Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.64 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO XUÂN TUÂN

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO XUÂN TUÂN

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số



: 8 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Thái Vĩnh Thắng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Cao Xuân Tuân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI
PHIÊN TỊA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

7


1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án
hình sự và các mối quan hệ

7

1.2. Nội dung, vai trò, các điều kiện đảm bảo hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử vụ án hình sự

16

1.3. Hoạt động tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự của một số nước
trên thế giới và những kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam

22

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội, dân tộc của tỉnh Điện Biên

32
32

2.2. Những kết quả đạt được và những hạn chế yếu kém trong hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự ở Điện Biên

33

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO HOẠT

ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN

50

3.1. Các quan điểm về bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
vụ án hình sự ở tỉnh Điện Biên

50

3.2. Những giải pháp bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử
vụ án hình sự ở tỉnh Điện Biên

57

KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS


: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
1.1


Bảng tóm lược hệ thống tố tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng
thẩm vấn

2.1

2.2

28

Bảng thống kê các VAHS có Luật sư tham gia bào chữa ở Điện
Biên từ năm 2013-2017

47

Thống kê số lượt người được trợ giúp pháp lý năm 2017

48


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những vừa qua, hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói
chung và hoạt động xét xử của ngành Tịa án nói riêng đã có những đóng góp quan
trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao hơn của xã hội đối với việc bảo vệ
công lý, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, hoạt động của các cơ quan tư

pháp đã và đang bộc lộ những bất cập. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cịn có
nhiều sai phạm, một mặt đã bỏ lọt tội phạm, mặt khác làm oan người vô tội mà hậu
quả là vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, không bảo vệ triệt để các
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
ngun nhân hoạt động xét xử của Tịa án chưa đề cao vai trò tranh tụng tại phiên
tòa. Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy kết quả xét xử các vụ án còn dựa
nhiều vào hồ sơ đã được chuẩn bị trước, việc tiến hành phiên tịa nhiều khi chỉ
mang tính hình thức, tính dân chủ, khách quan trong hoạt động tố tụng như một
đảm bảo quan trọng cho việc xét xử chính xác, đúng pháp luật, phù hợp với sự thật
khách quan của vụ án chưa được coi trọng đúng mức.
Để đẩy mạnh công tác tư pháp cho ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới,
ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp
trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ
trọng tâm của cơng tác tư pháp, trong đó có phần mở rộng tranh tụng tại phiên tòa.
Năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Nghị quyết đã nêu rõ:
"Đổi mới việc tổ chức phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo
tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" 1.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.


2
Thực tế hiện nay, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh
Điện Biên diễn biến khá phức tạp, một số loại tội phạm có xu hướng gia tăng, gây
bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và sự phát triển của tỉnh. Từ đó

địi hỏi cơng tác xét xử của Tịa án phải được đổi mới theo hướng nâng cao chất
lượng, nghiêm trị tội phạm, góp phần bảo vệ cơng lý, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an tồn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Muốn làm
được điều này thì các nội dung liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa như: Phạm vi,
nội dung tranh tụng, chức năng của các chủ thể tham gia {Hội đồng xét xử
(HĐXX), Kiểm sát viên, Luật sư...} trong tranh tụng, phương pháp kỹ năng tranh
tụng tại phiên tịa phải có sự nhận thức thống nhất, đồng bộ. Những người tiến hành
tố tụng phải được trang bị kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa. Thiếu sự thống nhất
trong nhận thức của thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư về các nguyên tắc tố tụng
tạo nên những khó khăn trong hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án hình
sự (VAHS) ở tỉnh Điện Biên.
Vì lý do đó mà việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến
tranh tụng tại phiên tòa; đánh giá thực trạng việc thực hiện tranh tụng tại phiên tịa
có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn ở tỉnh
Điện Biên, vì vậy tác giả đã chọn đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Điện Biên" để nghiên cứu
viết luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, tình hình nghiên cứu về tranh tụng đã được đề cập
trong một số các bài viết trên tạp chí pháp lý chuyên ngành và trong các luận văn
thạc sĩ luật học. Những luận văn, bài viết này tập trung nghiên cứu ở một số khía
cạnh, góc độ khác nhau như:
* Về đề tài khoa học và các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành
- Đề tài nghiên cứu khoa học "Tranh tụng tại phiên tòa - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", của Học viện Tư pháp, năm 2003.
- Bài viết "Bàn về một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh tụng
tại phiên tòa", của Nguyễn Mạnh Tiến, Tạp chí Tịa án nhân dân (TAND), số 17/2005.
- Bài viết "Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm", của Nguyễn
Đức Mai, Tạp chí Luật học, số 7/2008.



