Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tìm hiểu bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.82 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Dmitri Ivanovich Mendeleev (1834-1907) - cha đẻ của Bảng tuần
hoàn các nguyên tố hóa học, sinh tại thành phố Tobolsk (Siberia),
là nhà hóa học, nhà hoạt động xã hội, nhà sư phạm nổi tiếng nước
Nga. Cống hiến vĩ đại nhất của ông là nghiên cứu ra Bảng hệ
thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học (còn gọi là Bảng tuần hoàn
Mendeleev). Đây là một cống hiến xuyên thời đại đối với lĩnh vực
hóa học, là chìa khóa dẫn đến sự phát minh nhiều nguyên tố hóa
học mới, là kim chỉ nam cho những nghiên cứu trong hóa học nói chung. Người sau mệnh
danh ông là “thần cửa của khoa học Nga”.
Lý luận về quy luật tuần hoàn các nguyên tố của ông không chỉ có thể dự kiến vị trí cho
các nguyên tố chưa tìm ra mà còn có thế biết trước được tính chất quan trọng của chúng.
Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev đã trở thành bộ sách giáo khoa kinh
điển được thế giới công nhận. Một nhà khoa học đã viết về ông: “Trong lịch sử hóa học, ông
dùng một chủ đề đơn giản mà gọi ra được cả thế giới”.
Định luật tuần hoàn và hệ thống tuần hoàn là cống hiến quan trọng nhất của
D.I.Mendeleev trong sự phát triển khoa học tự nhiên. Nhưng đó chỉ là một phần trong di sản
sáng tạo to lớn của nhà bác học. Toàn bộ sáng tác của ông gồm tới 25 tập sách. Đây là một
bộ bách khoa toàn thư thực thụ.
Theo dòng phát triển của khoa học và với các kiểm định nghiêm túc trên cơ sở những
phát hiện vĩ đại về nguyên tố phóng xạ và điện tử, các nhà khoa học đã từng bước vạch ra
bản chất của định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học. Họ dựa vào những nội dung hợp lý
trong định luật tuần hoàn Mendeleev để đưa ra định luật tuần hoàn mới, khoa học hơn so với
lý luận của ông. Từ đó giải quyết được vấn đề mà Mendeleev còn bỏ ngỏ. Tuy vậy, chắc
chắn một điều rằng không ai có thể phủ nhận bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của
Mendeleev là phát hiện có tính cách mạng trong lĩnh vực hoá học.
1
NỘI DUNG
1. Vài nét về quá trình xây dựng Định luật tuần hoàn và Hệ thống tuần hoàn:
Đến giữa thế kỷ XIX thế giới đã tích lũy được nhiều kiến thức và tài liệu thực nghiệm về
các nguyên tố hóa học, trong đó có lẫn lộn cả đúng cả sai. Đến lúc bấy giờ đã có hơn 60


nguyên tố được tìm ra, nhiều hợp chất hóa học khác nhau đã được nghiên cứu, nhiều tính
chất đặc trưng của nguyên tố, hợp chất đã được thiết lập…
Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghiệp lúc bấy giờ đòi hỏi phải
tiếp tục nghiên cứu về các nguyên tố và hợp chất của chúng một cách mạnh mẽ và có hệ
thống. Điều này đã đặt ra cho các nhà hóa học vấn đề hệ thống hóa các nguyên tố nhằm tìm
ra các quy luật chung nói lên mối liên hệ giữa chúng với nhau.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đề ra những cách phân loại nguyên tố hoặc tìm ra một số
quy luật biến đổi tính chất của chúng. Chẳng hạn như Berzelins phân chia các nguyên tố
thành kim loại, á kim; Dobreiner sắp xếp nguyên tố thành từng “bộ ba” giống nhau, định
luật "bát độ" của Newland, sự biến đổi tuần hoàn thể tích nguyên tử theo khối lượng nguyên
tử của Mayer... Tuy vậy các nhà bác học đó vẫn chưa khám phá được thực chất của Định
luật tuần hoàn.
Trong quá trình nghiên cứu và sắp xếp các nguyên tố, nhà hóa học Nga Medeleev đã
phân tích một cách sâu sắc mối quan hệ giữa khối lượng nguyên tử với những tính chất lý,
hóa học, đặc biệt là hóa trị của chúng. Ông nhận thấy có sự biến đổi tuần hoàn những tính
chất đó theo chiều tăng của khối lượng nguyên tử.
Năm 1869, Mendeleev công bố định luật tuần hoàn và thể hiện định luật đó dưới dạng
một bảng: Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học hay gọi là Hệ thống tuần hoàn.
Hệ thống tuần hoàn không chỉ là sự sắp xếp giản đơn các nguyên tố theo tính chất hóa
học và một số tính chất vật lý của chúng, mà nó thể hiện một trong những định luật cơ bản
của tự nhiên. Vì vậy vừa mới ra đời xong nó đã tỏ ra là một công cụ sắc bén trong việc
nghiên cứu hóa học và một số ngành khoa học khác. Dựa vào bảng tuần hoàn, Mendeleev đã
sửa lại khối lượng nguyên tử của khoảng 1/3 số nguyên tố đã biết lúc bấy giờ, đã tiên đoán
sự tồn tại của 11 nguyên tố lúc bấy giờ còn chưa biết, trong số đó ông dự đoán đầy đủ tính
chất của 3 nguyên tố, ít lâu sau người ta tìm ra ba nguyên tố đó là Sc, Ga, Ge với những tính
chất phù hợp một cách kỳ lạ với dự đoán của Mendeleev.
Định luật tuần hoàn được mọi người thừa nhận.
2
2. Định luật tuần hoàn:
2.1. Định luật tuần hoàn của Mendeleev (giai đoạn hóa học):

