Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Ôn tập ĐƯờng Lối Cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.38 KB, 26 trang )

1
CÂU HỎI ÔN TẬP
PHẦN I:
Câu 1: CM sự ra đời của ĐCSVN là 1 tất yếu khách quan?
Trả lời
ĐCSVN ra đời là kết quả chuẩn bị công phu về tư tưởng, chính trị và tổ chức của đồng chí NAQ và của các
chiến sĩ cách mạng tiền bối, đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta đầu thế kỷ XX, phù hợp xu thế phát triển
của thời đại. Những chuyển biến cơ bản về tình hình trong nước và thế giới cuối TK XIX – đầu TK XX đã tác
động, ảnh hưởng đến sự ra đời của ĐCSVN, khiến nó ra đời như một tất yếu khách quan.
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối TK XIX – đầu TK XX
a. Sự chuyển biến của CNTB và hậu quả của nó
Từ cuối TK XIX, CNTB đã chueyern từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa).
Các nước TB đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức
nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động
các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
b. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin
Vào giữa TK XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức
thiết phải có hệ thống lí luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh chống CNTB. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Leenin phát triển và trở thành chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra Đảng CS. Sự ra đời của Đảng CS là yêu cầu khách quan đáp ứng
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Tuyên ngôn của ĐCS (1848) xác định: những
nhiệm vụ có tính qui luật mà chính đảng của giai cấp công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây dựng XH mới. Đảng phải luôn
đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các
nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào
công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản


ở VN. NAQ đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn CM VN, sáng lập ra
ĐCSVN. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của ĐCSVN.
c. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga
Năm 1917, CM Tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Với thắng lợi này, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “thời đại CM chống đế quốc, thời đại giải phóng
dân tộc”. Cuộc CM này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước. Đối
với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng dân tộc bị áp
bức. “Cách mệnh Nga dạy chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm
gốc, phải có Đảng vững mạnh, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”.
d. Sự ra đời của Quốc tế CS và hàng loạt các ĐCS ở các nước trên thế giới
Thắng lợi của cuộc CMT10 Nga là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều ĐCS: ĐCS
Đức, Hunggari (1918), ĐCS Mỹ (1919), ĐCS Anh, Pháp (1920), ĐCS Trung Quốc, Mông Cổ (1921), ĐCS
Nhật Bản (1922)...
Tháng 3-1919, Quốc tế CS (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế CS có ý nghĩa thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế CS vào năm 1920 đã chỉ ra
2
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức
trên lập trường cách mạng vô sản.
Đối với VN, Quốc tế CS có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập
ĐCSVN. NAQ không những đánh giá cao sự kiện ra đời của Quốc tế CS đối với phong trào cách mạng TG, mà
còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với CM VN. “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ
Đệ tam quốc tế”.
2. Hoàn cảnh trong nước:
a. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
*Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Năm 1858, TD Pháp nổ súng xâm lược VN, sau đó từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở VN.
- Chính trị: áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền PK
nhà Nguyễn; thực hiện chuyên chế chính trị, chia để trị: chia VN thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng; đàn áp tất cả các cuộc đấu tranh.

- Kinh tế: thực hiện chính sách vơ vét, bóc lột nặng nề: duy trì nề sản xuất PK (nông nghiệp, nhỏ lẻ, manh
mún, lạc hậu), tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một
số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ cho khai thác thuộc địa
của TD Pháp.
- Văn hóa: thực hiện chính sách nô dịch, ngu dân; dung túng, duy trì các thủ tục lạc hậu...., đầu độc dân ta
bằng rượu cồn, thuốc phiện..., không cho dân ta có quyền tự do học tập, bắt dân ta phải sống trong cảnh
ngu dốt tăm tối.
* Hệ quả của chính sách cai trị đó đối với VN
- Kinh tế: làm cho nền KT nước ta ngày càng lạc hậu, què quặt, hoàn toàn lệ thuộc vào nền kinh tế Pháp.
- Xã hội: làm thay đổi tính chất xã hội, làm mâu thuẫn mới nảy sinh.
- Giai cấp: làm kết cấu giai cấp cũ bị phá vỡ, hình thành thêm các giai cấp mới: công nhân, tư sản
• Địa chủ: đại đa số câu kết với Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân, tuy nhiên, cũng có 1
bộ phận có lòng yêu nước, căm thù TD
• Nông dân: là lực lượng đông đảo nhất trong XH, bị TD và PK áp bức, bóc lột nặng nề, do đó,
tích cực tham gia đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
• Công nhân: ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân
từ nông dân, bị PK, đế quốc bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp này là: “ra đời trước giai
cấp tư sản dân tộc VN, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc
Trung Nam...”
• Tư sản: gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp...., bị tư sản Pháp cạnh tranh, chèn ép và
không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
• Tiểu tư sản: gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự do....Đây là lực
lượng có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng
tiến bộ từ bên ngoài truyền vào, vì vậy, có tinh thần cách mạng cao.
 Chính sách thống trị của TD Pháp đã tác động mạnh mẽ đến XH VN trên tất cả các lĩnh vực. Trong XH
VN lúc này, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ PK, đã nảy sinh
mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân VN với TD Pháp xâm lược. Tính chất của XH VN là XH thuộc địa, nửa PK. Trong đó, chống đế quốc,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

b. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối TK XIX – đầu TK XX
Trước sự xâm lược của TD Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng PK và tư sản
diễn ra mạnh mẽ, tiêu biểu là:
3
- Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong
trào phát triển mạnh ở nhiều địa phương. 1-1-1888, vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào đi vào thời kì
thoái trào.
- Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913): đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gay cho chúng nhiều khó khăn,
thiệt hại. Cuộc KN diễn ra rất sôi nổi, nhiệt thành nhưng còn mang nặng cốt cách phong kiến, không
nhận thức được tính chất thời đại thay đổi, vì vậy, không có được con đường, cách thức, biện pháp,
phương pháp, đặc biệt là giai cấp lãnh đạo phù hợp
Trong Chiến tranh TG lần I (1914 – 1918), các cuộc KN vũ trang chống Pháp vẫn tiếp diễn nhưng đều
không thành công. Các thất bại đó đã chứng tỏ giai cấp PK và hệ tư tưởng PK không đủ điều kiện để lãnh đạo
phong trào yêu nước, giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở VN.
Ngoài ra, đầu TK XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng
của tư tưởng dân chủ tư sản cũng diễn ra sôi nổi.
- Phan Bội Châu là đại diện của xu hướng bạo động với phong trào Đông du. Ông chủ trương dùng biện
pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, hạn chế lớn
nhất của ông là chủ trương dựa vào Nhật để đuổi Pháp. Sau này, trong tác phẩm Những mẩu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã nhận xét con đường đó chẳng khác gì “đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”. Chính vì vậy, con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công.
Mặc dù, vào nửa đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của CMT10 Nga, “Ông
cũng có cảm tình với nước Nga Xô viết, CNXH và có ý đặt hy vọng vào NAQ”. NAQ đánh giá “Phan
Bội Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia”
- Phan Châu Trinh là đại biểu cho xu hướng cải cách với phong trào Duy tân, chủ trương vận động cải
cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua phong kiến thối nát, đề
xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền;
phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài. Hạn chế lớn của Phan Châu Trinh là đường lối cải
lương phản đối bạo động (“bạo động tắc tử”) và muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến. Con đường
cứu nước của Phan Châu Trinh đã thất bại, vì sai lầm chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương” .

