3.1. Quan điểm của Đảng về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật.............. 13
3.2. Yêu cầu khách quan của việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật hiện nay......................................................................................................15
Chương II: Thực trạng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
nhân dân trong giai đoạn hiện n a y .....................................................................17
1.


Những thành tựu về công tác tuyên Iruyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân

trong giai đoạn hiện n a y ...........................................................................................17

THƯ V I ỆN
TRƯỜNG OẠI HOC l ŨẢT h a


2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác Tuyên truyền, giáo dục pháp luật
trong giai đoạn hiên nay và nguyên nhân của n ó ....................................................23
2.1. Những tồn tại, hạn chế trong công táctuyên truyền, giáo dục pháp luật
trong giai đoạn hiên n a y .............................................................................................23
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu tr ê n ...................................... 25
Chương III: Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho nhân dân....................................................................... 27
1. Ọuan điểm về tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân. 27
2. Các giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
nhân dân trong giai đoạn hiện n ay .......................................................................28
2.1. Nhóm giải pháp c h u n g ....................................................................................... 28
2.2. Nhóm giải pháp cụ thể........................................................................................29
Kết Luận..................................................................................................................... 39


M Ở ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ: “phát huy dân chủ đi đôi
với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp
luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”.
Đế việc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật và khơng ngừng tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì việc quan trọng là hệ thống pháp luật phải
từng bước được xây dựng hoàn thiện và đi vào cuộc sống. Qúa trình đưa pháp
luật vào cuộc sống được bất đầu bằng hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp
luật. Bởi vì, thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào: tuân theo pháp luật, thi
hành pháp luật, sử dụng pháp luật hay áp dụng pháp luật thì trước hết phải hiểu
biết pháp luật. Nếu khơng nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện
tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thì dù cơng tác xây dựng pháp luật
có làm tốt đến mấy cũng khơng đạt được hiệu quả thực thi pháp luật.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cịn là một trong những mắt xích quan
trọng, có ý nghĩa đặc biệt của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi
vì: tuyên truyền, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tơn trọng, tn
thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm đấu tranh và phòng ngừa vi phạm pháp
luật, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với vị trí, vai trị quan trọng như vậy, cơng tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật phải được xác định là một trong những công tác trọng tâm của cả hệ
thống chính trị. Chúng ta đã coi trọng việc xây dựng pháp luật, đã đến lúc phải
đầu tư tương xứng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật mà trước hết là tuyên
truyền, giáo dục pháp luật. Đó là trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân mà trước hết là các cơ quan hành pháp và tư pháp
của Nhà nước ta.
Dựa trên yêu cầu thực tế của công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật


2
trong giai đoạn hiện nay, là sinh viên năm thứ 2 của trường đại học Luật Hà
Nội bước đầu được tiếp xúc với những tri thức về Nhà nước và pháp luật em
manh dạn lựa chọn đề tài: “Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong
giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp ” làm đề tài để tham gia cuộc
thi giải thưởng “sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2006” với mong muốn

góp phần trí tuệ nhỏ bé của mình nhằm đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo
dục pháp luật cho nhân dân nhằm đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật,
đồng thời trau dồi thêm kiến thức, nâng cao được năng lực của bản thân để sau
khi ra trường có một hành trang vững chắc góp sức mình vào cơng cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ KHOA HỌC CỦA ĐỀ

tài

2.1. Mục đích
Mục đích của đề tài là phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật một cách khách quan, khoa học, tồn diện.
Từ đó, đề xuất giải pháp đổi mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật nhằm đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.
2.2. Nhiệm vụ
- Xác định nội hàm khái niệm, vai trị, mục đích, chủ thể, đối tượng, nội
dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tính tất yếu
khách quan của việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Phân tích, đánh giá những thành tựu và những hạn chế trong công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội,
từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể cho cơng tác đó.

3. C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ú u
3.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Các quan điểm của
Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về đổi mới và phát huy vai trò của
Nhà nước pháp luật trong quản lý xã hội nói chung và tuyên truyền, giáo dục
pháp luật nói riêng.



3
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lê nin. Trong đó, chủ yếu vận dụng các phương pháp lấy lý luận áp
dụng vào thực tiễn và từ thực tiễn hồn thiện lý luận, phương pháp phân tích
tổng hợp...
3.3. Kết cấu của đề tài
- P hần m ở đầu.
- Chương 1: N h ữ n g vấn đề lý luận về tuyên truyền, giáo dục pháp luật
- C hương 2: Thực trạng vê công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
cho nhản dân
- C hương 3: Q uan điểm và giải pháp nhằm đẩy m ạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục p h á p luật cho nhân dán trong giai đoạn hiện nay
- P hần K ết luận
*

sH

*


CHƯƠNG I

NHỮNG VÂN ĐỂ LÝ LUẬN
VỂ TUYÊN TRUYỂN, g iá o d ụ c p h á p l u ậ t
1.
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA TUYÊN TRUYEN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tuyên truyền, giáo dục pháp luật

* Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc
ban hành pháp luật nhằm để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển theo
hướng phục vụ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Nhưng
mục đích điều chỉnh của pháp luật lại được thực hiện thông qua hành vi xử sự
cụ thể của con người và hoạt động cụ thể của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội trong đó việc tự giác chấp hành pháp luật của cơng dân là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng nhất để đảm bảo cho pháp luật phát huy hiệu lực.
. Điều kiện để cho công dân tự giác chấp hành đúng các quy định của
pháp luật chính là phải trang bị cho họ ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật càng
được nâng cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ xử sự theo yêu cầu của
pháp luật càng được bảo đảm. Vì vậy, muốn pháp luậl được thực hiện nghiêm
chinh đòi hỏi phải có những biện pháp để nâng cao kiến thức pháp luật trong
cán bộ và nhân dân. Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao kiến
thức pháp luật trong nhân dân đó là cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật.
J Hiểu đúng và vận dụng đầy đủ khái niệm về tuyên truyền, giáo dục
pháp luật là một yêu cầu khách quan, nó khơng những có ý nghĩa về mặt lý
luận mà cịn có giá trị thực tiễn sâu sắc trong giai đoạn hiện nay.
Nét đặc thù của tuyên truyền, giáo dục pháp luật khác tương đối so với
các dạng giáo dục khác ở những điểm sau:
M ột kì, tun truyền, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình.
Đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức
pháp luật cao, góp phần tăng cường hiệu quá phán luật.


Hai là, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác
động có tính định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức về Nhà
nước và pháp luật mà trong đó pháp luật của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan
trọng nhất, đồng thời nó có ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh, phòng ngừa vi
phạm pháp luật.

Ba là, xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức thì
cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật cũng có những phương pháp riêng.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật tác động một cách thường xuyên, liên tục,
lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo
dục. Vì thế, tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải trở Ihành một hoạt động
thường xuyên trong các gia đình, trường học, các tập thể lao động, các tổ chức
Đảng, Nhà nước và đoàn thể xã hội.
Từ nhũng phân tích trên, giới khoa học pháp lý đã đưa ra định nghĩa
như sau: tuyên truyền, giáo dục pháp luật lả hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ định của chủ th ể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm
mục đích hình thành ở họ trí thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với
các đòi hỏi của liệ thống pháp luật hiện hành.
1.2. Vai trò của tuyên truyền, giáo dục pháp luật
1.2.1.

Tuyên truyền, giáo dục pháp luật góp p hần nâng cao hiệu lực

và hiệu quả quản lý N hà nước, quản lý x ã hội
Vai trò quan trọng của tuyên truyền, giáo dục pháp luật chính là bắt
nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật - phương tiện hàng đầu để quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật giúp cho mọi
người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, là
tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy
dân chủ, mở rộng quyền tự do của mỗi người. Tuyên truyền, giáo dục pháp
luật còn tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý
nhà nước, tạo ra khả năng hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho
quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tạo ra khả năng phát hiện và kiên
quyết loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong
quá trình quản lý.



6
1.2.2.

Tuyên truyền, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức

pháp luật và văn hố pháp lý của cơng dán
\J Vai trị thứ hai khơng kém phần quan trọng này của công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật là xuất phát từ bản chất của nó. Tuyên truyền, giáo
dục pháp luật là quá trình tác động nhằm hình thành tri thức pháp lý, tình cảm
và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Vì vậy,
kết quả đạt được các mục đích do sự tác động định hướng là góp phần xây
dựng ý thức pháp luật và văn hố pháp lý của cơng dân.
2.
MỤC ĐÍCH, CHỦ THE, Đ ố i TƯƠNG, n ộ i
VÀ PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN, g i á o d ụ c p h á p

d u n g , h ìn h th ứ c
luật

2.1. Mục đích, chủ thể, đối tượng của tuyên truyền, giáo dục pháp luật
2.1.1. M ục đích
ư Mục đích của tuyên truyền, giáo dục pháp luật là nhằm phổ cập những
kiến thức cơ bẳn về pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, góp phần tăng cường trật tự, kỷ
cương, ngăn ngừa có hiệu quả sự vi phạm pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý
và văn hố pháp luật và điểm mấu chốt là đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc
sống. Để đạt được mục đích trên, q trình tun truyền, giáo dục pháp luật
phải thực hiện qua những khâu, những giai đoạn nhất định:
Thứ nhất: Trước hết đó là q trình đi đến nhận thức các tri thức, tiếp

đó là củng cố niềm tin, tình cảm đối với nhận thức đã có và cuối cùng là
những hành động đúng đắn của con người trong thực tiễn cuộc sống. Các
khâu, các giai đoạn có mối quan hệ thống nhất để đạt mục đích của giáo dục
nói chung, giáo dục pháp luật nói riêng. Để đạt được mục đích cuối cùng của
giáo dục pháp luật, quá trình của tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải đặt ra
mục tiêu cụ thể, mục đích cần đạt đến phản ánh con đường vận động quá trình
tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Trong điều kiện nước ta, khi mà đại bộ phận các tầng lớp dân cư đang ở
trong tình trạng ít hiểu biết về pháp luật, nếu khơng muốn nói là “mù pháp
luật” thì mục đích nói trên giữ vị trí hàng đầu trong việc nâng cao trình độ dân