3
- Bài viết "Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình
sự với chức năng xét xử của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp", của Nguyễn
Thường Tín, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2008.
- Bài viết "Đặc điểm của mơ hình tố tụng tranh tụng và phương hướng
hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự ở Việt Nam", của Nguyễn Đức Mai, Tạp chí
TAND, số 12/2009.
- Bài viết "Vấn đề "Giới hạn của việc xét xử" trong luật tố tụng hình sự",
Tác giả: PGS.TS Phạm Hồng Hải, tháng 7/2011.
- Bài viết "Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân
dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán: Thực tiễn và những bất cập",
của Trần Kỳ, tháng 3/2011.
- Bài viết "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong
phiên tòa hình sự", của ThS. Nguyễn Kim Chi, tháng 04/2011.
- Bài viết "Một số vấn đề giới hạn của việc xét xử", của ThS. Đinh Văn
Quế, tháng 12/2011.
- Bài viết "Vai trò của chủ tọa phiên tòa trong việc điều khiển tranh tụng tại
phiên tịa sơ thẩm hình sự", của ThS. Đinh Văn Quế, tháng 12/2011.
- Bài viết: "Một số vấn đề cần chú ý khi xét xử vụ án hình sự", của ThS. Đinh
Văn Quế, tháng 12/2011.
* Về đề tài khoa học:
- Luận văn thạc sĩ luật học "Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay", của Nguyễn Tiến Long,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học "Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa", của
Mai Thị Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại

phiên tịa trong xét xử án hình sự", của Đỗ Anh Cường, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010.
Các cơng trình và bài viết trên đã đề cập đến nguyên tắc tranh tụng và vấn
đề tranh tụng trong tố tụng hình sự (TTHS), trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật


4
TTHS, tuy nhiên cho đến nay tỉnh Điện Biên vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu
tương đối đầy đủ và toàn diện về đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Điện Biên".
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích cơ sở lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử VAHS,
đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp bảo đảm hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử các VAHS ở tỉnh Điện Biên.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm, đặc điểm, nội dung hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa trong xét xử VAHS.
- Đánh giá được thực trạng việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng, dân chủ
trong quá trình tranh tụng tại các phiên tòa và chất lượng hoạt động xét xử của
TAND tỉnh Điện Biên hiện nay.
- Chỉ ra được những ưu điểm và khuyết điểm, hạn chế, bất cập trong việc
tranh tụng tại các phiên tịa hiện nay; tìm ra nguyên nhân những khuyết điểm, hạn
chế, bất cập đó.
- Đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng
trong xét xử VAHS ở tỉnh Điện Biên nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác
xét xử của Tịa án; Từ đó đưa ra các quyết định, bản án khách quan, đúng pháp luật.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng xét xử các loại án, có

nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án. Trong phạm
vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề
mà chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề tranh tụng tại phiên tòa xét xử VAHS.
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên
tòa xét xử VAHS dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về
tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế
định này. Từ đó đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt Nghị
quyết 08/NQ-TW, Nghị quyết 49/NQ-TW nâng cao chất lượng của hoạt động xét
xử của Tịa án nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung.


5
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm,
chủ trương, nguyên tắc của Đảng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh các tài liệu khoa học sơ cấp và thứ cấp;
phương pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại phiên tịa hình sự, phương pháp
phỏng vấn các chuyên gia pháp luật, các thẩm phán có uy tín.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Là cơng trình nghiên cứu dưới góc độ Luật hiến pháp, nghiên cứu, phân
tích về cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự ở tỉnh
Điện Biên luận văn có những điểm mới sau:
1. Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tòa trong xét
xử VAHS, nâng cao nhận thức về nội dung, bản chất, ý nghĩa của hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa xét xử VAHS trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người

và công dân.
2. Luận văn khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa,
đánh giá thực trạng áp dụng các quy định đó khi xét xử và chỉ ra những hạn chế tồn
tại trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử VAHS ở tỉnh Điện Biên cũng như
làm rõ nguyên nhân và điều kiện của những hạn chế đó.
3. Đề xuất các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, về cơ chế tổ chức, về đội
ngũ cán bộ… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
VAHS ở tỉnh Điện Biên hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ kiến thức của tác
giả để áp dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Góp phần hồn thiện lý luận về tranh tụng nhằm nâng cao hiệu quả tranh
tụng tại phiên tòa trong xét xử VAHS ở tỉnh Điện Biên.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập,
nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý.


6
Tịa án nhân dân các cấp có thể tham khảo kết quả nghiên cứu để đưa ra
một số giải pháp về hoạt động tranh tụng trong xét xử các VAHS trong tình hình mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án
hình sự.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án
hình sự ở tỉnh Điện Biên.
Chương 3: Quan điểm và các giải pháp nhằm đảm bảo hoạt động ranh tụng
tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Điện Biên.