Lòng yêu nước và gương hoạt động của hai cụ Phan đã cổ vũ nhân dân ta qua nhiều thế hệ. Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh có điểm giống nhau là chưa tiếp cận được xu thế của thời đại mới, do đó không tìm ra con
đường cứu nước mới, con đường giành độc lập triệt để do nhân dân lao động làm chủ đất nước, lấy sức ta mà tự
giải phóng cho ta.
Ngoài ra, trong thời kì này cũng có nhiều phong trào đấu tranh khác như: Đông kinh nghĩa thục (1907),
phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919), phong trào chống đọc quyền xuất khẩu ở Sài Gòn (1923)...
Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã nói lên một sự thật: con đường dân
chủ tư sản cũng không cứu được nước. Ở nước thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc có
vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ chỉ có thể phát huy vai trò đó đối với sự giúp đỡ của
Đảng, của giai cấp công nhân.
Mặc dù thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối TK XIX đầu TK XX có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc
VN và chính sự phát triển của phong tào yêu nước đã tạo cơ sở XH thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác
– Lênin, quan điểm cách mạng HCM. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố (nguồn gốc) dẫn đến
sự ra đời của ĐCSVN.
Sự thất bại của các phong trào đấu tranh cuối TK XIX - đầu TK XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo
hệ tư tưởng PK và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng VN lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về
đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai
cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc
CM dân tộc, dân chủ đi đến thành công. Vì vậy, 1911, NAQ ra đi tìm đường cứu nước.
4
- 7/1920: NAQ đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin. Người tìm thấy trong đó lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân VN. Kể từ đây,
NAQ đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin
- 12/1920: NAQ bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế CS và tham gia thành lập ĐCS Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu nước trở thành
người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và cũng từ việc nghiên cứu chủ nghĩa
Mác – Lênin, Người đã học được một bài học rất quan trọng mà NAQ cho rằng cần phải thực hiện
ngay: một phong trào muốn thành công, trước hết phải có Đảng CM. Đảng có vững thì CM mới mạnh.

Vì lẽ đó, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào công sản quốc tế, NAQ xúc tiến truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng VN và chuẩn bị điều kiện để thành
lập ĐCSVN.
Câu 2: Vì sao NAQ lại lựa chọn con đường CM vô sản? CM 3 bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời hoạt động CM 1917 – 1920
Trả lời
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn.
Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời
NAQ rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng
không đồng ý đi theo con đường của một người nào. Trong khi nhiều người còn ngưỡng mộ CM tư sản, Người
đã vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước khác
Nhận xét về con đường cứu nước của các bậc tiền bối:
- Phan Bội Châu là đại diện của xu hướng bạo động. Ông chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh
đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của ông là chủ
trương dựa vào Nhật để đuổi Pháp. Sau này, trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã nhận xét con đường đó chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”. Chính vì vậy, con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công. Mặc dù, vào nửa đầu
thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của CMT10 Nga, “Ông cũng có cảm tình với
nước Nga Xô viết, CNXH và có ý đặt hy vọng vào NAQ”. NAQ đánh giá “Phan Bội Châu là tiêu biểu
cho chủ nghĩa quốc gia”
- Phan Châu Trinh là đại biểu cho xu hướng cải cách, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội;
động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân
chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh
vũ trang và cầu viện nước ngoài. Hạn chế lớn của Phan Châu Trinh là đường lối cải lương phản đối bạo
động (“bạo động tắc tử”) và muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến. Con đường cứu nước của Phan
Châu Trinh đã thất bại, vì sai lầm chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”
Lòng yêu nước và gương hoạt động của hai cụ Phan đã cổ vũ nhân dân ta qua nhiều thế hệ. Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh có điểm giống nhau là chưa tiếp cận được xu thế của thời đại mới, do đó không tìm ra con
đường cứu nước mới, con đường giành độc lập triệt để do nhân dân lao động làm chủ đất nước, lấy sức ta mà tự
giải phóng cho ta.

Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã nói lên một sự thật: con đường dân
chủ tư sản cũng không cứu được nước. Ở nước thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc có
vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ chỉ có thể phát huy vai trò đó đối với sự giúp đỡ của
Đảng, của giai cấp công nhân.
Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được
công nông và quần chúng lao động, nói cách khác cách mạng dân chủ tư sản là cuộc cách mạng không triệt để.
Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây. Nước Pháp lúc đó nổi tiếng với cuộc cách mạng
tư sản Pháp thành công, với khẩu hiệu đề ra là tự do – bình đẳng – bác ái. Và nước Pháp tuyên bố với thế giới
5
sang để bảo hộ Việt Nam, sang khai hóa cho người Việt Nam. Nhưng liệu điều đó có đúng không? Nhưng khi
đặt chân lên bến cảng Mácxây, những cảnh tượng đầu tiên mà Người nhìn thấy là những cảnh lầm than, cơ cực,
lao động vất vả của những người dân nghèo trên bến cảng Mácxây. Điều đó khiến Nguyễn Ái Quốc buộc lòng
phải đặt ra câu hỏi: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy những cảnh khổ cực, chết chóc của
người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của
người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.
Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm
sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776, và đặc biệt là Bản
Tuyên ngôn độc lập với khẩu hiệu: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể chối bỏ. Khi thăm pho tượng Nữ thần Tự do, Nguyễn Tất Thành ghi vào đó một câu nói
rất hay: Nữ thần Tự do đứng ở trên cao, vươn tầm mắt ra xa, tỏa ánh hào quang rực rỡ, liệu có trông thấy những
cảnh lầm than, cơ cực, rách rưới cho người dân da đen, da vàng dưới chân mình không?
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm 1917 trở lại Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) giết hại biết bao sinh mạng, phá hủy vô vàn của cải (16 triệu
người chết và mất tích, 21 triệu người bị thương, chiến phí gần 200 tỉ đôla). Qua đó, NAQ càng hiểu thêm bản
chất của CNTB.
Qua quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp
NAQ học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là “những cuộc cách
mạng không đến nơi”, “không triệt để”, tiếng là tự do, độc lập nhưng trong thì bóc lột công nông, ngoài thì bóc
lột thuộc địa. Cho nên, các cuộc cách mạng đó thành công nhiều năm rồi, nhưng công nhân, nông dân vẫn muốn

làm thêm một cuộc cách mạng nữa để giải phóng cho mình.
Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình ở Vécxây (Pháp) để chia phần. Thay mặt
Hội những người Việt Nam yêu nước, NAQ gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Trong khi chờ đợi giải
quyết vấn đề dân tộc tự quyết, Người chỉ đề cập những yêu sách “tối thiểu” và “cấp thiết”. Tổng thống Mỹ
Uynxơn (Wilson), tác giả chương trình 14 điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng
những yêu sách dù khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng.
Sự kiện này đã giúp NAQ hiểu rõ “chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn....” Các dân tộc thuộc địa
muốn giải phóng cho mình thì phải tự đem sức ra mà giải phóng cho mình. Những lời tuyên bố tự do của nhà
chính trị tư sản trong lúc chiến tranh thực ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Đầu năm 1919,
NAQ gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ, Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà
chính trị nổi tiếng ở Pháp. NAQ tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân, liên lạc và hoạt động cùng
với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.
Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế Cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra thời
đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng
lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam:
độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên CNTB hay độc lập dân tộc
đi lên CNXH?
Câu 3: Vì sao khi tìm ra con đường cứu nước, NAQ lại bắt tay ngay vào việc thành lập
ĐCS?
Trả lời
Khi mà tìm ra con đường cứu nước, đặc biệt là thời gian tiếp thu và chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười Nga, có một bài học rất quan trọng mà NAQ cho rằng cần phải thực hiện ngay. Đó là để làm cho con
6
đường CM vô sản đi đến thắng lợi được thì điều kiện đầu tiên, tiền đề đầu tiên để có thắng lợi là phải có sự lãnh
đạo của ĐCS. Hay nói cách khác, đối với một phong trào, một hoạt động thì vấn đề tổ chức vô cùng quan trọng.
Người tự mình đặt ra câu hỏi: Cách mạng muốn thành công trước hết phải có cái gì? Bác trả lời: Cách mạng
muốn thành công trước hết phải có Đảng CM. Đảng có vững thì CM mới mạnh. Cũng giống như người cầm lái