7
trí và trình độ pháp lý cho mọi người dân.
Thứ hai: Mục đích hình thành lịng tin pháp luật hay cịn gọi là mục
đích cảm xúc. Sự hình thành lịng tin vào pháp luật có ý nghĩa hết sức quan
trọng, lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở hình thành động cơ của hành
vi hợp pháp. Sự hình thành lịng tin vào pháp luật của con người khơng đơn
giản chỉ bằng việc cung cấp càng nhiều tri thức pháp lý, càng không thể dùng
các biện pháp răn đe, cưỡng chế, tuyệt đối hố quyền lực, mà địi hỏi tuyên
truyền, giáo dục pháp luật phải tăng những nội dung, hình thức, phương pháp
linh hoạt, mềm dẻo để kích thích sự cảm thụ (lĩnh hội) các thông tin pháp lý,
các tri thức pháp lý của mỗi người dân và dần dần hình thành lịng tin vững
chắc của nhân dân vào pháp luật.
l Thứ ba: Mục đích làm hình thành hành vi tích cực của pháp luật. Đây là
mục đích có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì kết quả cuối cùng của tuyên
truyền, giáo dục pháp luật phải được thể hiện bằng hành vi xử sự theo pháp
luật của con người. Việc cung cấp tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin sâu sắc
vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện những mệnh lệnh của pháp
luật là những yếu tố rất quan trọng nhằm hình thành hành vi hợp pháp, xây

dựng các thói quen xử sự theo những đòi hỏi của pháp luật một cách vững
chắc. Con đường đúng đắn để đạt đến cái đích ấy chính là nhờ vào q trình
tun truyền, giáo dục pháp luật một cách chủ động, kiên trì, bằng nhiều biện
pháp và cách thức tác động hợp lý và hiệu quả.
V

Tóm lại: Tất cả các mục đích tuyên truyền, giáo dục pháp luật đều là sự

đòi hỏi khách quan bắt nguồn từ bản chất hoạt động của con người. Giữa các
mục đích đó có sự đan xen quan hệ qua lại thống nhất chặt chẽ với nhau, quy
định lẫn nhau. Vì vậy, khi tiến hành tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải
hướng mọi hoạt động giáo dục nhằm đặt ra mục đích trên. Tuy nhiên ở từng
hồn cảnh, giai đoạn và đối tượng cụ thể cần phải có sự cân nhắc, tính tốn
đến từng mục đích để có hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục
pháp luật cho phù hợp.
2.1.2. C hủ th ể
Chủ thể của tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung hết sức rộng


8
lớn, khơng chí là những thầy, cơ giáo mà cả những người làm cơng tác giáo
dục khác. Nói cách khác, chủ thể tuyên truyền, giáo dục pháp luật là người
hoạt động giáo dục pháp luật. Tính phong phú, đa dạng của chủ thể tuyên
truyền, giáo dục pháp luật được xác định khá rõ: đó là tất cả những người mà
theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia vào việc thực
hiện mục tiêu tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, chủ thể tuyên truyền, giáo dục pháp luật cịn là các cơng dân
bằng sự giáo dục, bằng ý thức trách nhiệm và sự gương mẫu thực hiện pháp
luật của mình có tác dụng ảnh hưởng giáo dục tích cực tới các cơng dân khác.
Việc xác định được vị trí, trách nhiệm và yêu cầu đối với từng chủ thể

có vai trị rất quan trọng, là căn cứ để xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đáp ứng với
yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay.
V/ 2.1.3. Đ ối tượng của tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Đối tượng của tuyên truyền, giáo dục pháp luật là những cá nhân,
những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp những
tác động của hoạt động tuyên truyền, giáo dục do các chủ thể tuyên truyền,
giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt được mục đích đề ra.
Hiện nay, các đối tượng của tuyên truyền, giáo dục pháp luật có nhu
cầu khá lớn về tri thức pháp luật. Đó là yêu cầu khách quan đặt ra trong quá
trinh đổi mới toàn diện nền kinh tế của đất nước. Đối tượng tuyên truyền, giáo
dục pháp luật khá đa dạng, phong phú. Do vậy trong triển khai thực hiện tuyên
truyền, giáo dục pháp luật phải vừa mang tính tổng thể, vừa ưu tiên tập trung
cho từng đối tượng cụ thể. Trên cơ sở đó, đối tượng tuyên truyền, giáo dục
pháp luật chủ yếu hiện nay ở nước ta gồm:
T hứ nhất: Công chức Nhà nước
Việc học tập, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cơ bản cho đối tượng này là
yêu cầu bắt buộc, thường xuyên và có hệ thống để họ có thể từng bước tiếp
cận một cách tương đối, kịp thời các vấn đề cơ bản của pháp luật và thực tiễn


9
pháp luật trong hoạt động quản lý, chuyên môn nghiệp vụ của mình theo đúng
yêu cầu, nhiệm vụ về chức danh, tiêu chuẩn công chức do Nhà nước ban hành
trong cải cách hành chính, cải cách tư pháp hiện nay.
Thứ hai: Thanh niên, học sinh và sinh viên
Đây là lực lượng đơng đảo, trẻ, là lực lượng lao động nịng cốt, chủ nhân
tương lai của đất nước. Do vậy, nội dung học tập bồi dưỡng về pháp luật cho đối
tượng này phải đảm bảo yêu cầu trang bị một số kiến thức cơ bản có hệ thống
pháp luật như quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nhất là trong lĩnh vực lao

