Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tải Ngữ văn lớp 6: Cảm nhận về tác phẩm Cô Tô của Nguyễn Tuân - Ngữ văn lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.47 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận về tác phẩm Cô Tô của Nguyễn Tuân</b>


<b>Bài tham khảo 1</b>


Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tn
ln thể hiện phong cách – độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngơn ngữ
giàu có, điêu luyện. Bài văn Cơ Tơ là phần cuối của bài kí Cơ Tơ. Đoạn trích đã phần nào ghi lại
được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận
được trong chuyến ra thăm đảo.


Mở đầu là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cô Tô hiện lên thật trong sáng,
tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam
biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được
rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh
tồn cảnh của đảo Cơ Tơ sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh
tiêu biểu: Bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính
từ chỉ màu sắc và ánh sáng: Bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước
biển lam biếc, cát lại vàng giịn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí
quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám
hướng, quay gót 180 độ mà ngắm, tồn cảnh đảo Cơ Tơ… mà càng thấy yêu mến hòn đảo như
bất cứ người chài nào đã từng để ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Sau cơn bão, thiên nhiên ở
đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tơ đẹp bởi có tình người của
Nguyễn Tn.


Thật là thiếu sót nếu ta khơng nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh thiên nhiên của
đảo Cô Tô. Cảnh hùng vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao! Cảnh được “vẽ” lên bằng ngòi bút tài hoa
của Nguyễn Tn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đơng. Màu sắc hài hồ rực đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng
hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: Mâm lễ
phẩm, bạc nén, trường tho. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và
bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cơ Tơ.



Có thể nói, đây thực sự là một đoạn văn kiểu mẫu về bút pháp miêu tả của Nguyễn Tn. Ở đó
người ta thấy có sự hồ hợp giữa cảnh và tình, thiên nhiên kì ảo như lộng lẫy, mĩ lệ hơn trong cái
nhìn của nhà văn.


Cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô thêm sinh động. Cảnh sinh
hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là
cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống
thuyền. Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập,
đông vui: Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Ln sớm nay có khơng biết bao nhiêu là người
đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn
[…] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về,
vẻ thanh bình của cuộc sống cịn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cơ Tơ, lại
hàm chứa ý nghĩa Trơng chị Châu Hồ Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng n tâm như cái hình ảnh
biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự
cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn
đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong
đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong
đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của khơng khí trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô
Tô.


Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp
qua ngôn ngữ diêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn
Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc – quần đảo Cô Tô.


<b>Bài tham khảo 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bài văn trong sách giáo khoa là đoạn cuối, gồm ba phần, mỗi phần miêu tả một cảnh thiên nhiên
hoặc sinh hoạt của người dân trên đảo Cô Tô. Tất cả đều toát lên vẻ đẹp tươi sáng, phong phú và
độc đáo thông qua cảm nhận tinh tế và nghệ thuật miêu tả tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân.


Phong cảnh Cô Tô sau khi cơn bão đi qua hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp. Trên cái nền là
bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng
giòn của cát và màu trắng của sóng xơ dào dạt vào đảo.


Cảnh Cô Tô được miêu tả từ cao xuống thấp. Từ nóc đồn trên đảo, Nguyễn Tn nhìn ra bao la
Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả tồn cảnh đảo Cơ Tơ.
Cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: càng
thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây.
Đọc đoạn trích này, người đọc khơng thể nào qn cảnh mặt trời mọc trên biển Đông. Đây là một
bức tranh lộng lẫy, huy hồng hiếm có. Cảnh mặt trời mọc được miêu tả trong một không gian
rộng lớn, bao la, trong trẻo, tinh khôi: Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết
mây hết bụi. Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh đặc sắc, ví mặt trời sau khi lên trịn trĩnh phúc hậu
như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn… hồng hào, cịn mặt bể là một mâm bạc đường
kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng.


Cảnh tượng ấy thật hùng vĩ, đường bệ y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để
mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Xa xa, vài
chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại… một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh báo hiệu bắt đầu
một ngày mới tốt lành. Bức tranh với đủ màu sắc: đỏ, hồng, xanh, bạc… lấp lánh đan xen tạo nên
vẻ đẹp mn hồng ngàn tía.


Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước
ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có khơng biết bao nhiêu là người đến gánh và múc… Người dân
chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi
đánh cá hồng. Vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà
văn trước hình ảnh: Chị Châu Hịa Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển
cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành.


Nguyễn Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc thái riêng của cuộc sống ở Cơ Tơ. Điều đó được thể
hiện qua so sánh: Cái giếng nước ngọt ở rìa một hịn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như


một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Kết thúc bài kí là cảnh đồn thuyền chuẩn bị ra khơi và chị Châu Hòa Mãn dịu con đứng trên bãi
biển tiễn chồng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống lao động khỏe khoắn, vui tươi của
những ngư dân cần cù, chất phác trên đảo Cô Tô.


Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cơ Tơ dược miêu tả trong
đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút điêu luyện, giàu cảm xúc của
Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh huy hồng, lộng lẫy đầy
chất thơ.


Đoạn trích trên đây đã giúp em hiểu thêm về một cảnh quan nổi tiếng của đất nước, từ đó càng
thêm yêu mến, gắn bó và tự hào về Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.


<b>Bài tham khảo 3</b>


Cơ Tơ là một bút kí ln trong tập Kí, xuất bản năm 1976. Nguyễn Tuân đã ghi lại những ấn tượng
tốt đẹp của mình về cảnh sắc tuyệt vời của quần đảo Cô Tô trong vịnh Bắc Bộ và hình ảnh những
ngư dân cần cù lao động, góp phần làm giàu cho Tổ quốc, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên
và con người đằm thắm, thiết tha của mình qua thiên bút kí này.


Bài văn trong sách giáo khoa là đoạn cuối, gồm ba phần, mỗi phần miêu tả một cảnh thiên nhiên
hoặc sinh hoạt của người dân trên đảo Cơ Tơ. Tất cả đều tốt lên vẻ đẹp tươi sáng, phong phú và
độc đáo thông qua cảm nhận tinh tế và nghệ thuật miêu tả tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phong cảnh Cô Tô sau khi cơn bão đi qua hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp. Trên cái nền là
bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng
giòn của cát và màu trắng của sóng xơ dào dạt vào đảo.


Cảnh Cô Tô được miêu tả từ cao xuống thấp. Từ nóc đồn trên đảo, Nguyễn Tn nhìn ra bao la
Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180? độ mà ngắm cả tồn cảnh đảo Cơ Tơ.


Cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: Càng
thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây.
Đọc đoạn trích này, người đọc khơng thể nào qn cảnh mặt trời mọc trên biển Đông. Đây là một
bức tranh lộng lẫy, huy hồng hiếm có. Cảnh mặt trời mọc được miêu tả trong một không gian
rộng lớn, bao la, trong trẻo, tinh khôi: Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết
mây hết bụi. Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh đặc sắc, ví mặt trời sau khi lên tròn trĩnh phúc hậu
như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn… hồng hào, còn mặt bể là một mâm bạc đường
kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại… một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh báo hiệu bắt đầu
một ngày mới tốt lành. Bức tranh với đủ màu sắc: Đỏ, hổng, xanh, bạc… lấp lánh đan xen tạo
nên vẻ đẹp muôn hồng ngàn tía.


Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước
ngọt đảo Thanh Ln sớm nay có khơng biết bao nhiêu là người đến gánh và múc… Người dân
chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi
đánh cá hồng, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà
văn trước hình ảnh: Chị Châu Hồ Mãn địu con, thấy nó dịu dàng n tâm như cái hình ảnh biển
cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành.


Nguyễn Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc thái riêng của cuộc sống ở Cô Tô. Điều đó được thể
hiện qua so sánh: Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như
một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.


Biển Cô Tô đẹp mê hồn! Sức hấp dẫn của biển cả và những sản vật mà nó hào phóng ban tặng
cho con người đã thu hút biết bao chàng trai ra biển Đềlàm giàu cho cuộc sống và cho Tổ quốc.
Chủ nhân của vùng đảo tươi đẹp này là những ngư dân ngày đêm bám biển. Họ “ăn sóng nói gió”
và đã quen chịu đựng những khó khăn gian khổ do thời tiết khắc nghiệt gây nên.


Kết thúc bài kí là cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi và chị Châu Hồ Mãn địu con đứng trên bãi


biển tiễn chồng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống lao động khoẻ khoắn, vui tươi của
những ngư dân cần cù, chất phác trên đảo Cô Tô.


Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cô Tơ được miêu tả trong
đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút điêu luyện, giàu cảm xúc của
Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh huy hoàng, lộng lẫy đầy
chất thơ.


Đoạn trích trên đây đã giúp em hiểu thêm về một cảnh quan nổi tiếng của đất nước, từ đó càng
thêm yêu mến, gắn bó và tự hào về Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.


<b>Bài tham khảo 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

của phép lạ. Cô Tô của Nguyễn Tuân là một trường hợp như vậy, một định nghĩa điển hình về thể
kí. Ở bài kí nhỏ này (thực ra là một đoạn trích), ta thấy được một cái nhìn nghệ sĩ thật tinh tế, tài
hoa.