có vững thì thuyền mới chạy.
Ngay từ khi tìm được chủ nghĩa Mác – Lênin, NAQ đã nắm vững quy luật, Đảng có vững cách mệnh mới
thành công. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa ấy (chủ nghĩa
Mác – Lênin). Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn.
Câu 4: Khó khăn lớn nhất trong Hội nghị thành lập Đảng?
Trả lời:
Trước khi có Hội nghị thành lập Đảng, thì có sự ra đời của 3 tổ chức CS Đảng. Và từ 3 tổ chức CS này thì
ĐCSVN ra đời. Trước khi NAQ bắt tay vào hợp nhất 3 tổ chức này thì trên thực tế 3 tổ chức này đã ngồi với
nhau rồi. Tuy nhiên, mặc dù đã bàn bạc, thảo luận, trao đổi rồi nhưng vẫn không thể hợp nhất được bởi vì cái
khoảng cách lớn nhất giữa họ lúc này đó là: cái sự cứng nhắc và bảo thủ. Ba tổ chức với tuyên ngôn, cương lĩnh,
điều lệ khác nhau.
- Đông Dương CS Đảng: tuyên ngôn nêu rõ: Đảng CS Đông Dương tổ chức đại đa số và thực hành công
nông liên hiệp mục đích để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa; đánh đổ TBCN; diệt trừ chế độ PK; giải phóng
công nông; thực hiện XH bình đẳng, tự do, bác ái, tức là XH Cộng sản.
- An Nam CS Đảng: Điều lệ của Đảng có viết: “Ai tin theo chương trình của Quốc tế CS, hăng hái phấn
đấu trong một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có thể cho vào đảng được
- Đông Dương CS Liên đoàn: Tuyên đạt của Đảng nêu rõ: “Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lấy chủ
nghĩa cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để
thực hành vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn
độc lập, xóa bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính tiến lên cộng
sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”.
Nhưng tổ chức nào cũng muốn giữ nguyên tên của mình, điều lệ của mình, tuyên ngôn, cương lĩnh của
mình và yêu cầu các tổ chức còn lại phải gia nhập vào tổ chức của mình. Chính vì vậy không thể hợp nhất được
với nhau. Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở VN,
nhưng ba tổ chức cộng sản trên đây hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở
Việt Nam lúc này. Những người cộng sản của ba tổ chức này đã đánh giá nhau không đúng và chưa nhận thức
được hiện tượng phân tán và chia rẽ về tổ chức của phong trào cộng sản sẽ dẫn đến những nguy cơ gì. Vì vậy,
việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta, là
nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản VN. Đó cũng là khó khăn lớn nhất cho NAQ
trong việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản nói trên. Qua đó, ta cũng thấy được vai trò to lớn của NAQ đối với sự

ra đời của ĐCSVN. Trong một thời gian rất ngắn mà Người đã làm được những việc hết sức to lớn. Có lẽ phải
có một tầm trí tuệ, một ý chí quyết tâm và phải có một tầm ảnh hưởng rất lớn mới có thể làm được những việc
như vậy trong một thời gian rất ngắn.
Câu 5: Vì sao lấy tên ĐCSVN mà không phải là ĐCS Đông Dương?
Trả lời:
- Thiếu cơ sở thực tế: tại Lào và Campuchia, phong trào CM vô sản chưa có và chưa phát triển. Còn ở
Việt Nam để chuẩn bị cho sự ra đời của ĐCSVN đã phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, kĩ càng
về tư tưởng – chính trị, tổ chức, cho sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Leenin vào VN.
- Về mặt quốc tế: theo nguyên tắc, những người hoạt động CM trên phạm vi toàn cầu phải luôn luôn tôn
trọng quyền tự quyết của tất cả các dân tộc. Nhưng trong khi đó, trong Hội nghị thành lập Đảng không
7
có sự tham gia của đại biểu Lào và Campuchia mà chỉ có đại biểu của VN. Cho nên, không có lí do gì
để thành lập Đảng CS Đông Dương mà NAQ vẫn quyết định thành lập ĐCSVN
Câu 6: Phân tích sự sáng tạo của NAQ trong Cương lĩnh?
Trả lời:
Tính đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh được thể hiện ở những vấn đề sau:
Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, một hệ thống lí luận
tiến bộ đúng đắn và khoa học.
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và
Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách.
Cương lĩnh chủ trương: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Qua
đó, ta thấy rằng: ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là
kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng sáng tạo và
hợp lí lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cương lĩnh khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là chống đế quốc và chống
phong kiến. Điều này cũng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể
hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong

kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải
hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra.
Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên, Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc hơn vấn đề đấu tranh giai cấp
và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Vì: Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên,
nhưng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải quyết các
mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định, ngoài giai cấp công nhân, thì cách mạng “phải hết sức liên
lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nông…để kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho trung lập”.
Như vậy, ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ trương phải tranh
thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với
thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng
có tinh thần yêu nước, như: Tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước…, vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về
phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Cương lĩnh,
điều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn.
Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng của giai cấp công nhân.
Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đây cũng là một nội
dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì: giai cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết
với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các
nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới.
Tóm lại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng
đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc.
Câu 7: Tính phổ biến và đặc thù trong quá trình ra đời ĐCSVN?
Trả lời:
8
Trên thế giới, sự ra đời của ĐCS là sự kết hợp của hai yếu tố: CN Mác – Lênin và phong trào công nhân.
Nhưng ĐCSVN ra đời là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Đây chính là điểm đặc thù trong quá trình ra đời ĐCSVN.

*CN Mác - Lênin
Sau khi đã tìm được con đường yêu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921, Người tiếp tục học tập để bổ
sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn
bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam.
- Tháng 4/1922, Hội xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) để tuyên truyền, vận động cách mạng ở các
nước thuộc địa. Tờ báo đã tạo “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức”, “đã làm cho
nước Pháp chân chính biết rõ những sự việc xảy ra trong các thuộc địa”, “đã thức tỉnh đồng bào chúng
ta”, “khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước Pháp tự do, bình đẳng, bác ái”.Ngoài việc
viết bài cho báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức các buổi diễn thuyết, viết bài cho báo
Nhân Đạo, Người cùng khổ, Đời sống công nhân,...
- Đồng thời, đây cũng là khoảng thời gian Người thu thập tư liệu để viết tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế
độ thực dân Pháp” nhằm vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi “dân bản xứ không cam chịu
nhục được mãi, phải vùng lên”. Đây là tác phẩm có giá tri lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời có giá
trị văn học. Đến năm 1925, Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française), được
xuất bản lần đầu tiên ở Pari.
- Nhưng đáng kể nhất trong số những sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, lý luận cho quá trình thành lập
Đảng là những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng Châu
được tập hợp thành cuốn Đường Kách Mệnh. Nội dung cơ bản của tác phẩm như sau:
• Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng. Tác
phẩm cũng xác định rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là dân tộc cách mạng và giai cấp
cách mạng. Người cho rằng phải làm dân tộc cách mạng vì thực dân Pháp bắt dân ta làm nô lệ,
nên toàn dân tộc phải hiệp lực đánh đuổi bọn xâm lược. Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ. Việt
Nam cũng phải làm giai cấp cách mạng vì chủ tư bản Tây bóc lột công nhân Việt Nam, chủ đồn
điền Tây chiếm đoạt ruộng đất của nông dân Việt Nam nên công nông phải đứng lên làm cách
mạng để đánh đuổi tư bản thực dân. Đây chính là điểm vận dụng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc
trên cơ sở ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga.
• Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, muốn xóa
bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thực sự thì phải qua hai
cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách
mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.

• Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải
là việc của một hai người.
• Bốn là: Về phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách mạng
bạo lực, “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”
• Năm là: Đoàn kết quốc tế
• Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa ấy
(chủ nghĩa Mác – Lênin). Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn.
 Sáu điểm trên đây là tư tưởng cốt lõi trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Thông qua hàng
loạt các tác phẩm chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá rộng rãi trong quần chúng nhân dân, làm cho phong
trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ. Các phong trào đấu tranh phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào cách mạng vô sản. Vào thời kì này, phong trào công nhân và nông dân đã
9
hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến chứ không còn hoạt động riêng lẻ, rời rạc như
các thời kì trước nữa.
*Phong trào công nhân
Từ đầu TK XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân
chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản thực dân diễn ra từ rất sớm. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ
công nhân VN có khoảng mười vạn người. Các cuộc đấu tranh chống bọn chủ của công nhân VN được diễn ra
dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ phá giao kèo, bỏ việc đến bãi công, đình công. Họ biết liên kết công
nhân nhiều xí nghiệp cùng đấu tranh và liên hệ với công nhân Pháp và công nhân Trung Quốc.
Tháng 8-1925, cuộc bãi công tiêu biểu của hơn 1000 công nhân binh xưởng Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức
Thắng lãnh đạo đã giành thắng lợi lớn. Ông đã tổ chức Công hội ở Sài Gòn và gây cơ sở ở nhiều xí nghiệp.
Trong hai năm 1926-1927, có 17 cuộc đấu tranh của công nhân trong cả nước. Tiêu biểu là các cuộc bãi
công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (7-1926), đồn điền Cam Tiên (12-1926), đồn điền Phú Riềng (8,9-
1927).
Năm 1928, bãi công đã nổ ra tại mỏ than Mạo Khê, nhà máy nước đá Laruy (Larue) ở Sài Gòn (19-2), các
nhà máy xay Chợ Lớn (23-2), sở dầu Hải Phòng (13-3), đồn điền cao su Lộc Ninh (8-4), nhà máy cưa Bến Thủy
(11-4), nhà máy tơ Nam Định (23-11). Trong năm 1929, bãi công của công nhân nhà máy chai Hải Phòng (23-