động, học tập, nghiên cứu khoa học, kinh doanh, hơn nhân và gia đình, nghĩa vụ
qn sự... thể hiện trong Hiến pháp 1992 và các đạo luật quan trọng khác như:
Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình..., các pháp luật chuyên ngành
khác gắn với mục tiêu đào tạo tại các trường.
Hình thức học tập, bồi dưỡng pháp luật phải được lựa chọn phù hợp với
từng đối tượng (độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp). Với học sinh, sinh viên kết
hợp các giờ học về pháp luật theo chương trình chính khố ở từng cấp, bậc học
với các hoạt động pháp luật ngoại khoá. Đặc biệt chú ý hình thức đưa nội
dung pháp luật vào các buổi sinh hoại Đồn, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật, tham gia các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tham gia cơng tác hồ giải
ở xã, phường, thị trấn, sử dụng tốt các hoạt động tư vấn, dịch vụ pháp luật...
Thứ ba: Các nhà kinh tế, các chủ doanh nghiệp, người quản lý, cán bộ
cơng đồn ở các doanh nghiệp
Quan điểm của Đảng ta là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau
trong sản xuất và kinh doanh. Thực tế những năm qua, các thành phần kinh tế
đã góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng và ổn định nền kinh tế đất
nước. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều yếu kém
và sai phạm, cơ chế chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu,
nhưng một nguyên nhân hết sức cơ bản là việc hiểu biết pháp luật của một số
bộ phận không nhỏ các nhà kinh tế, các chủ doanh nghiệp, các cán bộ cơng
đồn cịn non kém trong cơ chế thị trường. Do vậy, ngoài việc học tập, bồi


10
dưỡng kiến thức pháp luật cơ bán thì cịn phải được học tập, bồi dưỡng có hệ
thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị mình:
các Luật Thuế, Luật Kinh tế, Luật Lao động, Luật Tài chính - Ngân hàng, chế
độ Thống kê, Kế toán ...
Thứ tư: Nhân dân các vùng, địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa và

đồng bào dân tộc
Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng cao dân trí pháp lý cho
đối tượng này là yêu cẩu và mục tiêu cấp bách, vừa có tính chiến lược của
Chính phủ và của tất cả các Bộ, Ngành từ Trung ương đến địa phương. Nội
dung pháp luật cần học tập, bồi dưỡng chủ yếu là Hiến pháp 1992, trong đó
tập trung giới thiệu, phổ biến, giáo dục các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, cùng các đảm bảo pháp lý được quy định trong hiến pháp (nhất là các
quyền về kinh tế, dân sự, văn hoá, quyền tự do dân chủ...), pháp luật về đất
đai, rừng và tài nguyên khoáng sản, giáo dục chống các tệ nạn xã hội như:
nghiện hút, cờ bạc, mại dâm, tảo hơn, mê tín dị đoan... Việc học tập, giáo dục
pháp luật đối với đối tượng này có đặc thù riêng, cần chú trọng đến hình thức
tuyên truyền miệng, các hình thức sinh hoạt tập thể mang tính truyền thống
theo cụm dân cư, làng bản và dòng họ. Đặc biệt chú trọng giáo dục pháp luật
thơng qua hoạt động hồ giải, qua vai trị của trưởng bản, già làng, các phong
tục, tập quán tiến bộ, phù hợp với pháp luật. Nhà nước cần quan tâm nhiều
hơn đến hình thức giáo dục pháp luật qua phương tiện thơng tin, cổ động, báo
chí tun truyền bao cấp toàn bộ hoặc một phần, in ấn phát hành rộng rãi
sách, báo về pháp luật bằng tiếng dân tộc.
Thứ năm: Đối tượng dã phạm tội hoặc bị xử lý về hành chính
Với loại đối tượng này cần được học tập, bồi dưỡng nội dung cơ bản của
Hiến pháp 1992, pháp luật về hình sự, kinh tế, lao động và một số nội dung
pháp luật cụ thể liên quan đến từng nhóm đối tượng. Việc học tập, bồi dưỡng
về pháp luật với đối tượng này là bắt buộc, với hình thức đa dạng ở các trại
giam, trường giáo dưỡng, ở các tổ dân cư, các lớp học tình thương, các trung
tâm cai nghiện ma tu ý ...


11
Ngồi ra, cần sử dụng tốt các hình thức tự giác hoặc vận động những
đối tượng này (số đã có thành tích tốt và đã qua học tập, cải tạo) tham gia vào

các hoạt động bảo vệ trật tự trị an ở nơi cư trú.
2.2.

Nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục

pháp luật
2.2.1. N ội dung của tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một thành tố quan trọng
của quá trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật, xác định đúng nội dung tuyên
truyền, giáo dục pháp luật sẽ bảo đảm được hiệu quả và tác dụng trong thực tế.
Những nội dung chủ yếu của tuyên truyền, giáo dục pháp luật trên cơ sở
lý luận và thực tiễn được xác định theo từng cấp độ khác nhau, theo từng
nhóm đối tượng và chủ thể giáo dục pháp luật, căn cứ vào nhu cẩu và đặc
điểm của đối tượng giáo dục nhưng tối thiểu việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật trước tiên là phải phổ cập cho mọi công dân. Đây là những kiến thức pháp
luật phổ thông, cơ bản, phù hợp với mọi đối tượng cơng dân, nhằm hình thành
ở họ những kiến thức pháp lý cơ bản để thông qua đó bảo vệ được các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, nghiêm chỉnh tn thủ pháp luật, tích cực tham
gia vào cơng tác đấu tranh và phịng ngừa vi phạm pháp luật.
Ngồi ra, cịn có nội dung tun truyền, giáo dục pháp luật mang tính cá
biệt, đó là tun truyền, giáo dục pháp luật cho trẻ em hư ở các trường giáo
dưỡng, các đối tượng tệ nạn xã hội... Đối tượng này, nội dung phổ biến, giáo dục
pháp luật vừa mang tính răn đe, vừa mang tính nhân đạo để họ tự giác giáo dục,
cái tạo, cám hoá họ trớ thành người lương thiện, hoà đồng với xã hội.
2.2.2. H ình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Các hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật rất đa dạng, phong phú
và ln được hồn thiện, phát triển trong q trình tổ chức thực hiện.Từ thực
tiễn nước ta cho thấy có các hình thúc chủ yếu sau:
-


Nhóm các hình thức có tính phổ biến, rộng rãi và có hiệu quả trong

thực tế ở các ngành, các cấp và cho mọi loại đối tượng xã hội, đó là tuyên


12
truyền miệng, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các
hội nghị tập huấn, thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, thơng qua các lễ
hội truyền thống, sinh hoạt văn hoá, các câu lạc bộ pháp lý, qua cơng tác hồ
giải ở cơ sở, thơng qua công tác trợ giúp pháp lý và thông qua trường học.
- Nhóm các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù, là những hình thức gắn
với chuyển tải nội dung có tính chun biệt, ngành nghề, thể hiện trong định
hướng giáo dục của các cơ quan nhà nước trong hoạt động lập pháp, hành pháp,
tư pháp của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, giáo dục pháp luật
thông qua các hoạt động của tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp.
Việc lựa chọn hình thức tuyên truyền, giáo dục là rất quan trọng trong
việc xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật để đạt
hiệu quả cao.
2.2.3. P hư ong pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Phương pháp tuyên truyền, giáo dục là tổng thể các hình thức, biện
pháp mà chủ thể’ sử dụng để tác động lên đối tượng giáo dục giúp họ lĩnh hội
nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Các phương pháp tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cũng rất đa dạng và phong phú, từ thực tiễn có thể phân ra
hai nhóm phương pháp khác nhau:
- Các phương pháp áp dụng trong một hoạt động giáo dục cụ thể như:
phương pháp giải thích, phương pháp thuyết phục, phương pháp trực quan,
phương pháp kiểm tra, đánh giá, phương pháp tạo tình huống cụ thể, phương
pháp nêu gương, phương pháp đối thoại, tranh luận, phương pháp kết hợp lý
luận và thực tiền.
- Các phương pháp tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật như: các

mơ hình về tun truyền, giáo dục pháp luật, các phương pháp phối hợp trong
lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai giáo dục pháp luật ở từng cấp, từng ngành, từng
địa phương theo chương trình, kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, theo từng chuyên
đề cụ thể hoặc tổng thể trong từng giai đoạn.
Vấn đề lựa chọn phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật có ý


13
nghĩa hết sức quan trọng trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật, là yếu tố
quyết định chất lượng, hiệu quả của giáo dục pháp luật.
3.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ TUYÊN TRUYỀN, g i á o
PHÁP LUẬT VÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC TẢNG CƯỜNG
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, g i á o d ụ c p h á p l u ậ t t r o n g g i a i
ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Quan điểm của Đảng về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Nhận thức rõ vị trí, vai trị và tẩm quan trọng của cơng tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật trong từng thời kỳ và giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã có
nhiều chủ trương quan trọng trong lĩnh vực này. Có thể hệ thống những quan
điểm đó như sau:
- Thứ nhất: Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà sáng lập Nhà nước và nền
pháp luật kiểu mới ở Việt Nam. v ề tuyên truyền, giáo dục pháp luật Người
khẳng định rõ quan điểm kết hợp điều chỉnh pháp luật và đạo đức trong quá
trình quản lý xã hội. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai dòng tư tưởng
“pháp trị” và “đức trị”, trong đó “đức trị” là nền tảng của cơng cụ “pháp trị”.
Coi trọng biện pháp phòng ngừa, răn đe, giáo dục là chính hơn là cưỡng chế,
trừng trị, Người nói: “Chúng ta cần phải giáo dục đạo đức công dán... Giáo
dục là chính, nhung đối với những kẻ ngoan cố khơng chịu sửa đổi thì phải
dùng pháp luật”. (Hồ Chí Minh toàn tập - tập 7- NXB CTQG Hà Nội năm
ỉ 995, trang 453).