Định luật tuần hoàn được Mendeleev phát biểu như sau: “Tính chất của các nguyên tố
cũng như tính chất của các đơn chất và hợp chất cấu tạo nên từ nguyên tố đó, phụ thuộc
tuần hoàn vào khối lượng nguyên tử của chúng”.
Thực chất của định luật là: Nếu sắp xếp các nguyên tố theo chiều tăng dần của khối
lượng nguyên tử, thì qua một số nguyên tố nhất định có sự lặp lại những tính chất hóa học
cơ bản (chu kỳ lặp lại). Như vậy tính chất hóa học của nguyên tố là hàm số tuần hoàn với
khối lượng nguyên tử của chúng.
Nhưng nếu lấy chiều tăng dần của khối lượng nguyên tử làm nguyên tắc sắp xếp thì trong
một số trường hợp, để đảm bảo sự tuần hoàn phải đổi vị trí của một số nguyên tố, chẳng hạn
Co và Ni, Te và I... và như vậy, phải vi phạm nguyên tắc trên.
Số nguyên tố đất hiếm và vị trí của chúng trong hệ thống tuần hoàn cũng chưa được xác
định một cách dứt khoát. Rõ ràng trong cấu tạo nội tại của nguyên tử có điều gì đó gây nên
hiện tượng tuần hoàn mà dựa vào khối lượng nguyên tử không giải đáp được.
2.2. Định luật tuần hoàn hiện đại (giai đoạn electron):
Bước tiến quan trọng trong việc giải quyết vấn đề nêu trên là tìm được phương pháp xác
định điện tích hạt nhân nguyên tử. Từ đó các nhà khoa học đã kết luận: “Điện tích hạt nhân
nguyên tử, về trị số số học bằng số thứ tự của nguyên tố trong bảng hệ thống tuần hoàn.”
Như vậy, các nguyên tố trong hệ thống tuần hoàn được sắp xếp theo chiều tăng dần của
điện tích hạt nhân nguyên tử, đồng thời là sồ thứ tự của nguyên tố trong hệ thống tuần hoàn.
Mỗi nguyên tố ứng với một điện tích hạt nhân xác định, nó quy định số e trong lớp vỏ
nguyên tử trung hòa và chính lớp vỏ e này quy định tính chất hóa học của nguyên tố.
Ngày nay nhân loại đã biết nhiều dạng nguyên tử có điện tích hạt nhân như nhau, khối
lượng khác nhau nhưng vẫn có tính chất tương tự nhau (hiện tượng đó là các đồng vị).
Vd: Cl có hai đồng vị là
35
Cl và
37
Cl.
Ngược lại, người ta cũng biết được nhiều dạng nguyên tử có khối lượng nguyên tử như
nhau nhưng do điện tích hạt nhân khác nhau nên dẫn đến tính chất hóa học khác nhau (hiện

