Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.16 KB, 7 trang )

cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
II. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm và các đặc trưng
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là một hình thức
của đầu tư nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của nó là kết quả tất yếu của quá
trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn
nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước
ngoài được xem xét như một hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc
tế và kèm theo sự di chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các
ảnh hưởng kinh tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư.
Theo Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể
được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam
chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động
sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức di
chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều hành và
quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là
sự đầu tư của các cá nhân, tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài
và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “tư bản thừa” xuất hiện trong các nước
tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu
khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định
sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức
sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình
thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam gồm có 4 hình thức sau:
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để
cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không


thành lập một pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được đại diện có
thẩm quyền của các bên ký kết.
• Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên
cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên (bên nước ngoài và bên Việt
Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, các bên tham gia liên doanh
được chia lợi nhuận và chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào phần vốn
pháp định của liên doanh.
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở
hữu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Nó là một
pháp nhân mới của Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
• Đầu tư theo các hình thức BOT, BT, BTO : đây là các hình thức đầu tư đặc
biệt thường áp dụng cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Sự ra đời của các
phương thức này nhằm tạo thêm nguồn vốn, xúc tiến nhanh chóng việc ưu tiên
phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời san sẻ một phần gánh nặng đầu tư cho cơ sở hạ
tầng của ngân sách Nhà nước.
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết
giữa chủ đầu tư nước ngoài với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng cơ sở
hạ tầng tại Việt Nam, bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây dựng công trình và kinh
doanh trên công trình đó để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển
giao công trình cho Nhà nước Việt Nam mà không được thu thêm bất kỳ khoản tiền
nào khác.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết
giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam cho phép nhà
đầu tư quyền kinh doanh trên công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công

trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và thu được lợi nhuận hợp lý.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm chủ yếu sau :
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có
những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tùy
theo tỷ lệ góp vốn của mình.
- Thông qua hình thức này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý...là những mục tiêu mà các hình thức
đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình
thức vốn pháp định, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc
mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
3.3. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát
triển
Bản chất của FDI là các hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi
thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao ở phạm
vi toàn cầu. Do vậy, FDI là các hoạt động kinh tế và nó có ảnh hưởng như con dao hai
lưỡi đối với nước nhận đầu tư. Nếu Chính phủ nước chủ nhà mạnh thông qua các
chính sách thu hút FDI hợp lý thì khai thác được tốt mặt tích cực và hạn chế tối đa
ảnh hưởng xấu của nó. Ngược lại FDI sẽ là nhân tố gây trở ngại lớn cho những Chính
phủ không làm chủ được đường lối phát triển đất nước của mình.
Khi phân tích vai trò của FDI thì không những chỉ căn cứ vào mức độ tham gia
của nó vào nền kinh tế mà còn phải đánh giá khả năng tiếp nhận của nước chủ nhà.
Thật vậy, trong nhiều trường hợp mặc dù tỷ lệ FDI trong tổng vốn đầu tư cao nhưng
điều đó không có nghĩa là tác dụng của nó lớn đối với nước nhận đầu tư. Hiệu quả
hoạt động FDI còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế của nước
nhận đầu tư. Thông thường cứ 1 USD vốn đầu tư của nước ngoài cần phải có 3 - 4

USD vốn đối ứng, nếu đạt được tỷ lệ như vậy thì hoạt động của cả vốn đầu tư trong
nước và nước ngoài mới có hiệu quả. Vì thế FDI chỉ đóng vai trò tăng cường vốn đầu
tư trong nước mà không phải là yếu tố có tính chất quyết định sự phát triển kinh tế
xã hội của nước đang phát triển.
Tầm quan trọng lớn nhất của FDI không phải là bổ sung vốn đầu tư nội địa mà
là chuyển giao công nghệ, kiến thức kinh doanh, đào tạo tay nghề cho công nhân và
cơ hội tiếp cận vào thị trường thế giới của các nước đang phát triển.
Tuy nhiên mức độ tác động tích cực của các yếu tố này ở từng nước rất khác
nhau, nó phụ thuộc quan trọng vào chiến lược thu hút FDI của nước chủ nhà. Một
khía cạnh khác, ở nhiều nước, xét về lâu dài FDI không tạo ra sự phát triển bền vững
cho nước chủ nhà. Những hậu quả của nó như đã phân tích trên tác động còn lớn
hơn lợi ích mà các nước đang phát triển thu được nếu xét theo tiêu chuẩn của kinh tế
phát triển. Vì vậy khi đánh giá vai trò của FDI thì cần phải phân tích ảnh hưởng của
nó trên phạm vi kinh tế xã hội. Hơn nữa không có đánh giá chung về vai trò của FDI
mà cần phân tích ảnh hưởng của nó trong điều kiện cụ thể từng nước. Từ đó mới tìm
ra được điều kiện cần và đủ để sử dụng có hiệu quả FDI trong chiến lược phát triển
tổng thể của nước chủ nhà. Để đánh giá một cách đầy đủ về ảnh hưởng của FDI có
thể căn cứ vào các yếu tố cơ bản sau:
• Lưu chuyển ngoại tệ : mức độ góp vốn, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,
chuyển lợi nhuận về nước, thực hiện giá chuyển giao, thuế lợi nhuận.
• Cạnh tranh : mức độ làm phá sản các doanh nghiệp địa phương, thay thế vị trí
các cơ sở sản xuất then chốt nội địa.
• Chuyển giao công nghệ : Chi phí R & D của FDI ở nước chủ nhà, mức độ độc
quyền công nghệ và công nghệ phù hợp ở nước sở tại.
• Sản phẩm : Tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm ở trong - ngoài nước và giữa các tầng
lớp dân cư trong xã hội, sản phẩm phù hợp.
• Đào tạo cán bộ và công nhân : Số lượng, trình độ cán bộ và công nhân
được đào tạo, số lao động được tuyển dụng.
• Mối quan hệ với các doanh nghiệp và cơ sở địa phương : Mức độ thiết
lập các mối quan hệ với các cơ sở trong nước, liên kết kinh tế, chuyển đổi cơ cấu