7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TỊA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ
án hình sự và các mối quan hệ
1.1.1 Khái niệm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự
Tranh tụng diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tranh tụng trong tố
tụng dân sự, tranh tụng trong tố tụng hành chính, kinh doanh thương mại, lao
động… Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến tranh tụng trong TTHS.
Tố tụng là cụm từ gốc Hán (Có nguồn gốc từ tiếng Hán), theo Từ điển Việt Trung, chữ "Tố" (gồm chữ ngôn và chữ cân hợp thành, có nghĩa là lời nói trong
q trình tố tụng phải có sự suy nghĩ cẩn trọng, cân nhắc kỹ lưỡng, trung thực,
đúng bản chất và mọi hành vi khi hành xử đều phải tuân theo quy định của pháp
luật- tức thủ pháp). Chữ "tụng" (gồm chữ ngơn và chữ cơng hợp thành, có nghĩa là
lời nói trong tố tụng phải cơng tâm, minh bạch, cơng khai nơi cơng đường, với mục
đích bảo vệ chân lý, bảo vệ cái đúng, hoàn toàn phải tuân thủ và bảo vệ pháp luậttức phụng công).
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1998 do GS. Hồng Phê chủ biên thì "tranh
tụng" có nghĩa là kiện tụng. Trong tiếng Anh "Tranh tụng" là "Adversarial", có
nghĩa là đối kháng, đương đầu. Theo Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý
xuất bản năm 2006 "tranh tụng" có nghĩa là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi
các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau
trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm lợi ích của mình, phản
bác lại các quan điểm, lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tịa là những
hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng,
nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía
bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài2.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng cho
TTHS Anh -Mỹ, trong khi đó, hệ thống tư pháp nước ta lại được tổ chức và hoạt
động theo truyền thống luật Châu Âu lục địa, tức là hệ thống luật sử dụng mô hình

tố tụng xét hỏi; do đó, trước năm 2002 thuật ngữ " tranh tụng" chưa từng được sử
2. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tử điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 807-808.


8
dụng trong văn bản pháp luật nước ta. Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
1988 ra đời, vấn đề tranh tụng đã được đề cập đến trong các bài viết đăng trên các
tạp chí chuyên ngành. Đặc biệt, nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rằng:
các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình
tố tụng; Tham gia hỏi cung; nghiên cứu hồ sơ vụ án; tranh luận dân chủ tại phiên
tòa... nâng cao chất lượng cơng tố của Kiểm sát viên tại phiên tịa, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với luật sư, người bảo chữa và những người tham gia tố tụng khác…
Khi xét xử Tịa án phải đảm bảo cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; Việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo…3. Do đó, vấn đề tranh tụng càng được đưa ra bàn
luận sôi nổi và nghiên cứu chuyên sâu hơn.
Cho đến nay, tranh tụng trong TTHS khơng cịn là vấn đề mới. Song đây
vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi với nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Trong
đó, đa phần để làm sáng tỏ khái niệm này, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến
các vấn đề về mơ hình tố tụng tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, quá trình tranh
tụng… tức là giải thích tranh tụng dưới các góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khái qt có thể thấy rằng các nội dung này
không tách rời mà đan xen, liên hệ chặt chẽ với nhau. Với mơ hình tranh tụng với
sự tuân thủ và áp dụng nguyên tắc tranh tụng để góp phần làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án.
Quá trình tranh tụng trong TTHS bắt đầu khi xuất hiện sự buộc tội của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân cụ thể hoặc một số người xác

định (thể hiện bằng việc ra Quyết định khởi tố Bị can, Quyết định áp dụng biện
pháp ngăn chặn, bắt, tạm giữ). Kể từ thời điểm này ở phía người bị buộc tội (Bị can,
Người bị tạm giữ) xuất hiện sự bào chữa để chống lại sự buộc tội đó, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hay nói một cách khác, tranh tụng chỉ có thể
bắt đầu khi xuất hiện bên buộc tội và bên bào chữa với hai chức năng tương ứng là
chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Quá trình tranh tụng được xem là kết
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội, tr.9.


9
thúc khi có Bản án hay Quyết định của Tịa án về vụ án đã có hiệu lực pháp luật,
khơng bị kháng cáo, kháng nghị.
Sự tồn tại của tranh tụng trong TTHS là một thực tế khách quan. Bởi vì hoạt
động TTHS là hoạt động gắn kết chặt chẽ của ba chức năng: buộc tội, bào chữa và
xét xử. Các chức năng này tồn tại, vận động trong sự tồn tại và vận động của chức
năng kia. Bào chữa chỉ xuất hiện khi có sự buộc tội và bào chữa được thực hiện để
góp phần cho cơng tác xét xử đưa ra được một phán quyết khách quan, chính xác,
đúng pháp luật. Có buộc tội thì có xét xử và ngược lại chỉ xét xử khi có sự cáo
buộc. Trong TTHS nếu có buộc tội mà khơng có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ
mang tính áp đặt, một chiều, thiếu tính thuyết phục, thiếu tính dân chủ. Sự tồn tại
khách quan của tranh tụng đòi hỏi được thừa nhận trên thực tế và được ghi nhận
trong luật. Khi chính thức được ghi nhận thì tranh tụng sẽ là nguyên tắc cơ bản của
TTHS. Nguyên tắc này đòi hỏi sự bình đẳng giữa các chức năng buộc tội và gỡ tội.
Chức năng buộc tội còn gọi là "Chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự, là
một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi của người
đó, bảo đảm phán xử và hình phạt đối với người đó"4. Chức năng này khơng chỉ
thuộc về Viện kiểm sát mà trước hết nó cịn thuộc về cơ quan điều tra, người bị hại
(trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại) và Đại diện
hợp pháp cũng như Người bảo vệ quyền lợi của họ.