1. Bức tranh toàn cảnh của Cô Tô được giới thiệu ở phần đầu giống như một cánh cửa mở ra giúp
kẻ lữ hành có một cái nhìn khái quát. Nhưng, dù chỉ khái quát, ấn tượng mà vùng đất, vùng trời
nơi đây để lại khá sâu. Chúng ta có cảm giác như bước vào một vùng thời gian và không gian
không giống như bất cứ nơi nào. Nhà văn như làm mới lại một cái gì đã cũ. Ta thử xem "một
ngày trong trẻo, sáng sủa" trên đảo ra sao? Hình như ở đây, người nghệ sĩ đã có một cái nhìn
xun thời gian để nối liền hiện tại với quá khứ, một quá khứ từ trăm năm, nghìn năm. Câu văn
có ba mệnh đề thì hai mệnh đề trước đó như một quy trình của sự phục sinh. Thì ra cái trong trẻo
mà ta có được bây giờ trong cảm nhận đã được sàng lọc từ lâu, từ khi quần đảo Cô Tô "mang lấy
dấu hiệu của sự sống con người", và phải qua "dơng bão". Cái nhìn trải nghiệm vừa có một trầm
tích văn hố lịch sử xa xơi sâu lắng vừa rất đỗi non tơ. Giữ cho bầu trời Cô Tô trong sáng như
hôm nay là một tâm hồn rất trẻ. Độ tươi trẻ và đằm thắm mặn mà của trời biển Cô Tô cần đến
một sự tinh tế mới phần biệt được màu "xanh mượt" của cây trên núi đảo, với màu "lam biếc" của
nước biển ngoài khơi, cả cái màu "vàng giịn" nhảy múa. Tất cả như xơn xao, sống dậy sau cơn


dông tố dập vùi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

như Nguyễn Tuân thì mới vẹn nguyên sự kinh ngạc đến sững sờ: "Tròn trĩnh, phúc hậu như lòng
đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn". Táo bạo và tài hoa không dừng ở sự so sánh. Hoặc nói
đúng hơn, vẫn là so sánh nhưng mở dần ra theo chiều liên tưởng thú vị liên tiếp bất ngờ. Ông đặt
cái "quả trứng hồng hào" ấy lên một cái mâm bạc, mà đường kính của nó "rộng bằng cả một cái
chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng" thì thật là đài các, sang trọng. Rồi nhà văn so sánh
cảnh tượng thiên nhiên với mâm lễ phẩm nhưng không phải để long trọng dâng lên một thứ
quyền uy tối thượng nào (cho phù hợp với cái nghi thức quý phái cao sang) mà đột ngột thân
tình: "Mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông". Cái
đẹp trong văn Nguyễn Tuân nếu so với những cáí gì trước đày (trước 1945), nó đã đổi chiều. Nhà
văn đã tự làm một cuộc cách mạng trong cảm quan của mình trước cuộc sống.


3. Trung tâm sự sống – sự sống của con người nơi đây là cái giếng nước ngọt của đảo Thanh
Luân. Nếu cảnh mặt trời mọc là cảnh của chiêm bao, của mơ mộng, nó thật nghệ sĩ, tài hoa thì cái
giếng nước ngọt là tiêu biểu cho cái thực thuần phác và đầy ắp tình người. Cái "thực" ấy được
miêu tả theo lối chứng minh cho một cảm nhận trực giác (lòng giếng vận còn rớt lại vài cái lá
cam lá quýt), nghĩa là không phải một thứ giếng tiên trong thần thoại, cổ tích thời nào. Trước hết,
cái giếng ấy thân thuộc biết bao với dân trên đảo. Người ta đến đó để tắm gội, để múc nước mang
về, nghĩa là rất giống một thứ giếng làng có gốc đa, bến nước của chốn quê hương các vùng châu
thổ. Cái cảm giác có thực của nó được nhận biết khơng phải bằng trí tưởng tượng mà trên da thịt
con người, từ những gầu nước của nó mà nhà văn vừa đi ngắm cảnh mặt trời mọc trở về đang
"dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng". Cịn những người lao động bình thường thì có thể múc nước
đổ vào mọi thứ : vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn. Chỉ có một điều
khác là cái giếng nước ngọt ấy do vị trí đặc thù của nó ở rìa một hịn đảo giữa nước mặn mênh
mơng, mà sinh hoạt của con người, xung quanh nó "vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn
mọi cái chợ trong đất liền". Không chỉ thân thuộc, cái giếng ấy cịn như một thứ dịng sữa ni
người, của mẹ ni con. Cảm nhận thứ hai này bất chợt hiện ra khi người viết tìm được một ý
tưởng mới lạ trong cái cử chỉ quen thuộc của chị Châu Hoà Mãn dịu con. Nhìn cử chỉ "dịu dàng
yên tâm" như thế nào của người mẹ, nhà văn mới tìm ra được cái âu yếm ni người của biển cả.


Hình ảnh người mẹ dịu con gợi "hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành". Thì ra
biển cả tuy hung dữ thế mà rất dỗi khoan dung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8></div>

<!--links-->

×