4), nhà máy xe lửa Tràng Thi ở Vinh (16-5), nhà máy sửa chữa ô tô Aviat ở Hà Nội (28-5), sở dầu Hải Phòng
(23-9), nhà máy xi măng Hải Phòng (22-10)...
Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ rệt tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của công nhân. Báo chí của
thực dân Pháp phải thừa nhận: “Từ đây, hành động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những vụ
âm mưu của các hội kín”.
Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội VN CM
thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời từ năm 1929. Ở giai đoạn này nhiều cuộc bãi công của
công nhân diễn ra. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn
quốc.
Các cuộc đấu tranh của công nhân VN trong những năm
Câu 8: Vì sao phong trào yêu nước đóng vai trò quan trọng với sự ra đời ĐCSVN?
Trả lời:
Xuất phát từ tình hình Việt Nam đang là một nước thuộc địa nửa PK, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, HCM
thấy rằng việc ra đời của ĐCS ở đây, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác – Leenin với phong trào công nhân thì
chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân còn non yếu. Do đó phải kết hợp cả với phong
trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; phong trào này đã diễn ra
liên tiếp, từ rất lâu trước khi có giai cấp công nhân và phong trào công nhân.
Yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc VN đã có từ rất lâu đời. Mỗi khi đất nước bị ngoại xâm,
phong trào yêu nước đều dâng cao, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân, toàn thể dân tộc đứng lên chống kẻ thù
chung để giành lại và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau khi thực dân Pháp thiết lập nền thống trị của chúng trên đất nước
ta, nhất là qua hia lần khai thác thuộc địa. Phong trào công nhân mới phát triển từ những năm 20 của thế kỷ XX.
Trong một nước thuộc địa, kinh tế lạc hậu như VN, phong trào yêu nước vẫn là phong trào rộng lớn nhất, lôi
cuốn giai cấp nông dân chiếm trên 90% dân số. Tham gia phong trào yêu nước còn có những giai cấp và tầng
lớp khác: giai cấp tiểu tư sản, tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc, những nhân sĩ yêu nước, một bộ phận quan lại PK
có tinh thần dân tộc chống đế quốc thực dân. Đây là điều khác biệt, không giống với các nước phương Tây. Ở
đây, phong trào công nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu không gắn bó với phong trào yêu nước, trở thành
nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng không mở rộng được cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và
đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi.
10

Ở một nước thuộc địa, chủ nghĩa Mác – Lênin phải được truyền bá vào phong trào công nhân, đồng thời
vào phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân đông đỏa, có như vậy nó mới có thể cắm rễ vào mảnh đất
hiện thực, mới có được sức sống mạnh mẽ và bền vững. Ngay đối với cách mạng ở các nước tư bản phát triển,
như Mác và Ăngghen đã nêu trong Tuyên ngôn của Đảng CS, giai cấp công nhân cũng không thể xa rời dân tộc,
mà “phải tự vươn lên trở thành giai cấp dân tộc”, “tự mình trở thành dân tộc” thì mới đưa cách mạng đến thắng
lợi ngay trên Tổ quốc mình. HCM càng hiểu ý nghĩa quan trọng của luận điểm đó đối với cách mạng ở các nước
thuộc địa. Vì vậy, ngay từ đầu, Người đã thấy phải gắn bó chặt chẽ phong trào công nhân với phong trào yêu
nước, phải nắm lấy vũ khí sắc bén là chủ nghĩa Mác – Lênin và ngọn cờ dân tộc.
Câu 9: So sánh con đường cứu nước của NAQ với những con đường của các sĩ phu đi
trước?
Trả lời:
Tiêu chí Các sĩ phu Nguyễn Ái Quốc
1. Phương hướng Độc lập DT gắn với phong kiến và
tư sản
Độc lập DT gắn với CNXH
2. Nhiệm vụ cách
mạng
Nhiệm vụ DT (đấu tranh gp DT) và
nhiệm vụ giai cấp (đấu tranh gp giai
cấp)
Vấn đề DT và vấn đề giai cấp
trong đó vấn đề DT là hàng đầu
3. Lực lượng
Cách mạng
Phong kiến hoặc nông dân, tiểu tư
sản, tư sản…
Đại đoàn kết toàn DT, giai cấp
công nhân lãnh đạo.
4. Phương pháp
CM

Bạo lực CM (Phan Bội Châu,
Hoàng Hoa Thám), bất bạo động
(Duy Tân - PCT)
Bạo lực cách mạng
5. Đoàn kết quốc
tế
Bước đầu đề cập (Phan Bội Châu) Khẳng định sự nhất thiết của đoàn
kết quốc tế, đoàn kết rộng rãi với
ND các nước thuộc địa, với giai
cấp vô sản trên TG đặc biệt là vô
sản Pháp.
6. Vị trí, vai trò
lãnh đạo của
Đảng CS
Chưa đề cập tới Điều kiện tiên quyết cho mọi
thắng lợi
Câu 10: Hệ thống quan điểm về CM giải phóng dân tộc của NAQ trong những năm 20 -
30?
Trả lời:
Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về nước. Quá
trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam. Hệ thống quan
điểm về CM giải phóng dân tộc của NAQ trong giai đoạn này cũng được thể hiện rõ qua các bài báo, các bài
phát biểu, diễn thuyết của Người.
- 4/1922, Hội xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) để tuyên truyền, vận động cách mạng ở các nước
thuộc địa. Tờ báo đã tạo “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức”, “đã làm cho nước
Pháp chân chính biết rõ những sự việc xảy ra trong các thuộc địa”, “đã thức tỉnh đồng bào chúng ta”,
“khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước Pháp tự do, bình đẳng, bác ái”.Ngoài việc viết
bài cho báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức các buổi diễn thuyết, viết bài cho báo Nhân
Đạo, Người cùng khổ, Đời sống công nhân,...
11

- 6/1923 – 11/1924, trong quãng thời gian Người ở Liên Xô, dự và tham luận trong các Đại hội, Hội nghị,
Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu sâu hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười,
lí luận về xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản kiểu mới, đồng thời khảo sát thực tế chế độ xã hội
chủ nghĩa, kinh nghiệm và thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô...Người đã viết nhiều bài báo
đăng trên báo Sự thật, Tạp chí Thư tín quốc ở Liên Xô, Tạp chí Cộng sản....
- Đồng thời, đây cũng là khoảng thời gian Người thu thập tư liệu để viết tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế
độ thực dân Pháp” nhằm vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi “dân bản xứ không cam chịu
nhục được mãi, phải vùng lên”. Đây là tác phẩm có giá tri lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời có giá
trị văn học. Đến năm 1925, Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française), được
xuất bản lần đầu tiên ở Pari.
- Nhưng đáng kể nhất trong số những sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, lý luận cho quá trình thành lập
Đảng là những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng Châu
được tập hợp thành cuốn Đường Kách Mệnh. Nội dung cơ bản của tác phẩm như sau:
• Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng. Tác
phẩm cũng xác định rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là dân tộc cách mạng và giai cấp
cách mạng. Người cho rằng phải làm dân tộc cách mạng vì thực dân Pháp bắt dân ta làm nô lệ,
nên toàn dân tộc phải hiệp lực đánh đuổi bọn xâm lược. Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ. Việt
Nam cũng phải làm giai cấp cách mạng vì chủ tư bản Tây bóc lột công nhân Việt Nam, chủ đồn
điền Tây chiếm đoạt ruộng đất của nông dân Việt Nam nên công nông phải đứng lên làm cách
mạng để đánh đuổi tư bản thực dân. Đây chính là điểm vận dụng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc
trên cơ sở ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga.
• Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, muốn xóa
bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thực sự thì phải qua hai
cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách
mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
• Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải
là việc của một hai người.
• Bốn là: Về phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách mạng
bạo lực, “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”