Về nội dung, chức năng buộc tội bao gồm tổng thể những hoạt động của các
chủ thể thuộc bên buộc tội. Đầu tiên là khởi tố Bị can, tiếp theo là hoạt động điều
tra, truy tố Bị can bằng bản Cáo trạng và cuối cùng là chứng minh Cáo trạng đó
đúng trước Tịa án. Có thể chia buộc tội thành hai phần là buộc tội về nội dung và
buộc tội về tố tụng. Buộc tội về nội dung (đối tượng chứng minh) là việc đưa ra
những cáo buộc đối với cá nhân cụ thể về tội phạm và hành vi của người bị buộc tội
có dấu hiệu của tội phạm đó. Buộc tội về tố tụng là tổng hợp các hành vi tố tụng cụ
thể nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh sự đúng đắn của
buộc tội về nội dung đã đưa ra đối với người bị buộc tội. Buộc tội về nội dung là cơ
sở định hướng cho buộc tội về tố tụng và ngược lại, buộc tội về tố tụng giúp cho
buộc tội về nội dung có đủ căn cứ pháp lý và thực tiễn.
Về tính chất, chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới các hình thức:
Tư tố (tức là do người Bị hại hoặc người đại diện hợp pháp tự truy tố Bị cáo), tư
4. Đinh Văn Quế (2004), "Về chế định Người bào chữa", Tạp chí Tịa án, số 3, tr. 22.


10
cơng tố và cơng tố (do cơ quan có thẩm quyền truy tố). Theo pháp luật Việt Nam,
chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới một trong ba hình thức nêu trên hoặc
ba hình thức đồng thời được thực hiện.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc chức năng buộc tội xuất hiện từ khi có cơ
quan có thẩm quyền ra Quyết định khởi tố Bị can (buộc tội chính thức). Có một số
trường hợp đặc biệt thì chức năng buộc tội xuất hiện sớm hơn khi cơ quan có thẩm
quyền ra Quyết định tạm giữ người bị tình nghi (buộc tội chính thức) thuộc trường
hợp bắt khẩn cấp, bắt quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã (Điều 58,59 BLTTHS
năm 2015). Khi kết thúc thủ tục tranh luận tại phiên tịa sơ thẩm thì chức năng buộc
tội kết thúc sớm hơn khi những căn cứ của việc buộc tội khơng cịn và dẫn đến hệ
quả là Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra hoặc Viện kiểm sát hay Tồ án đình chỉ vụ án.
Về vai trò, chức năng buộc tội là một trong những chức năng cơ bản của
TTHS là nhân tố làm phát sinh quá trình tranh tụng, đối trọng với chức năng bào

chữa và là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử. Khơng có buộc tội thì sẽ khơng có
hoạt động tố tụng và hoạt động tố tụng đó sẽ khơng có định hướng.
Khái quát hóa về chủ thể, phạm vi, cách thức thực hiện cũng như nội dung
của chức năng bào chữa THS. Lê Tiến Châu (2001) trong luận văn Thạc sĩ Luật học
"Các chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự", Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh đã cho rằng: "Chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tranh
tụng được pháp luật đảm bảo cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình
hoặc nhờ người khác đưa ra các chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự
buộc tội, làm giảm trách nhiệm cho mình mà cịn đưa ra những gì có lợi cho người
bị buộc tội trong q trình tố tụng".
Về nội dung, chức năng bào chữa là tất cả các hoạt độg của người bị buộc tội
và người bào chữa từ khi bị buộc tội đến khi có Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tịa án khơng bị kháng cáo, kháng nghị. Thơng qua các hành vi cụ thể, họ sử
dụng các quyền theo quy định của pháp luật để làm sáng tỏ những tình tiết khác có lợi
cho người bị buộc tội. Nội dung của chức năng bào chữa giới hạn trong phạm vi nội
dung của chức năng buộc tội và phụ thuộc vào nội dung của chức năng buộc tội.
Về tính chất, chức năng bào chữa chỉ được thực hiện dưới hình thức cá
nhân, nhân danh và bảo vệ lợi ích cá nhân người bị buộc tội.
Chức năng bào chữa xuất hiện từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố Bị can hoặc Quyết định tạm giữ. Chức năng bào chữa kết thúc khi thủ tục


