Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.71 KB, 24 trang )

Sự cần thiết phải quản lý thuế giá
trị gia tăng đối với thành phần kinh
tế cá thể.
I. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế
thị trờng:
1. Khái niệm, đặc điểm của Thuế:
Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nớc và sự phát triển tồn
tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nớc sử dụng thuế nh một công cụ
để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Lịch sử
càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình thức thuế khoá và pháp luật
thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh tế thị
trờng, các khoản đóng góp của ngời dân cho Nhà nớc đợc xác định và đợc
quy định công khai bằng luật pháp của Nhà nớc .
Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nớc.
Cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nớc, phạm vi sử dụng quỹ tiền tệ
của Nhà nớc ngày càng mở rộng. Nó không chỉ đảm bảo chi tiêu để duy trì
quyền lực của bộ máy Nhà nớc, mà còn để chi tiêu cho các nhu cầu phúc lợi
chung và kinh tế. Nh vậy gắn liền với Nhà nớc, thuế luôn là một vấn đề thời
sự nóng bỏng đối với các hoạt động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân c.
Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dới nhiều hình thức khác
nhau, nhng đứng trên góc độ tài chính, có thể xem xét thuế dới khái niệm
nh sau:
Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhng phi
hình sự của Nhà nớc nhằm động viên một số bộ phận thu nhập từ lao
động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ tài sản
của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà nớc để trang
trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nớc và các nhu cầu chung của xã
hội. Các khoản động viên qua thuế đợc thể chế hoá bằng luật.
Với nhận thức nh vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với các
hình thức phân phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây:


Đặc điểm thứ nhất
:
Thuế là một biện pháp tài chính của
Nhà nớc mang tính quyền lực, tính cỡng chế, tính pháp lý cao nhng
sự bắt buộc này là phi hình sự.
Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nớc là quá trình chuyển
đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành
quyền sở hữu của Nhà nớc. Do đó Nhà nớc phải dùng quyền lực để thực hiện
quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự bắt buộc là một tất yếu khách
quan, nhng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp nhân không gây
cản trở cho xã hội nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói
việc đánh thuế không mang tính hình phạt.
Đặc điểm này đợc thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc
đóng góp thuế cho nhà nớc đợc coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối
với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo những luật thuế đ-
ợc cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cỡng chế
theo những hình thức nhất định.

*
Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nớc mang
tính bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn đợc xác lập trên nền tảng kinh
tế-xã hội của ngời làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế bao giờ cũng chứa
đựng các yếu tố kinh tế xã hội.
+ Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trớc hết phải kể đến thu nhập
bình quân đầu ngời của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của
cơ cấu kinh tế đó, cũng nh chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nớc. Cùng với
yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nớc nhằm thực
hiện các chức năng kinh tế của mình.
+ Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, tập
quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng nh đời sống thực tế của các thành

viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực hiện phân phối lại
thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội.
Nh vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ
thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà nớc và các vấn đề kinh tế, xã hội của
quốc gia đó.

*
Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức
thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lợng và khoản thu mà nhà n-
ớc thu từ công dân đó nh là một khoản vay mợn. Nó sẽ đợc hoàn trả lại cho
ngời nộp thuế thông qua cơ chế đầu t của Ngân sách nhà nớc cho việc sản
xuất và cung cấp hàng hoá công cộng.
Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí đợc
coi là một khoản đối giá giữa Nhà nớc với công dân, khi công dân thừa hởng
những dịch vụ công cộng do nhà nớc cung cấp phải trả một phần thu nhập
của mình cho nhà nớc. Tuy nhiên việc trao đổi này thờng không tuân thủ
theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trờng.
Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nớc, nó đợc thực
thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra.
Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trờng vai trò của Nhà nớc ngày càng trở nên
quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí không thể thiếu đợc trong
công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
2. Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trờng:
Sử dụng cơ chế thị trờng để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền kinh tế
(sản xuất cái gì, nh thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân loại, cơ chế
thị trờng thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển, kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lợng hiệu quả,
thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập
trung hoá sản xuất.