• Năm là: Đoàn kết quốc tế
• Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa ấy
(chủ nghĩa Mác – Lênin). Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn.
 Sáu điểm trên đây là tư tưởng cốt lõi trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
Từ lý luận và thực tiễn cách mạng, Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễn cách mạng nước nhà, lấy đó làm nền tảng để xây dựng một hệ thống luận điểm chính trị mà sau này phát
triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị của Đảng. Cương lĩnh đã xác định các vấn đề cơ
bản của CM VN:
- Phương hướng chiến lược của cách mạng VN là: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa CM:
• Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn PK; làm cho nước VN được hoàn
toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông
• Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của trư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm
12
của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
• Về văn hóa – XH: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền...., phổ thông giáo
dục theo công nông hóa
- Lực lượng CM: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo
làm thổ địa CM, đánh đổ bọn đại địa chủ và PK; phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công
hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư sản quốc gia; phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến...) thì phải
đánh đổ.
- Lãnh đạo CM: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng VN. Đảng là đội tiên phong của giai cấp

vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi
ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
- Quan hệ của CM VN với phong trào CM TG: CM VN là một bộ phận của CM TG, phải thực hành liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản TG, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Thực tiễn quá trình vận động của CM VN trong gần 80 năm qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính
cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng chính là sự hoàn
thiện quan điểm về CM giải phóng dân tộc của NAQ trong những năm 1920 – 1930.
PHẦN II:
Câu 11: So sánh Cương lĩnh chính trị (2-1930) với Luận cương chính trị (10-1930)?
Giải thích vì sao có sự khác nhau như vậy?
Trả lời:
*Điểm giống nhau:
- Phương hướng: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
- Nhiệm vụ: 2 nhiệm vụ cơ bản có mối quan hệ khăng khít với nhau
• Về vấn đề dân tộc: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho đất nước hoàn toàn độc lập
• Về vấn đề giai cấp: đánh đổ PK, giành lại ruộng đất cho dân cày, thực hiện cách mạng ruộng đất
triệt để
- Lực lượng: công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
- Phương pháp: dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM (kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang)
- Đoàn kết quốc tế: đều khẳng định CM VN là một bộ phận của CM TG
- Vai trò của Đảng: khẳng định: sự lãnh đạo của ĐCS là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng.
*Điểm khác nhau:
Cương lĩnh chính trị (2-1930) Luận cương chính trị (10-1930)
Nhiệ
m vụ
Đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng
đầu
Đặt nhiệm vụ chống PK, giành ruộng đất

cho dân cày lên hàng đầu; xác định: “vấn đề
thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền”
Lực
lượng
Tập trung lực lượng của toàn dân tộc.
Bộ phận nào chưa rõ mặt phản CM thì phải
lợi dụng hoặc giữ họ ở thế trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản CM thì phải đánh
đổ.
Giai cấp làm CM chỉ có công nhân và
nông dân
Nguyên nhân chủ yếu của sự khác nhau đó là:
13
- Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của XH thuộc địa, nửa PK VN.
- Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng ở thuộc địa, và lại chịu
ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế CS và một số đảng cộng sản trong thời gian đó.
 Chính vì vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã không chấp nhận những quan
điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của NAQ được nêu trong Đường Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt.
Câu 12: Trong hội nghị 10-1930, NAQ và tư tưởng của Người được đánh giá như thế
nào?
Trả lời:
Câu 13: Luận cương chính trị (10-1930) tác động như thế nào với phong trào CM vô
sản thời kì 30 – 35?
Trả lời:
Câu 14: Phân tích quá trình nhận thức và chỉ đạo thực hiện giải quyết mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ của Đảng 1930 - 1945?
Trả lời:
Từ Hội nghị BCHTW 10-1930 đến bản “Chương trình hành động của Đảng” 6-1932 và Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ I (3-1935) của Đảng, quan điểm, tư tưởng của Luận cương chính trị (thực chất là của Quốc tế
CS) đã được xác lập và giữ vai trò chủ đạo trong Đảng. Những tư tưởng, quan điểm đúng đắn của NAQ dù có
bảo lưu đã không được chấp nhận
Như vậy, vấn đề cơ bản nhất nhưng cũng khó khăn, phức tạp nhất trong đường lối chính trị của Đảng
lúc này là mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc, biểu hiện tập trung ở quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc – dân
chủ. Có giải quyết đúng đắn mối quan hệ này mới giải quyết đúng các vấn đề chiến lược khác của CM. Tuy
nhiên, cũng cần khẳng định luôn: trong toàn bộ quá trình giải quyết hai vấn đề này, dù từng giai đoạn có khác
nhau nhưng Đảng vẫn luôn khẳng định hai vấn đề dân tộc, dân chủ luôn gắn bó chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau.
*Giai đoạn 1930 – 1935:
- Ngay từ Hội nghị hợp nhất thành lập ĐCSVN (2-1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định
hai nhiệm vụ cơ bản của CM VN là thực hiện “tư sản dân quyền CM và thổ địa CM”, nói cách khác là
hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. Trong đó, Người cũng chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể của cách mạng tư sản
dân quyền và thổ địa CM.
• Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn PK; làm cho nước VN được hoàn toàn độc
lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông
• Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng...) của trư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh
quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật
ngày làm 8 giờ.
• Về văn hóa – XH: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền...., phổ thông giáo dục
theo công nông hóa
- Từ ngày 14 – 31/10/1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng
(Trung Quốc) do Trần Phú – người được Quốc tế CS phái về tăng cường cho Đảng chủ trì. Hội nghị
thông qua nhiều quyết định quan trọng: phê phán hội nghị hợp nhất chỉ chú trọng thống nhất mà không
đấu tranh với những tư tưởng chia rẽ, bè phái trong Đảng, chỉ nhấn mạnh đấu tranh dân tộc mà coi nhẹ
đấu tranh giai cấp, chia đất.... Từ đó quyết định đổi tên Đảng thành ĐCS Đông Dương, thủ tiêu Chính
cương, Sách lược vắn tắt của Đảng; thông qua Luận cương chính trị của Đảng.
14
Luận cương tháng 10-1930 đã phát triển và làm rõ thêm nhiều vấn đề chiến lược của CM VN, đó là

cuộc CM tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ phản đế và điền địa khi hoàn thành sẽ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không qua phát triển TBCN. Luận cương nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa nhiệm vụ chống đế quốc
và PK, coi vấn đề ruộng đất là “cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là “cơ sở để Đảng giành quyền lãnh
đạo dân cày”; nhấn mạnh vai trò của liên minh công – nông, của Đảng CS lãnh đạo những thuộc tính cụ thể và
của cách mạng bạo lực.
Nhưng Luận cương cũng có những hạn chế:
- Trong khi Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chủ trương tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc,
giải phóng dân tộc, thì Luận cương lại chủ trương trước hết tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, chống địa
chủ PK, chia đất, tranh thủ nông dân, sau đó mới tiến lên lãnh đạo toàn dân tộc chống đế quốc, giành
độc lập. Chủ trương này không đúng ở VN.
- Luận cương nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, vai trò của giai cấp công nhân và nông dân, đánh giá
thấp mặt tích cực, cường điệu mặt tiêu cực của các giai tầng trung gian (tư sản, tiểu tư sản), không thấy
sự cần thiết và khả năng tập hợp họ vào một mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc. Giai cấp Pk,địa
chủ bị liệt vào đối tượng phải đánh đổ
Nguyên nhân của hạn chế này là do bệnh ấu trĩ “tả” khuynh đang phổ biến trong các Đảng lớn của Quốc tế
CS khi đó, do Đảng mới ra đời, còn thiếu kinh nghiệm, không thấy mâu thuẫn hàng đầu ở VN là mâu thuẫn dân
tộc.
*Giai đoạn 1936 – 1939:
- Trong những năm 1936 – 1939, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi. Sự xuất hiện và
thống trị của chủ nghĩa phát xít ở Đức – Ý – Nhật là nguy cơ lớn nhất đe dọa nhân loại. Đại hội VII
Quốc tế CS (7-1935) chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất rộng rãi các lực lượng dân chủ, chống
phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ Liên Xô, bảo vệ dân chủ, hòa bình. Ở Pháp, Chính phủ bình dân tiến
bộ lên cầm quyền chủ trương nới lỏng chế độ thuộc địa. Bầu không khí chính trị ở Đông Dương đỡ ngột
ngạt hơn. ĐCS Đông Dương và phong trào cách mạng Đông Dương đã hồi phục.
- Trước tình hình đó, Ban chấp hành Trung ương ĐCS Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ 2 (7/1936),
lần 3 (3/1937), lần 4 (9/1937) và lần 5 (3/1938)... đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và
hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình CM nước ta. Trong đó, BCHTW xác định CM ở Đông
Dương vẫn là: “cách mạng tư sản dân quyền – phản đế và điền địa – lập chính quyền của công nông
bằng hình thức Xôviết, để dựu bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Song, xét rằng, cuộc vận
động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp,

lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp thiết trước mắt của
nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này
để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này. Từ đó,
Đảng xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phátxít, chống chiến tranh đế quốc, chống
bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Và cũng tại Hội nghị, BCHTW Đảng đã đưa ra những nhận thức mới về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
dân tộc và dân chủ.Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện các quyền
dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn kiện “Chung quanh vấn đề
chính sách mới” công bố tháng 10-1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không
nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần
phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy
có chỗ không xác đáng”. Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho
lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước
tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vần đề điền địa.
Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm
xong mục đích của cuộc vân động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt,
15
đồng thời, vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc, cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa.
“Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề
nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng
của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.
Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930
Cũng qua văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” của Đảng (11-1936) và các Hội nghị Trung ương
tiếp sau, Đảng chủ trương chuyển hướng về nhiệm vụ chính trị, hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh cho
thích hợp với tình hình mới. Nhiệm vụ phản đế và điền địa vẫn không thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ
trực tiếp. Trước mắt phải tập trung chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, cơm áo, hòa bình, dự bị
những điều kiện cho cuộc giải phóng dân tộc phát triển. Chuyển tất cả các hình thức tổ chức “đỏ” (Công hội đỏ,
Nông hội đỏ...) mang màu sắc chính trị, sang các tổ chức “tương tế”, “ái hữu” mang màu sắc kinh tế, tận dụng

tất cả các hình thức công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp để tập hợp quần chúng và đấu tranh.
Đồng thời vẫn duy trì tổ chức và hoạt động bí mật.
Đảng bước đầu điều chỉnh nhận thức về giải quyết quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược dân tộc, dân
chủ, cho rằng không nhất thiết phải chống PK trước rồi mới tiến lên chống đế quốc, giành độc lập, mà việc giải
quyết hai nhiệm vụ này thế nào là tùy điều kiện cụ thể. Đây là bước tiến quan trọng trong nhận thức, tư duy của
Đảng. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn và phức tạp, Đảng vừa hồi phục, phải tập trung vào nhiệm vụ trước mắt là
dân sinh, dân chủ nên sự điều chỉnh mới ở bước đầu.
*Giai đoạn 1939 – 1945:
- Ngày 1-9-1939, chiến tranh TG lần thứ II bùng nổ. Tất cả các dân tộc bị cuốn vào vòng chiến. Vấn đề
dân tộc, sự tồn vong của mỗi quốc gia được đặt ra cho tất cả các nước, các đảng chính trị.
Ở Pháp, Chính phủ Bình dân đổ, Chính phủ phản động Đalacđiê lên cầm quyền. Bọn phản động thuộc
địa thực hành chính sách thời chiến, ra sức bóc lột, đàn áp các dân tộc.
Mùa thu 1940, Nhật tràn vào Đông Dương, Pháp bỏ chạy, đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Đế
quốc Pháp và phát xít Nhật cấu kết lẫn nhua, đàn áp, bóc lột nhân dân Đông Dương đến tận xương tủy. Đời
sống nhân dân khốn cùng, “một cổ, hai tròng”, mâu thuẫn dân tộc ở Đông Dương sâu sắc hơn bao giờ hết.
Những biến động của tình hình quốc tế và trong nước là cơ sở khách quan để ĐCS Đông Dương từng
bước điều chỉnh chiến lược.
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai sắp nổ ra, Đảng đã rút vào hoạt động bí mật, chuyển trung tâm
công tác về nông thôn.
- Ngày 28/9/1939, trong “Thông báo gửi các cấp bộ Đảng” nhận định: hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến
bước đến vấn đề giải phóng dân tộc, vì lúc này, quyền lợi của tất cả các giai cấp đều bị cướp giật, vận
mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 6 (11/1939), Hội
nghị BCHTW Đảng lần thứ 7 (11/1940) và Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã chủ trương
điều chỉnh chiến lược “cách mạng tư sản dân quyền”. Nội dung chủ yếu của chủ trương điều chỉnh
chiến lược cách mạng như sau:
• Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc này là dân tộc giải phóng
• Tập trung giải quyết nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc
lập dân tộc, vì chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của XH thuộc địa nửa PK lên đỉnh
điểm, đòi hỏi phải được giải quyết. Kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất của cách mạng Đông Dương
lúc này là đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho

đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Nhiệm vụ dân chủ - ruộng đất tạm gác lại, chỉ giải quyết có mức độ để tập trung vào nhiệm vụ giải phóng
dân tộc.
16
• Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Mỗi
dân tộc ở Đông Dương sẽ phải tự giành độc lập, tự do và trên cơ sở đã độc lập, tự do
mà tự quyết vấn đề ở lại, hay tách ra khỏi liên bang Đông Dương. Ở Lào thành lập Mặt
trận Ai Lao độc lập đồng minh, ở Campuchia thành lập Cao Miên độc lập đồng minh để
tiến hành cuộc giải phóng dân tộc ở mỗi nước. Sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng
minh
• Chuyển hướng hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh: từ đấu tranh chính trị công khai
sang đấu tranh bí mật, bất hợp pháp; ra sức chuẩn bị lực lượng cách mạng, chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền là nhiệm vụ hàng ngày của toàn Đảng, toàn dân
trong giai đoạn cách mạng hiện tại
• Hội nghị dự báo thời cơ khởi nghĩa. Phải đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền
ở từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
 Sự điều chỉnh chiến lược trên đây của BCHTW phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của
Đảng, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương có khả năng phát huy cao độ
tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
- Đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định đường lối chính trị, trong đó
mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được
nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng.
- Đây là sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân
tộc. Tư tưởng HCM cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của CM VN.
- Sự điều chỉnh chiến lược CM đúng đắn của Đảng, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của
phong trào dân tộc, trực tiếp quyết định thắng lợi của CMT8.
Câu 15: Làm rõ quá trình nhận thức và chỉ đạo tập hợp lực lượng của Đảng 1930