kinh tế ở nước chủ nhà.
• Các vấn đề xã hội : Bất bình đẳng trong thu nhập, lối sống, tăng chênh lệch
giàu - nghèo trong xã hội.
Các yếu tố trên cần được phân tích tổng hợp cả về định tính và định lượng trong
mối tương quan với các yếu tố khác tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của
nước nhận đầu tư. Nếu chỉ phân tích về mặt định tính thì không chỉ ra được mức độ
ảnh hưởng của nó đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy
nhiên, phân tích định lượng là vấn đề khó đối với các nước đang phát triển, bởi vì
nguồn số liệu ít và thiếu chính xác. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng và phát triển không
chỉ do nguyên nhân của FDI mà còn được quyết định bởi nhiều yếu tố quan trọng
khác. Do vậy việc xây dựng các giả định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu để
phân tích ảnh hưởng của FDI đối với nước nhận đầu tư đóng vai trò rất quan trọng.
4. Quá trình vận động của luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển
Châu á những năm gần đây
Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới tăng
nhanh và có sự thay đổi lớn về cơ cấu vốn giữa các khu vực và các quốc gia. Trong
phần này ta sẽ tập trung xem xét thực trạng và xu hướng vận động của FDI ở các
nước đang phát triển khu vực Châu Á trong đó có Việt Nam.
Trái ngược với nhiều dự báo, năm 1999, FDI vào Đông và Đông Nam Á tăng
11%, đạt 93 tỷ USD, chủ yếu là các nước mới công nghiệp hóa (Hồng Kông - Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan), luồng FDI vào những nước này tăng gần
70%. Tại Hàn Quốc, luồng vào FDI đã tăng kỷ lục, đạt 10 tỷ USD. Luồng FDI vào
Singapore và Đài Loan đã tăng nhanh trở lại sau khi giảm mạnh vào năm 1998.
Luồng FDI vào Hồng Kông - nước tiếp nhận FDI lớn thứ hai trong khu vực hiện nay -
tăng hơn 50%, đạt 23 tỷ USD, do năm 1998 các nhà đầu tư Hồng Kông đã dấy lên
làn sóng đầu tư trở lại và một lượng lớn lợi nhuận đã được tái đầu tư nhờ có sự
thay đổi toàn diện hoạt động kinh tế tại đây. Trái lại, luồng FDI vào 3 trong số 5
nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua
(Inđônêxia, Thái Lan và Philippin) lại giảm. Năm 1999, FDI vào Trung Quốc - nước
có lượng FDI trong 4 năm liền đều đạt khoảng 45 tỷ USD - giảm gần 8%, chỉ đạt hơn

40 tỷ USD. Những nước có thu nhập thấp tại khu vực Đông Nam Á mà lâu nay vẫn
phụ thuộc vào nguồn FDI của các nước khác trong khu vực tiếp tục lâm vào tình
trạng khó khăn, do hoạt động đầu tư tại Châu Á bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng
tài chính.
Sự phục hồi luồng FDI vào khu vực này là do những nỗ lực mạnh mẽ trong việc
thu hút FDI, bao gồm tự do hóa hơn nữa ở cấp ngành, cởi mở hơn đối với các hoạt
động sáp nhập và thôn tính xuyên quốc gia. Năm 1999, tại 5 nước (Inđônêxia,
Malaixia, Philippin, Hàn Quốc và Thái Lan) chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc

×