11
tranh luận tại phiên tịa hình sự chấm dứt. Khi những căn cứ của việc buộc tội
khơng cịn thuộc các trường hợp Cơ quan điều tra đình chỉ hoặc Viện kiểm sát hay
Tịa án đình chỉ vụ án thì chức năng bào chữa sẽ kế thúc sớm hơn.
Về vai trò, chức năng bào chữa là một trong những chức năng cơ bản của
TTHS, có vai trị đối trọng với chức năng buộc tội. Chính sự đối trọng này đảm bảo
cho TTHS được dân chủ, khách quan. Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng
"Có buộc tội mà khơng có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều

và kết buộc chứ không phải là tranh tụng. TTHS không thể được thừa nhận là dân chủ
khi chức năng buộc tội khơng có đối trọng là chức năng bào chữa"5.
Vì các lẽ đó, tranh tụng TTHS có thể được hiểu như sau:
Tranh tụng trong TTHS là hoạt động do các chủ thể có chức năng đối trọng
nhau (buộc tội và bào chữa) thực hiện; Dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc
đưa ra, bảo vệ chứng cứ, lập luận của mình và phản bác chứng cứ, lập luận của đối
phương, nhằm góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án; Được bắt đầu
từ khi có Quyết định khởi tố Bị can và kết thúc khi bản án, Quyết định của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án
hình sự
Thứ nhất, tranh tụng tại phiên tịa được tiến hành với nhiều cách thức khác
nhau để khẳng định tính pháp lý của chứng cứ và nội dung của vụ án.
Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến
hành tố tụng chính, sự tập trung nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động khác như
điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố viên chỉ là những hoạt động mang tính
hành chính - tư pháp khơng được điều chỉnh bởi Luật TTHS. Chỉ có Tịa án mới là
chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật
TTHS. Vì vậy, mọi điều tra của luật sư và của cơ quan điều tra có thể được tiến
hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp thu thập chứng cứ khác
nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thơng qua sự xem xét đánh
giá của HĐXX thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án,
khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Tịa án.
Chính vì việc điều tra tại phiên tịa là chủ yếu, thơng qua việc xem xét đánh giá
5. Từ Văn Nhũ (2002), "Đối với thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự",
Tịa án nhân dân, số 11, tr. 7.


12
chứng cứ do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất

dài và triệu tập nhiều nhân chứng.
Thứ hai, tranh tụng tại phiên tịa hình thành hai bên với những lợi ích đối
kháng rõ rệt - bên buộc tội và bên bị buộc tội. Trong tranh tụng, Kiểm sát viên và
Luật sư hoàn tồn bình đẳng nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng
với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho cơng
việc của mình. Kiểm sát viên dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của
Nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn
bên bị buộc tội là bị cáo và những luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương
tiện được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn
và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tịa để làm rõ những vấn đề. Tất cả các
tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh
tụng tại phiên tòa.
Thứ ba, thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài. Phẩn tranh tụng chứng
cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng giữa Kiểm sát viên và
Bị cáo, Luật sư. Thẩm phán có vai trị chính trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án
tại phiên tịa, Thẩm phán có thể sẽ trực tiếp chất vấn nếu như lời khai của Bị cáo
còn có mâu thuẫn hay Bị cáo chối tội. Trong phần tranh tụng mỗi bên có quyền đặt
câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những người tham gia tố tụng khác.
Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà
bên kia vừa đưa ra nhưng Thẩm phán- chủ tọa phiên tịa có quyền chấp nhận hoặc
khơng chấp nhận các vấn đề mà các bên đưa ra tranh luận.
Thứ tư, tranh tụng có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân (trừ án phúc
thẩm) tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc Bị cáo có tội hay khơng có tội,
quyết định cả về lượng hình đối với Bị cáo, ở thủ tục tố tụng thẩm vấn Thẩm phán
Chủ tọa phiên tịa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm nhân dân.
1.1.3. Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự
Trong q trình giải quyết VAHS từ khi khởi tố vụ án cho đến khi Tịa án
tun án, có nhiều người tham gia vào quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
BLTTHS quy định những người này vào hai nhóm: Những người tiến hành tố tụng

và những người tham gia tố tụng.