- Thứ hai: Các Nghị quyết của Đảng qua các giai đoạn cách mạng đều
đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là từ Đại hội lần thứ
VI (12/1986) cho đến Đại hội lần thứ IX của Đảng đều xác định rõ vai trị
quan trọng của cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật và triển khai mạnh
mẽ công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhằm thiết lập
trật tự kỷ cương phép nước, xây dựng nếp sống “Sống và làm việc theo pháp
luật”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng đã xác định: “Coi trọng
công tác giáo dục, giải thích pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống
các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, các trường
đại học) của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ quán lý các cấp từ Trung ương

dục


14
đến cơ sở phỉa có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết pháp luật cần
sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân”. (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần VI - NXB Sự thật - Hà Nội năm 1987, trang 121).
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định rõ: “Phát huy
dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý
xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật”. (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX - NXB CTQG Hà Nội, trang 135).
Những quan điếm của Chú tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, nhất là các
quan điểm trong thời kỳ đổi mới đất nước là cơ sở chỉ đạo thực tiễn phổ biến,
giáo dục pháp luật, trước hết là chỉ đạo Nhà nước trong việc xác lập những cơ
sở pháp luật cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Đặc biệt ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ
thị số 32/CT-TƯ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tuyên

truyền, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật không chỉ dừng lại ở quan
điểm, chủ trương của Đảng mà đã cụ thể hoá trong Hiến pháp 1992; Luật tổ
chức chính phủ 2001; Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân
năm 2004; Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg và quyết định số 03/QĐ-TTg về tăng
cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn 1998-2002; Quyết
định số 13/2003/QĐ-TTg về chương trình phổ biến giáo dục pháp luật giai
đoạn 2003-2007; Quyết định 212/2004/QĐ-TTg về chương trình hành động
quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ 2005 đến 2010. Ngồi ra nó cịn
được cụ thể thành trách nhiệm pháp lý của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã
hội và của mọi công dân.


15
3.2.

Yêu cầu khách quan của việc tăng cường công tác tuyên

truyền, giáo dục pháp luật hiện nay
Ngay từ khi tiến hành đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương triển
khai công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, sau 20 năm đổi
mới, việc triển khai công tác này vẫn còn nhiều bất cập, cần được tiếp tục tăng
cường hơn nữa. Có thể kể đến một số lý do cụ thể sau:
Thứ nhất: Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng đòi hỏi trước hết Nhà nước phải thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Phổ cập kiến thức cơ bản về pháp luật cho các đối tượng, nâng

cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, góp phần tăng cường
trật tự, kỷ cương, ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật, nâng
cao dân trí pháp lý và văn hoá pháp luật.
Do vậy, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay là để nâng cao dân trí
pháp lý và văn hoá pháp lý cần phải phổ biến, giáo dục pháp luật có tổ chức
trong hệ thống Đảng, Nhà nước và tổ chức xã hội.
Thứ ba: Tuyên truyền, giáo dục pháp luật gắn với quá trình dânchủ ở
nước ta hiện nay. Xây dựng chế độ dân chủ là một trong những tư tưởng lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng, điểm xuyên suốt, nhất quán trong tư
tưởng lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thiết lập trên
thực tế ở nước ta một Nhà nước dân chủ. Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà nước ta ln có những chủ trương, giải pháp phù họp, nhằm mở
rộng, phát huy dân chủ trong bộ máy Nhà nước và hệ thống chính trị.
Điểm cốt lõi trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng
chế độ xã hội mà trong đó nhân dân là người chủ thực sự, tham gia và quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nhưng quyền
lực này phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật. Muốn phát huy dân


16
chú phái đảm báo thực hiện dân chủ tới cơ sở. Trung thành và vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ xã hội chú nghĩa. Ngày
18/12/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ
về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sỏ. Bộ Chính trị đã khẳng định dân chủ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng.


17
CHƯƠNG II


THỰC TRẠNG
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYEN, g iá o d ụ c p h á p l u ậ t
C H O N H Â N DÂN T R O N G G IA I Đ O Ạ N H IỆ N NAY

Cách đây gần 50 năm, khi nói về ý nghĩa của việc ban hành Luật hôn
nhân và gia đình năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói” Cơng bố đạo
luật này chưa phải là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục
lâu dài mới thực hiện được tốt”
Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có vai trị vơ cùng quan
trọng trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nó là trách nhiệm của các cấp,
các ngành, các địa phương và các tổ chức xã hội. Công tác tuyên truyền giáo
dục pháp luật phải được coi là nhiệm vụ chính trong cơng cuộc xây dựng đất
nước hiện nay.
1.
NHŨNG THÀNH TỤU VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN,
DỤC PHÁP LUẬT CHO NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật theo yêu cầu đổi mới hiện nay, trên cơ sở các đường lối chủ
trư ơ n g

của Đảng, Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội và pháp luật của Nhà

nước, các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ Trung ương đến cơ sở đã có sự quan
tâm đúng mức đối với cơng tác giáo dục pháp luật cho nhân dân.
Căn cứ kế hoạch về triển khai công tác giáo dục pháp luật từ năm 19982002 của Chính phủ được ban hành theo quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày
07 tháng 01 năm 1998 của Chính phủ và Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg cho
giai đoạn 2003-2007. Uỷ ban nhân dân các tỉnh đã có quyết định thành lập
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở các cấp Tỉnh và
Huyện với những quy chế tổ chức và hoạt động cụ thể, có sự phân công nhiệm
vụ cho các thành viên, quy định rõ phạm vi trách nhiêm phối hợp giữa các

thành viên trong việc tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục pháp luật.
Với sự hoạt động có kế hoạch, đồng tó ^ n ĩạ n g tỉh h vTỊnô của các cấp
Ị TRƯỜNG ĐAI HỌC LŨ.ÁTHÂ Nỏ!