tượng đó là các đồng lượng).
Vd: Ra và As
3
Từ đó mà ngày nay Định luật tuần hoàn được phát biểu như sau: “Tính chất của các đơn
chất cũng như tính chất các dạng hợp chất của những nguyên tố phụ thuộc tuần hoàn vào
điện tích hạt nhân nguyên tử của các nguyên tố.”
Giữa khối lượng nguyên tử và điện tích hạt nhân nguyên tử có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Khi điện tích hạt nhân tăng (số proton tăng) thì khối lượng trung bình của các đồng vị
của một nguyên tố cũng tăng (tức là tăng khối lượng nguyên tử). Nhưng vì trong hạt nhân
nguyên tử, số proton và notron không thay đổi theo một tỷ lệ nhất định nên ở một số ít
trường hợp sự thay đổi khối lượng nguyên tử không theo cùng trật tự với sự thay đổi điện
tích hạt nhân.
Định luật tuần hoàn hiện đại không phủ định mà trái lại còn khẳng định và chính xác hóa
Định luật tuần hoàn do Mendeleev khởi xướng.
2.3. Định luật tuần hoàn dưới dạng mới (giai đoạn hạt nhân):
Sự khám phá ra cấu tạo hạt nhân nguyên tử và mối liên quan có tính quy luật giữa cấu tạo
với các tính chất của hạt nhân có thể phát biểu Định luật tuần hoàn dưới dạng mới, sâu sắc
và tổng quát hơn như sau: “Các đặc tính của nguyên tử, đơn chất, hợp chất cũng như của
hạt nhân các nguyên tố thay đổi tuần hoàn theo chiều tăng số nuclon trong hạt nhân và
electron trong lớp vỏ nguyên tử của các nguyên tố”.
Như vậy, định luật tuần hoàn dạng mới đã chỉ ra mối liên hệ có tính quy luật không
những giữa các nguyên tử với nhau mà còn giữa các thành phần của chúng là lớp vỏ e và hạt
nhân nguyên tử.
Sự phát triển học thuyết cấu tạo nguyên tử đã cho phép mở rộng tính chất tuần hoàn so
với giai đoạn Mendeleev cho phép phát hiện hàng loạt hợp chất vô cơ khác nhau có tính chất
và điều kiện tạo thành được xác định bởi vị trí của các nguyên tố trong hệ thống tuần hoàn
(các hydrua, cacbua, nitrua, borua, sunfua, kim loại, phức chất, khí trơ…). Từ những thành
tựu mới này dựa trên cơ sở Định luật tuần hoàn và Hệ thống tuần hoàn người ta đã thiết lập
hàng trăm hệ thống tuần hoàn khác nhau không những đối với các tiểu phân như nguyên tử,
phân tử, ion, hạt nhân và các electron mà còn đối với tính chất của chúng nữa.

Nói tóm lại, ngày nay Định luật tuần hoàn và hệ thống tuần hoàn các nguyên tố đã trở
thành cơ sở cho hệ thống hóa hóa học.
4
3.Cấu trúc hệ thống tuần hoàn dưới ánh sáng cấu tạo nguyên tử:
3.1.Nguyên tắc sắp xếp các nguyên tố trong bảng tuần hoàn:
Ngày nay, dưới ánh sáng của thuyết cấu tạo nguyên tử, các nguyên tố hóa học được sắp
xếp trong bản tuần hoàn theo các nguyên tắc:
-Các nguyên tố được sắp xếp theo chiều tăng dần của điện tích hạt nhân nguyên tử.
-Các nguyên tố có cùng số lớp electron trong nguyên tử được xếp thành một hàng.
-Các nguyên tố có số electron hóa trị(1) trong nguyên tử như nhau được xếp thành một cột.
Bảng các nguyên tố được sắp xếp theo các nguyên tắc trên được gọi là bảng tuần hoàn
các nguyên tố hóa học (gọi tắt là bảng tuần hoàn).
3.2. Cấu tạo của bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học :
3.2.1. Ô nguyên tố :
Mỗi nguyên tố hóa học được xếp vào một ô của
bảng, gọi là ô nguyên tố. Số thứ tự của ô nguyên tố
đúng bằng số hiệu nguyên tử của nguyên tố đó.
Ví dụ: Nhôm (Al) chiếm ô 13 trong bảng tuần
hoàn, vậy số hiệu nguyên tử của nguyên tố Al là 13,
số đơn vị điện tích hạt nhân là 13, trong hạt nhân có
13 proton và vỏ nguyên tử của Al có 13 electron.
3.2.2. Chu kỳ :
Chu kỳ là dãy các nguyên tố của chúng có cùng số lớp electron, được xếp theo chiều điện
tích hạt nhân tăng dần.
Chu kỳ thường bắt đầu bằng một kim loại kiềm và kết thúc bằng một khí hiếm (trừ chu
kỳ 1 và chu kỳ 7 chưa hoàn thành).
Số thứ tự của chu kỳ bằng số lớp electron trong nguyên tử.
3.2.3. Nhóm:
Nhóm gồm các nguyên tố có số electron lớp ngoài cùng hoặc của những phân lớp ngoài
cùng giống nhau và bằng số thứ tự của nhóm. Nói cách khác, các nguyên tố trong cùng 1