-1945?
Trả lời:
Một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của một cuộc cách mạng, ngoài sự lãnh
đạo sáng suốt, kịp thời của ĐCS, đó chính là vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng. Ở những thời điểm lịch sử
khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, Đảng ta lại có những điều chỉnh về nhiệm vụ, hình thức tổ chức, phương pháp
đấu tranh.... cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng cũng vậy, ở từng giai
đoạn lại có những sự điều chỉnh nhất định.
*Giai đoạn 1930 -1935:
- Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thống nhất thành lập Đảng,
NAQ đã chỉ rõ: Đảng phải thu phục phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo làm thổ địa CM, đánh đổ bọn đại địa chủ và PK; phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày
(công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư sản quốc gia; phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối
với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng,
ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến...) thì
phải đánh đổ. Người cũng nhấn mạnh: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng VN. Đảng là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
Sở dĩ như vậy là vì đối với NAQ, tinh thần của Người chính là “thêm bạn bớt thù” , càng nhiều bạn thì
càng tốt. Có thể nói đây là điểm sáng tạo trong Cương lĩnh của NAQ, là tư tưởng hết sức khoa học, tiến bộ, trở
thành tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình CM VN. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có
thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc,
17
giai cấp. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn
được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng bởi “đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”.
- Tuy nhiên, trong Luận cương chính trị (10/1930), tại Hội nghị lần thứ nhất của BCH Trung ương họp ở
Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú – người được Quốc tế CS phái về tăng cường cho Đảng, cũng
là học trò của NAQ chủ trì, lại cho rằng giai cấp làm CM chỉ có nông dân và công nhân. Luận cương đã

chỉ rõ, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương
nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về
phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư
sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách
mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế
quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ
công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi. Đây cũng là một trong những hạn chế
lớn nhất của Luận cương (Trần Phú) so với Cương lĩnh chính trị (NAQ). Luận cương đã đánh giá không
đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy
được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc,
từ đó, Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc
đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai, thậm chí còn đẩy họ về phe phản CM.
*Giai đoạn 1936 – 1939:
Trong những năm 1936 – 1939, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi. Sự xuất hiện và thống trị
của chủ nghĩa phát xít ở Đức – Ý – Nhật là nguy cơ lớn nhất đe dọa nhân loại. Đại hội VII Quốc tế CS (7-1935)
chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất rộng rãi các lực lượng dân chủ, chống phát xít, chống chiến tranh, bảo
vệ Liên Xô, bảo vệ dân chủ, hòa bình. Ở Pháp, Chính phủ bình dân tiến bộ lên cầm quyền chủ trương nới lỏng
chế độ thuộc địa. Bầu không khí chính trị ở Đông Dương đỡ ngột ngạt hơn. ĐCS Đông Dương và phong trào
cách mạng Đông Dương đã hồi phục.
Trước những chuyển biến mới về tình hình trong nước và quốc tế, Hội nghị BCHTW ĐCS Đông Dương đã
họp lần hai (7/1936), lần 3 (3/1937), lần 4 (9/1937) và lần 5 (3/1938)... đã đề ra những chủ trương mới về chính
trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta. Tại đây, một lần nữa vấn đề
tập hợp lực lượng cách mạng lại được đặt ra. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm
các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên
minh công – nông. Để phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng phản đế đã được đổi tên thành Mặt trận dân chủ
Đông Dương.
Ngoài ra, vấn đề đoàn kết quốc tế cũng được hết sức chú trọng. Để tập trung, cô lập và chia mũi nhọn đấu
tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng ở Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh,
thì không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và ĐCS Pháp, “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”,

mà còn phải đề ra khẩu hiệu “Ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp” để cùng nhau chống lại kẻ thù chung
là bọn phátxít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
*Giai đoạn 1939 – 1945:
- Ngày 1-9-1939, chiến tranh TG lần thứ II bùng nổ. Tất cả các dân tộc bị cuốn vào vòng chiến. Vấn đề
dân tộc, sự tồn vong của mỗi quốc gia được đặt ra cho tất cả các nước, các đảng chính trị.
Ở Pháp, Chính phủ Bình dân đổ, Chính phủ phản động Đalacđiê lên cầm quyền. Bọn phản động thuộc
địa thực hành chính sách thời chiến, ra sức bóc lột, đàn áp các dân tộc.
Mùa thu 1940, Nhật tràn vào Đông Dương, Pháp bỏ chạy, đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Đế
quốc Pháp và phát xít Nhật cấu kết lẫn nhua, đàn áp, bóc lột nhân dân Đông Dương đến tận xương tủy. Đời
sống nhân dân khốn cùng, “một cổ, hai tròng”, mâu thuẫn dân tộc ở Đông Dương sâu sắc hơn bao giờ hết.
Những biến động của tình hình quốc tế và trong nước là cơ sở khách quan để ĐCS Đông Dương từng
bước điều chỉnh chiến lược.
18
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai sắp nổ ra, Đảng đã rút vào hoạt động bí mật, chuyển trung tâm
công tác về nông thôn.
- Ngày 28/9/1939, trong “Thông báo gửi các cấp bộ Đảng” nhận định: hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến
bước đến vấn đề giải phóng dân tộc, vì lúc này, quyền lợi của tất cả các giai cấp đều bị cướp giật, vận
mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 6 (11/1939), Hội
nghị BCHTW Đảng lần thứ 7 (11/1940) và Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho phù hợp với tình hình mới của đất nước. Đảng đã chủ trương
thống nhất lực lượng cách mạng, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản
xứ, trung tiểu địa chủ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều tổ chức vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi nhằm giải phóng dân tộc, cứu Tổ quốc. Muốn vậy, phải lập ra một mặt trận mà tên gọi của nó có sức
hiệu triệu mạnh mẽ chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước trong mọi tầng lớp nhân dân. Đảng quyết
định thay thế Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thành lập “ Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh” gọi tắt là Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải
phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập
Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu

quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc.....) để vận động, thu hút mọi người dân yêu
nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Nhờ sự điều chỉnh kịp thời về đường lối đấu tranh, tập trung lực lượng...phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của
từng giai đoạn, phong trào đấu tranh của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Với tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo, Đảng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nội sinh, tạo nên
sức mạnh to lớn để chiến thắng mọi thiên tai địch họa, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc
đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trên tinh
thần quốc tế vô sản, Đảng ta cũng luôn chú trọng việc phải gắn đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế. Coi CM
VN nói riêng, CM Đông Dương nói chung là một bộ phận của CM vô sản thế giới, vì thế giới vô sản Đông
Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên
lạc với phong trào CM ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc
đấu tranh cách mạng ở Đông Dương. Như vậy là từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại
đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng VN, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố hết sức quan trọng
giúp cho cách mạng VN đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 16: Phân tích vị trí và mối quan hệ của CM XHDC miền Bắc và CM DCND miền Nam?
Trả lời:
Sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến mới. Đất nước ta bị chia cắt
làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc
Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta. Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau, ở hai miền đất
nước có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng VN sau tháng 7-1954. Đặc điểm bao
trùm và các thuận lợi, khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối chiến lược chung
cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
Để giải quyết vấn đề này, tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng được xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta
hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và
thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định:

19
“Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính
chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau....nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện
thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong
kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”.
“Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị quần chúng là chủ yếu,
kết hợp lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách
mạng của nhân dân”. “Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hòa bình phát triển, tức
là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng.
Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960. Đại hội đã hoàn chỉnh
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đảng chỉ ra: nhiệm vụ cách mạng ở
miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết
yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó đều nhằm giải quyết
mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu
chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ Quốc”. Do vậy, “hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết
với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”. Nếu cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng
tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng VN và đối với
sự nghiệp thống nhất nước nhà. Thì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Sau này, khi tình hình cách mạng VN thay đổi, trước hành động gây “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam,
tiến hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ
12 (12/1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.
Hội nghị cũng chỉ ra nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là

nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc XHCN là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải
đánh bại cuộc hiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi
mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên không tách rời, mà
mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu chng của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”.
Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước VN và phù hợp với
tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước
và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và
Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau này, đánh giá về vai trò của miền Bắc XHCN trong việc thực hiện hai chiến lược CM kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) viết: không thể nào có thắng lợi
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN, miền Bắc đã dốc vào chiến
tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn
cứ địa cách mạng của cả nước....
Nhìn lại chặng đường lịch sử gian khổ nhưng vẻ vang, chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trong của
CM XHDC miền Bắc trong công cuộc giành độc lập, tự do cho dân tộc.
20
- Qua những năm cải tạo và xây dựng, miền Bắc đã trở thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước, với chế
độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế quốc phòng vững mạnh. Đó là cơ sở vững chắc để Đảng và
nhân dân ta củng cố và nâng cao quyết tâm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược
- Miền Bắc trực tiếp chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, góp phần trực tiếp đánh bại chiến lược Chiến
tranh cục bộ và VN hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ.
- Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ tập trung phá hoại tiềm lực của miền Bắc. Quân dân
miền Bắc đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất và đã giành
được những thắng lợi lớn: đảm bảo việc chi viện cho tiền tuyến, giữ vững hậu phương chiến lược, lần
lượt đánh bại các bước leo thang của địch mà đỉnh cao là đánh thắng cuộc tập kích đường không chiến
lược bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12-1972, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari
- Trong chiến tranh ác liệt, miền Bắc vẫn được xây dựng, củng cố vững chắc. Với khẩu hiệu: “Thóc