I pụÒ N G 0r

c

g iá o


18
uỷ Đảng và chính quyền từ Trung ương đến tận cơ sở, sự phối hợp công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật giữa các ngành, các cấp đã tạo ra sự
đổi mới và nâng cao một bước về chất lượng và hiệu quả việc giáo dục pháp
luật, đã đa dạng hố cơng tác tun truyền pháp luật trong giai đoạn hiện
nay.Đó là một thuận lợi hết sức cơ bản.
1.1.

Về hoạt động chuyên môn của ban chỉ đạo công tác tuyên

truyền,giáo dục pháp luật và Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật
Thực tiễn cho thấy, 5 năm triển khai Chỉ thị 02/1998 và Quyết định
03/1998 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 1998-2002 và Quyết định số
13/2003/QĐ-TTg giai đoạn 2003-2007, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luât đã đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao. Trước đây trong hoạt động chuyên
môn chủ yếu phó mặc cho ngành Tư pháp, với một thời gian dài chúng ta ít
quan tâm dến cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật dẫn đến tình trạng
“mù pháp luật” phổ biến ở nhiều địa phương trong cả nước.

Theo chỉ đạo của Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật của Chính phủ và Bộ tư pháp với những kế hoạch,
chương trình hướng dẫn việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo từng nội
dung, chuyên đề cụ thể. Trên cơ sở đó, Hội đồng phối hợp công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật các tỉnh sẽ cụ thể hố chương trình, nội dung cho
phù hợp với tình hình của địa phương mình.
Hàng năm, Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật và Hội
đồng phối hợp công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đều cử các đoàn
kiểm tra chỉ đạo về tận các địa phương nhằm đánh giá đúng thực chất công tác
công tác tuvên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức tổng kết, đánh giá hoạt
động trong năm, đề ra chương trình, kế hoạch cho những năm tiếp theo. Nội
dung, chương trình, kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải gắn với
chương trình làm Luật của Quốc hội đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của
hệ thống pháp luật.


19
1.2. Về tổ chức và đội ngũ làm công tác giáo dục pháp luật
-

Về' tổ ch ứ c: Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân

dân, Nghị định 171/2004/NĐ-CP ngày 29/09/2004 của Chính phủ về việc sắp
xếp các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, trong đó Sở Tư pháp là cơ quan
chun mơn của Uỷ ban nhân dân, có chức năng giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh
thực hiện quản lý Nhà nước về công tác Tư pháp trên địa bàn tồn tỉnh, có
nhiệm vụ tham mưu giúp u ỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch và tổ chức
phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Căn cứ Nghị đinh 172/2004/NĐ-CP ngày 29/09/2004 của Chính phủ về sắp
xếp lại các Phịng, Ban chun mơn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, phịng tư

pháp các huyện đã được kiên toàn để tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp
huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác Tư pháp trên địa bàn
huyện, trong đó có hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Đối với cấp xã, các Ban Tư pháp được kiện tồn theo các khố Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Đội ngũ làm công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật thường xuyên được củng cố và nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ
đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội.
-V ề công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức
và những người trực tiếp thực thi pháp luật: Đây là đối tượng có tác động rất
lớn trong việc đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Họ phải
nắm vững các quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời cùng
hướng dẫn cho nhân dân hiểu và chấp hành pháp luật. Do đó, đối với cán bộ
cơng chức cần phải nắm vững lý luận cơ bản về Nhà nước pháp luật nói chung
và những kiến thức về pháp luật hành chính, kinh tế có hệ thống và cập nhật
các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc lĩnh vực công tác của cán bộ công chức được đảm nhiệm.
Nâng cao năng lực vận dụng, thi hành pháp luật trên cương vị công tác và
thực thi công vụ, xây dựng niềm tin pháp luật, ý thức nghiêm chỉnh tự giác thi
hành pháp luật, kiên quyết bảo vệ kỷ cương phép nước, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, hảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.


20
Trên cơ sở triển khai của Hội đồng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, các cấp, các ngành chủ động tập huấn chuyên sâu cho cán bộ công
chức thực thi công vụ phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao.
Cán bộ cơng chức hành chính và chính quyền các cấp được nghiên cứu
sâu pháp luật hành chính; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước;
các chế độ đối với cán bộ, công chức; các quyền nghĩa vụ cơ bản của công
dân; thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; quan hệ giữa cơ quan Nhà nước với

các tổ chức chính trị xã hội.
Cán bộ cơng chức thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật, được tập huấn
chuyên sâu pháp luật về tố tụng, về thanh tra, kiểm tra việc đảm bảo các
quyền tự do dân chủ của công d ân ...
-

Về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhà trường.