nhóm có cấu hình electron lớp ngoài cùng giống nhau, trong đó tổng số electron của các
phân lớp ngoài cùng luôn bằng số thứ tự của nhóm.
Một số nguyên tố như Co, Ni… có số electron ngoài cùng lớn hơn 8 nhưng vẫn đặt vào
nhóm VIII.
5
Các nguyên tố họ Lantanit và Actinit có cấu tạo đặc biệt, chúng được đặt vào nhóm VIII
và có các electron đang và đã xây dựng ở phân lớp (n-2)f nhưng được đặt ở nhóm III cùng ô
với lantan (La) và actini (Ac).
3.2.4.Phân nhóm:
Phân nhóm gồm các nguyên tố có cấu trúc electron ở lớp ngoài cùng hoặc của những
phân lớp ngoài cùng giống nhau.
Phân nhóm chính gồm các nguyên tố s hoặc p có cấu hình electron lớp ngoài cùng tương
ứng là ns
x
hoặc ns
2
np
x-2
.Chúng luôn có số electron ngoài cùng bằng số nhóm (x là số thứ tự
phân nhóm).
Phân nhóm phụ gồm các nguyên tố d có cấu hình electron các phân lớp ngoài cùng là
(n-1)d
x-2
ns
2
( có một số ngoại lệ Cu, Ag, Au có cấu hình (n-1)d
10
ns
1
).

Phân nhóm phụ thứ cấp gồm các nguyên tố f có cấu hình electron lớp ngoài cùng là
(n-2)f
2-14
(n-1)d
0-1
ns
2
+ Ghi chú: Các nguyên tố Zn, Cd, Hg có cấu hình electron là d
10
chúng không được coi là
nguyên tố chuyển tiếp cũng không phải là kim loại điển hình.
6
4. Các kiểu bảng tuần hoàn:
Cho đến ngày nay, người ta đã cố gắng rất nhiều trong việc hoàn
thiện cách biểu diễn Định luật tiần hoàn và đã công bố trên 500 kiểu
bảng khác nhau. Ta sẽ xét qua đặc điểm của một số kiểu bảng phổ
biến và tìm hiểu kĩ về 2 dạng phổ biến nhất là dạng chu kỳ ngắn và
dạng chu kỳ dài.
4.1.Bảng tuần hoàn dạng chu kỳ ngắn:
4.1.1.Nhóm - Phân nhóm:
Các nguyên tố được bố trí thành 8 cột dọc,có số thứ tự từ I đến VIII. Trong mỗi nhóm
được chia thành phân nhóm chính và phân nhóm phụ, tạo nên 2 hàng dọc .
Các phân nhóm chính gồm những nguyên tố điển hình của nhóm, được bắt đầu từ
nguyên tố nằm ở chu kỳ II , tạo thành những cột dọc dài hơn.
Các phân nhóm phụ gồm những nguyên tố hợp thành cột dọc ngắn hơn được bắt đầu
bằng nguyên tố nằm ở chu kỳ IV.
Riêng Phân nhóm phụ có 14 phân nhóm phụ thứ cấp tạo bởi những nguyên tử ở cùng ô
với nguyên tố La(Z=57) và Ac(Z=89). Chúng thường được đặt thành 2 dãy nằm riêng ở cuối
7
1

2
3
4
5
6
7
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
I II III
IV
V
VI VII
VIII
IA IB
IIA IIB
IIIB IIIA
IVB IVA
VB VA
VIB VIA
VIIB VIIA
VIIIB
VIIIA

(H)
Li
Na
K
Cu
Rb
Ag
Cs
Au
Fr
Be
Mg
Ca
Zn
Sr
Cd
Ba
Hg
Ra
B
Al
Sc
Ga
Y
In
La
Tl
Ac
C
Si

Ti
Ge
Zr
Sn
Hf
Pb
Ku
N
P
V
As
Nb
Sb
Ta
Bi
Ns
O
S
Cr
Se
Mo
Te
W
Po
F
Cl
Mn
Br
Tc
I

Re
At
Fe
Co Ni
Ru
Rh
Pd
Os
Ir
Pt
H
He
Ne
Ar
Kr
Xe
Rn
NHOM CAC NGUYEN TO
C
H
U
K
Y
H
A
N
G
OXIT
CAO NHAT
HYDRUA

R
2
O
RO
R
2
O
3
RO
2
R
2
O
5
R
2
O
7
RO
4
RH
RH
2
RH
3
RH
4
RO
3
LANTANIT

ACTINIT
Ce Pr Nd
Pm Sm
Eu
Gd
Tb
Dy
Ho
Er
Tm
Yb
Lu
Th
Pa
U
Np
Pu
Am
Cm Bk
Cf
Es
Fm
Md No
Lr

×