13
Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng tại phiên tòa xét xử VAHS được hiểu là mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký, Luật sư và Những người tham gia tố tụng
khác. Đây là những mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở pháp luật tố tụng, chỉ phát
sinh khi Những người tiến hành tố tụng, Người tham gia tố tụng cùng tham gia vào
q trình giải quyết vụ án tại phiên tịa; Đây đồng thời cũng là mối quan hệ phối
hợp để đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật, nhằm giải quyết vụ án
đúng đắn.
Thứ nhất: những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
trong vụ án hình sự
Những người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự gồm có:
Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên;
Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng
trong cơ quan điều tra được quy định tại các Điều 34, 35 BLTTHS; Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên, Viện
kiểm sát được quy định tại các Điều 41 BLTTHS 2015; Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tịa án được quy định tại Điều 44
BLTTHS 2015; Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thư ký Tòa án được quy
định tại Điều 47 BLTTHS.
Những người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự gồm có:
Bị cáo là người đã bị Tịa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 61
BLTTHS 2015).
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây nên (Điều 62 BLTTHS 2015).
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây

ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 63 BLTTHS 2015).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 65 BLTTHS 2015).
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án trừ
những người là bào chữa cho Bị can, Bị cáo, Người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất mà khơng có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc
khơng có khả năng khai báo đúng đắn (Điều 66 BLTTHS 2015).


14
Người bào chữa có thể là Luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị
tạm giữ, Bị can, Bị cáo, bào chữa viên (Điều 72 BLTTHS năm 2015).
Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định
được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp luật (Điều 68
BLTTHS năm 2015).
Người phiên dịch: Do các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp
người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt (Điều 70 BLTTHS 2015).
Thứ hai: Mối quan hệ giữa những Người tiến hành tố tụng và những Người
tham gia tố tụng trong xét xử VAHS
Những người tiến hành tố tụng gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư
ký tòa án và Kiểm sát viên, theo quy định của pháp luật tố tụng thì họ có những
quyền năng nhất định. Vai trị của HĐXX đặc biệt là Thẩm phán- chủ tọa phiên tòa
giữ vị trí, vai trị chủ đạo trong q trình giải quyết vụ án. Thẩm phán - chủ tọa
phiên tòa vừa là Người tiến hành tố tụng, vừa là Người điều khiển tồn bộ hoạt
động tố tụng tại phiên tịa của Những người tiến hành tố tụng và Người tham gia tố
tụng khác.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là thành viên của HĐXX giữ vai trò quyết
định trong việc giải quyết VAHS từ khi khai mạc cho đến khi kết thúc phiên tòa,
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định của mình.
Thư ký phiên tịa giúp việc cho HĐXX trong q trình chuẩn bị mở phiên
tịa, ghi bút ký phiên tòa một cách trung thực. Bút ký phiên tòa phản ánh một cách

toàn diện, khách quan diễn biến phiên tòa. Bút ký phiên tòa còn là tài liệu hết sức
quan trọng để xem xét lại vụ án nếu có kháng cáo, kháng nghị hoặc án có khiếu
nại... Địi hỏi người cán bộ thư ký phải có trình độ, năng lực, phẩm chất, khách
quan, vô tư khi thực hiện nhiệm vụ.
Kiểm sát viên tại phiên tịa xét xử VAHS có trách nhiệm thực hành quyền
công tố, bảo đảm cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội. Ngồi việc cơng bố bản Cáo trạng, Kiểm sát viên
trình bày bản luận tội đề nghị kết tội Bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung
Cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, rút quyết định truy tố và đề nghị HĐXX
tuyên bố Bị cáo không phạm tội. Như vậy, nhiệm vụ rất quan trọng của Kiểm sát
viên tại phiên tòa xét xử VAHS là luận tội. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ
vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của Bị cáo,


15
Người bào chữa, Người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những Người tham gia tố
tụng khác tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng gồm Bị cáo, Người bị hại, Nguyên đơn dân
sự, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa, Người bảo
vệ quyền lợi của đương sự, Người làm chứng, Người giám định, Người phiên dịch.
Ngoài ra, trong từng vụ án cụ thể cịn có những người như: Người đại diện hợp
pháp cho Bị cáo (khi Bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất, tâm thần).
Đối với Bị cáo (hoặc người đại diện hợp pháp của Bị cáo) là người bị Viện
kiểm sát truy tố bằng bản Cáo trạng về một tội phạm theo quy định của Bộ luật
Hình sự (BLHS). Nhiều trường hợp Bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất, tâm thần thì pháp luật quy định phải có người đại diện hợp
pháp của Bị cáo. Người đại diện hợp pháp là người giúp đỡ Bị cáo thực hiện quyền
và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của BLTTHS. Người đại diện hợp pháp có thể
đồng thời là Người bào chữa cho Bị cáo nếu Bị cáo và người đại diện hợp pháp