không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. “Tất cả cho tiền tuyến”, miền Bắc đã dốc cả sức
người, sức của cho miền Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là căn cứ địa của cách mạng cả nước, là hậu phương lớn của
tiền tuyến lớn miền Nam, xứng đáng với vai trò “quyết định nhất” đối với cuộc chống Mỹ, cứu nước.
CHƯƠNG III:
Câu 17: Phân tích đặc điểm cơ bản mô hình kinh tế tổng quát – KT VN thời quá độ?
Trả lời:
Đại hội IX của Đảng (4/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận
thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một
chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN.
Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
CNXH”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định
hướng XHCN” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm
mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một XH do nhân dân làm chủ, nhân ái, có
văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc”.
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN thì trước hết đó không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
cũng không phải là kinh tế thị trường TBCN và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, vì chưa có
đầy đủ các yếu tố XHCN. Tính “định hướng XHCN” làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với
kinh tế thị trường TBCN.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN
trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở 4 điểm:
- Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và
từng bước khá giả hơn.

- Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế; phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế , định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân
21
giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt khác, tiến lên CNXH đặt ra yêu cầu nền kinh
tế phải dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng XH, tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ với phát triển XH, văn hóa, giáo dục và đào tạo. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng
XHCN được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi
XH, ngoài ra, còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
- Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ XH của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của
Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 Đại hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc
đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực
của nền kinh tế”.
Câu 18: Phân tích vai trò của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức đơn vị XH trong
hệ thống chính trị VN?
Trả lời:
Trước tình hình mới của đất nước, hệ thống chính trị vô sản ở nước ta đã tỏ ra không còn phù hợp, bộc lộ
nhiều khuyết điểm yếu kém. Bộ máy nhà nước và kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp
là nguyên nhân trực tiếp. Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa đáp
ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản và cấp bách. Những hạn chế, sai lầm trong tổ
chức bộ máy nhà nước cùng những yêu cầu của công cuộc đổi mới, đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống
chuyên chính vô sản thành hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới; phát huy tối đa vai trò của Đảng, Nhà nước,

Mặt trận TQ và các tổ chức đơn vị XH.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) khẳng định: “Toàn bộ tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân”. Trong văn kiện cũng nêu lên những nhận
thức mới về vai trò của Đảng, Nhà nước, Mặt trận TQ và các tổ chức XH trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó,
Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị , vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp, pháp luật. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo; có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện
đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ Quốc VN là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá
nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp XH, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc phản biện, giám sát
XH, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người
làm chủ XH, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp ở cơ sở thông
qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ thông qua hình thức tự quản.
Cương lĩnh cũng đã nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị. ĐCS cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng quan tâm xây
dựng củng cố Nhà nước, Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể chính trị - XH, phát huy vai trò của các thành tố này
trong quản lý, điều hành XH. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.
22
(Việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa; tức là xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ XH thể hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ nhân
dân lao động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, XH, làm chủ XH, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản
thân.
- Nhà nước trong thời kì quá độ là “nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ XHCN”, là
một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức
thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của XH. Muốn thế, Nhà
nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân, vì dân, đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách mạng, xây
dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới.

- Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động XH trong điều kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt
động của Nhà nước XHCN.
- Nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công
việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về CNXH. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở
khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ
XHCN cho quần chúng. Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới hình thức tổ chức, nội dung và phương
hướng hoạt động cho phù hợp với điều kiện mới. Hoạt động của các đoàn thể phải năng động, nhạy bén
với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, khắc phục bệnh quan liêu, giản đơn và khô cứng trong
tổ chức và trong sinh hoạt. Mở rộng các hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời sống và
nhu cầu sinh hoạt văn hóa để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động XH, chính trị
- Xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là cơ chế chung trong quản
lý toàn bộ XH.)
Câu 19: Phân tích vai trò nguồn lực con người trong quá trình CNH – HĐH? Vì sao đó là
động lực cho phát triển nhanh và bền vững?
Trả lời
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để
tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế
chính trị và quản lý nhà nước thì con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu
cầu của CNH, HĐH cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.
CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và
công nghệ, khoa học quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Ý thức được tầm
quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế đất nước, trong ĐH X của Đảng đặt ra yêu cầu cần
phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ
lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.
Chính vì vậy, phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Câu 20: Phân tích quan điểm ĐH IX: “Con đường CNH ở VN cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước”? Tại sao CNH VN phải gắn với phát triển KT tri thức và hội

nhập KT quốc tế?
Trả lời:
Từ ĐH VIII (6/1966) đến ĐH IX (4/2001) và ĐH X (4/2006), Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một
số điểm về CNH. Trong đó, Đảng khẳng định: con đường CNH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với
các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
23
Từ TK XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành CNH. Khi đó, CNH được hiểu là quá trình thay thế
lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X nhận định: “khoa
học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất”. Cuộc CM khoa học – công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành CNH theo kiểu rút
ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp CNH với HĐH.
Nước ta thực hiện CNH, HĐH khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần
thiết không trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển
kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội, duy ý chí. Một nước đi sau có điều
kiện tận dụng những kinh nghiệm ký thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của
thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian. Vì vậy, Đại hội X chỉ rõ: “Chúng ta tranh thủ các cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của CNH, HĐH”.
Ngoài ra, CNH, HĐH nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu
phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của thế giới.... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế để tiêu thụ các sản
phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và CNH, HĐH nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, tiến hành CNH theo kiểu rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu
cầu, như: phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa phải có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy

những lợi thế của đất nước, gắn CNH với HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ
và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH.
Câu 25: Phân tích quan điểm ĐH VIII: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển và suốt quá trình phát triển”
Trả lời:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững. Chỉ có như vậy mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng.... Mục tiêu đó thể hiện
sự phát triển vì con người, mọi con người đều được hưởng thành quả của phát triển.
Câu 21: Phân tích quan điểm HNTW 2: “Cùng với giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ
là quốc sách hàng đầu”? giải pháp nào để giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu?
Trả lời:
Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996) khẳng định: khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt
trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó, phải coi sự nghiệp giáo dục – đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, xây dựng đội ngũ trí thức cho sự phát
triển nền kinh tế tri thức, là động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập
dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân
tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh.
24
Trong nền kinh tế, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH, HĐH. Khoa học và công
nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc
độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học,
công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát
triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua
sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta đã khẳng định: giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và
công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu. Để thực hiện quốc sách đó, cần:
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp
dạy và học, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục VN.
- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ
thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, xây dựng hệ thống học tập cho mọi người với hình thức đa
dạng, linh hoạt, hiệu quả, công bằng
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, đảm bảo tính khoa học, cơ bản, phù hợp
với tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể ở VN
- Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực, hợp
lí về trình độ, ngành nghề, vùng miền....; chú trọng bồi dưỡng nhân tài
- Đảm bảo đủ và nâng cao chất lượng giáo viên ở tất cả các bậc học; đổi mới phương pháp dạy và học,
phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học; cải tiến nội dung, phương pháp thi cử nhằm đánh giá
đúng chất lượng người học
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo
- Phát triển khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ
- Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
-
Câu 22: Vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa VN trong bồi dưỡng phát huy nhân tố
con người? (ko đầy đủ)
Trả lời:
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiên, vốn,.... Những
nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có
khả năng tái sinh và tựu sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả
nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch HCM đã chỉ rõ: muốn xây dựng
CNXH phải có con người XHCN.
Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của Liên hợp quốc) đưa ra những tiêu chí mới để đánh giá
mức độ phát triển của quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con người, một trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới

này là thành tựu giáo dục. Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toand dân
nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. “Tài nguyên” con người, cái
vốn con người, nói cho cùng là vốn trí tuệ của dân tộc. Như vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài
nguyên người”.
Câu 23: Phân tích quan điểm của HNTW 9, khóa 10 (2004): “Phát triển văn hóa đồng
bộ phát triển kinh tế”?
Trả lời:
*Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển
25

×