Việc đưa chương trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật vào các trường học là
biện pháp quan trọng, cơ bản và lâu dài để đưa pháp luật vào cuộc sống.
Thông qua việc học tập pháp luật trong nhà trường, các em, những chủ nhân
tương lai của đất nước ln có ý thức tn thủ pháp luật, để sau này khi trưởng
Ihành, dù ờ bấl cứ cương vị, lĩnh vực công tác nào, là người cán bộ hay người
công nhân, nông dân, những kiến thức pháp luật cơ bản được học trong nhà
trường sẽ giúp cho họ có những cách ứng xử trong cuộc sống phù hợp với
pháp luật. Xác định phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh là một giải pháp
mang tính hệ thống cơ bản, lâu dài.
-

1.3. V ề hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật
+ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lóp nhăn dân: Việc

tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị do đó phải vận dụng nhiều biện pháp, nhiều hình thức phong phú
thường xuyên, liên tục và nội dung phải phù hợp với tùng đối tượng.
Trước hết, đối với tất cả các đối tượng cần tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân như quyền tham gia quản lý nhà
nước, quyền giám sát hoạt động của các cơ quan và công chức nhà nước,
quyền bầu cử, ứng cử, quyền lao động, ... Nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, pháp



21
luật, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản công d ân...
Đối với thanh niên, phụ nữ cần tập trung giáo dục kiến thức pháp luật về
hơn nhân và gia đình, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, phòng chống tội phạm, phòng
chống tệ nạn xã hội, bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực, chăm sóc bảo vệ trẻ
em, trách nhiệm hành chính, biện pháp phịng ngừa vi phạm hành chính...
Đối với nơng dân cần tập trung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về đất đai,
thuế nông nghiệp, đăng ký hộ tịch, xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư...
Đối với đổng bào miền núi cần tập trung tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng, phòng chống ma tuý, bài trừ hủ tục lạc hậu...
Đối với người lao động trong các doanh nghiệp cần tập trung phổ biến
kiến thức pháp luật về Luật Lao động, hợp đồng lao động, trách nhiệm vật
chất khi vi phạm kỷ luật lao động, bảo hiểm xã hội, an tồn lao động, hoạt
động cơng đồn, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng lao động...
+ Giáo dục pháp luật thông qua phương tiện thơng tin đại chúng:
Báo chí, đài phát thanh truyền hình của Trung ưưng và địa phương là
cơng cụ hữu hiệu để đưa pháp luật và chuyển tải rộng rãi đến đông đảo cán bộ,
nhân dân, giúp họ hiểu biết pháp luật, tuyên truyền, phổ biến kịp thời nhũng
văn bản pháp luật mới ban hành, giải đáp, giải thích pháp luật hoặc tổ chức toạ
đàm theo chuyên đề để thông tin có định hướng những nội dung pháp luật có
quan hệ đến đời sống kinh tế xã hội nhằm xây dựng tác phong “Sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật” .
+ B iên soạn, p h á t hành các tài liệu giáo dục pháp luật:
Đây là một hình thức quan trọng trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục
pháp luật. Ngành Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các ngành để biên soạn đề
cương giới thiệu các văn bản pháp luật, các tờ gấp, các tài liệu hỏi đáp pháp
luật, bản tin tư pháp... bằng nhiều thể loại, phát hành rộng rãi nhằm đáp ứng
kịp thời và nhanh chóng những nội dung cơ bản của pháp luật, giúp cho nhân
dân nắm bắt kịp thời những nội dung thiết yếu phục vụ đời sống xã hội.

Đặc biệt, đế đáp ứng yêu cầu của đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa,


22
nhiều tài liệu đã được dịch ra tiếng dân tộc phát hành để giúp đồng bào tiếp
cận với pháp luật được dễ dàng.
+ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật:
Đây là phương pháp phát huy tính tích cực trong nhân dân trong việc
chủ động tìm hiểu pháp luật một cách sâu sắc. Thu hút đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia bằng các hình thức phong phú như: thi viết, thi sân khấu,
thi vấn đáp...
Các cuộc thi uH ộ tịch viên giỏi”, “H oà giải viên giỏi” được tổ chức từ
cấp cơ sở đến Trung ương không những đem lại hiểu biết cho người dự thi mà
còn truyền tải kiến thức pháp lý đến đông đảo nhân dân theo dõi cuộc thi.
+ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp
pháp lý:
Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ về mặt pháp luật cho các đối tượng chính
sách, đồng bào dân tộc miễn phí (như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa cho
bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng), đồng thời cũng nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho các đối tượng đó, đảm bảo cho mọi cơng dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực hiện công bằng xã hội.
Tổ chức những chuyên tuyên truyền lưu động về các vùng sâu, vùng xa,
vùng núi cao, thu hút đông đảo đồng bào tới nghe, các cộng tác viên trợ giúp
pháp lý trả lời nhiều câu hỏi, tháo gỡ nhiều vấn đề bức xúc trong nhân dân.
Thơng qua trợ giúp pháp lý, đã góp phần nâng cao nhận thức pháp luật
trong nhân dân, trên cơ sở đó người dân sẽ tự minh quyết định cách xử sự
trong cuộc sống phù hợp với các quy định của pháp luật, làm lành mạnh các
quan hệ xã hội, xây dựng cộng đồng dân cư hoà thuận, văn minh.
+ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hồ giải ở

cơ sở:
Hồ giải là sự phân tích, giải thích cho những người có tranh chấp hiểu
rõ những quy định của pháp luật về vấn đề đó và họ tự giác điều chỉnh để giải


×