không mời Người bào chữa hoặc không chấp nhận người bào chữa hoặc không chấp
nhận người bào chữa mà văn phòng Luật sư cử. Khi người đại diện hợp pháp của Bị
cáo là người bào chữa thì họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của Người bào chữa đồng
thời họ vẫn có quyền và nghĩa vụ với tư cách là người đại diện hợp pháp của Bị cáo;
Đại diện hợp pháp của Bị cáo nếu là cha, mẹ Bị cáo thì cịn có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại cho Bị cáo theo quy định của BLDS. Như vậy, Đại diện hợp pháp của Bị
cáo có thể tham gia tố tụng với nhiều tư cách khác nhau nhưng đều với một mục
đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị cáo là người chưa thành niên.
Người bị hại: Là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc về tài sản do
tội phạm gây ra. Đại diện hợp pháp của Người Bị hại là người mà quy định của
pháp luật hoặc theo ủy quyền họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người Bị hại hoặc chính bản thân họ. Đại diện hợp pháp của Bị hại bao
gồm người đại diện đương nhiên và đại diện theo ủy quyền.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc xét xử VAHS của Tòa án và được Tòa án chấp nhận
đưa họ vào tham gia với tư cách là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
VAHS. Họ có thể liên quan đến hành vi phạm tội của Bị cáo nhưng cũng có thể chỉ
liên quan đến vật chứng, đến tài sản, đến trách nhiệm dân sự trong VAHS.


16
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất do
tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Xuyên suốt trong một phiên tịa hình sự đó là q trình xét hỏi, tranh luận,
đề xuất ý kiến giữa một bên đại diện cho Nhà nước với một bên vi phạm pháp luật
trên cơ sơ tôn trọng các quy định của Nhà nước pháp quyền. Nói cách khác, đây
chính là mối quan hệ ràng buộc, chỉ phát sinh giữa những người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng trong phiên tịa hình sự.

1.2. Nội dung, vai trị, các điều kiện đảm bảo hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử vụ án hình sự
1.2.1. Nội dung hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự
Trong phiên tòa xét xử VAHS, nội dung của hoạt động tranh tụng chính là
việc thể hiện sự xung đột về lợi ích, tâm lý giữa các bên buộc tội, bên gỡ tội và bị
hạn chế về mặt không gian, thời gian do pháp luật tố tụng quy định. Nội dung tranh
tụng tại phiên tòa xét xử VAHS bao gồm:
Thứ nhất, đưa ra chứng cứ mới bằng cách yêu cầu triệu tập thêm Người
làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong
giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, nhiều
trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối
với VAHS, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; Cho
nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ
buộc tội, không chú trọng trong thu thập chứng cứ gỡ tội; Trong khi đó bên bào
chữa (Người bào chữa, Bị can, Bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng
cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại phiên tịa. Vì vậy cho nên pháp luật
tố tụng quy định các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người
làm chứng, quyền đưa ra các chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của Tòa án là
đảm bảo để các bên thực hiện quyền tố tụng này; Tránh trường hợp sợ phiền phức,
sợ phiên tòa đi chệch quỹ đạo chuẩn bị nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở
đầu phiên tòa.
Thứ hai, thực hiện việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi thực chất là cuộc điều
tra chính thức tại phiên tịa để xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy các
bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của Thẩm phán- chủ


17
tọa phiên tòa từ hỏi người khác, xem xét vật chứng, tài liệu. Việc xét hỏi này chỉ kết
thúc khi Tịa án thấy rằng thơng qua xét hỏi sự thật khách quan, đối tượng chứng
minh trong vụ án đã được xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan đến việc giải

quyết đã được làm rõ. Vì thế cho nên, thủ tục tố tụng quy định quyền thu thập
chứng cứ chỉ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, quy định gánh nặng xét hỏi cho Tòa
án, quy định chỉ cho phép một số ít các bên tham gia xét hỏi (đại diện Viện kiểm
sát, Luật sư) cần được xem xét lại từ góc độ tranh tụng.
Thứ ba, phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua việc điều tra chính
thức, cơng khai tại phiên tịa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh
giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố
tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải
công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp
cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của
các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tịa án khách quan hơn, tồn diện
hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết.
Thứ tư, phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do
nhiều lý do khác nhau như kỹ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ
ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật được nhận thức
rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nội dung của tranh tụng trong giai đoạn
tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật
để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết vụ án theo chức năng, nhiệm vụ
được giao. Ví dụ: Trong phiên tịa hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng
pháp luật hình sự để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ việc buộc tội; Người bào chữa đề nghị
áp dụng pháp luật hình sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Bị cáo v.v...
Thứ năm, đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích
liên quan. Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Vì vậy, nội dung không thể thiếu trong tranh tụng tại phiên tòa
xét xử VAHS là các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích đó. Tùy theo tư cách tố tụng của mình mà
phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý kiến của mỗi người tham gia tố tụng cũng có
khác nhau; Đại diện Viện kiểm sát bảo vệ Cáo trạng, người bào chữa, Bị cáo bảo vệ
quan điểm khơng có tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, Ngun đơn dân sự
địi hỏi việc bồi thường, Bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường…



18
Như vậy, tranh tụng tại phiên tịa là hình thức tố tụng mà trong đó Tịa án
thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra cơng khai tại phiên
tịa, nghe ý kiến của các bên tham gia tranh tụng để ra quyết định phán xét giải
quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
1.2.2. Vai trò của tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự
Trong tồn bộ q trình tố tụng, tranh tụng đóng vai trị trung tâm, thể hiện
đầy đủ bản chất của hệ thống tư pháp của mỗi Nhà nước, là giai đoạn quyết định
tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân.
Trong các vai trị cơ bản được đặt ra thì việc xác định sự thật khách quan
của vụ án được coi là một trong những điều kiện quyết định đảm bảo cho Tòa án ra
phán quyết đúng đắn. Xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, tranh tụng có vai trò
rất quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa xét
xử VAHS, tranh tụng thể hiện những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, tranh tụng tại phiên tịa góp phần quan trọng vào việc giải quyết
khách quan, toàn diện vụ án.
Thực tiễn cho thấy rằng tại các phiên tòa, do xuất phát từ các lợi ích khác
nhau, do tư cách tố tụng khác nhau, cho nên các kết quả đánh giá chứng cứ, nhận
thức về pháp luật cũng như các đề nghị cụ thể giải quyết vụ án về thực chất cũng rất
khác nhau.
Trên cơ sở các chứng cứ được thu thập, các phân tích, đánh giá nhiều chiều
về chứng cứ cũng như pháp luật áp dụng. HĐXX có đầy đủ điều kiện xem xét,
quyết định về vụ án một cách toàn diện, đầy đủ và khách quan. Yếu tố tranh tụng
không chỉ địi hỏi các bên tham gia tố tụng có địa vị pháp lý như nhau để có phiên
tịa thực sự có tranh tụng pháp luật tố tụng cần bảo đảm cho các bên khả năng thực
tế để thực hiện các quyền tố tụng mà pháp luật quy định một cách hiệu quả, khơng
hình thức. HĐXX phải xem xét tồn bộ, không được xem nhẹ chứng cứ nào đã

được thu thập và kiểm tra tại phiên tòa; Cân nhắc các quan điểm khác nhau về áp
dụng pháp luật, về đánh giá tính chất vụ án… để ra phán quyết đúng đắn, khách
quan, hợp pháp.
Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
Tranh tụng bảo đảm quan trọng để những người tham gia tố tụng thực hiện
đầy đủ các quyền tố tụng của mình. Đồng thời, thực hiện việc tranh tụng cũng có


19
nghĩa là các cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia tranh tụng phải thực hiện
nghĩa vụ tố tụng của mình để bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện các
quyền tương ứng. Chỉ trong phiên tịa có sự tranh tụng thì người tham gia tố tụng
mới có các điều kiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên
quan đến vụ án. Tại phiên tòa, những người tham gia tranh tụng khơng bị hạn chế
về thời gian để trình bày ý kiến của mình về vụ án, đề nghị Tịa án ra phán quyết cụ
thể liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Nếu khơng đồng ý với các ý
kiến tranh luận khác thì họ có quyền đối đáp. Trên cơ sở đánh giá chứng cứ và các ý
kiến tranh luận của các bên tham gia tố tụng, HĐXX có đủ điều kiện cân nhắc, xem
xé để ra quyết định đúng đắn, khách quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
Thứ ba, đảm bảo sự bình đẳng và tính hiệu quả của hoạt động tố tụng.
Thực hiện việc tranh tụng trong xét xử VAHS bảo đảm cho bên buộc tội và
bên bào chữa bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng. Các bên đều được
pháp luật dành cho những khả năng ngang nhau trong việc chứng minh trong tranh
luận về nội dung cũng như pháp luật áp dụng… để thực hiện việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Tranh tụng bảo đảm cho các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng thực
hiện một cách có hiệu quả nhất chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình. Nguyên tắc
tranh tụng địi hỏi phải có sự phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, chức năng
bào chữa và chức năng xét xử của bên buộc tội, bên bào chữa và Tịa án… Trong đó

chức năng xét xử khơng bao gồm cả việc buộc tội hay bào chữa; Tòa án là "Trọng
tài" điều khiển sự tranh luận giữa các bên và ra phán quyết theo chức năng độc lập
của mình.
Thứ tư, tranh tụng tại phiên tịa có vai trị giáo dục pháp luật.
Tranh tụng tại phiên tịa địi hỏi sự có mặt của những người tham gia tố
tụng. Việc xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng là rất hạn chế. Việc tranh
tụng trực tiếp, công khai tại phiên tịa khơng hạn chế về thời gian, nơi những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đánh giá các hành vi vi phạm pháp luật
về pháp lý cũng như xã hội, phân tích các quy định pháp luật cần được áp dụng...
giúp cho những người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa nâng cao
nhận thức về pháp luật, xác định định hướng giá trị trong hành vi, giúp cho việc
tuân thủ pháp luật.


×