Bên cạnh những u điểm đó, cơ chế thị trờng có nhợc điểm là gây cho xã
hội những lãng phí về lao động, tài nguyên, vốn dẫn đến độc quyền thủ tiêu
cạnh tranh. Với cơ chế phân phối qua thị trờng thờng khoét sâu hố ngăn cách
giữa ngời giầu và ngời nghèo, tạo sự bất ổn định về kinh tế xã hội.
Từ những u, nhợc điểm đó cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nớc
vào quá trình kinh tế -xã hội để phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị
trờng và hạn chế tối đa những nhợc điểm của chúng. Để quản lý, điều hành
vĩ mô nền kinh tế xã hội, Nhà nớc sử dụng nhiều công cụ nh: Kế hoặch hoá,
pháp luật, các chính sách tài chính tiền tệ..vv.. Trong các công cụ trên thì
chính sách tài chính tiền tệ đóng vai trò quan trọng nhất và Thuế là một công
cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ, thuế đợc nhà nớc sử dụng để
thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội.
Có thể thấy rõ vai trò của Thuế nổi bật ở các mặt sau:
* Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nớc:
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn
thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nớc
đều đợc đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác
nh: vay mợn, viện trợ nớc ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác..vv.. Song
thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc
bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế đợc coi là khoản thu quan trọng nhất vì
khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì
khoản thu này càng tăng. ở nớc ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ
yếu của Ngân sách Nhà nớc từ năm 1990. Điều này đợc thể hiện qua tỷ trọng
số thuế trong tổng thu ngân sách .
Biều 1: Tình hình tỉ lệ thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà nớc ta
trong thời gian qua ( Tài liệu của Tổng cục thuế ).
Năm Tổng số thuế và phí
( tỷ đồng)
% So với tổng thu
NSNN

% So với GDP
1990 5906 73.7 14.0
1991 9844 92.7 12.83
1992 18514 88.0 16.75
1993 28695 90.5 21.0
1994 36629 89.6 21.51
Qua biểu trên ta thấy số thu thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu trong
tổng thu NSNN và tăng nhanh qua các năm, đã bảo đảm về cơ bản yêu cầu
chi thờng xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm bội chi ngân sách, giảm
lạm phát, từng bớc góp phần ổn định trật tự xã hội, giành một phần để tăng
chi cho tích luỹ. Nh vậy, chứng tỏ thuế là nguồn thu quan trọng nhất của
NSNN.

*
Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của
Nhà nớc:
Chính sách thuế đợc đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần
cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng
việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hớng dẫn và khuyến khích phát triển sản
xuất, mở rộng lu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hớng phát
triển của kế hoạch nhà nớc, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt
mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, hớng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhiệm
vụ trọng tâm của mọi chính phủ. Sự thành công hay thất bại của việc quản lý
Nhà nớc, nền kinh tế là giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Trong nền
kinh tế thị trờng hiện đại, ngời ta thờng xác định 4 mục tiêu cơ bản của kinh
tế vĩ mô mà mọi chính phủ phải theo đuổi. Bốn mục tiêu đó là:
- Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế một cách hợp lý .
- Tạo đợc công ăn việc làm đầy đủ cho ngời lao động.
- ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát.

-Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức quan
trọng nhằm biến 4 mục tiêu đó thành hiện thực.
1. Thuế kích thích sự tăng tr ởng kinh tế, tạo công ăn việc làm:
Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng
mà nhà nớc sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồn hai
mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nớc đã sử dụng chính sách thuế một cách
linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung-cầu
nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc trng vốn có của nền kinh tế
thị trờng.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu t ngừng trệ, sản xuất và tiêu
dùng đều giảm thì nhà nớc dùng thuế để kích thích đầu t và khuyến khích
tiêu dùng.
- Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản
xuất ra để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu t vào sản
xuất.
- Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu
dùng.
- Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lu giữ vốn không đa vào đầu
t, có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu
nhập về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đa vốn vào đầu t,
sản xuất kinh doanh.
Khi nền kinh tế hng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế
nóng phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà nớc dùng
thuế để giảm tốc độ đầu t ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng của xã hội. Song
việc tăng thuế phải đợc xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo vừa
tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Nh vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hởng rất lớn đến nền
kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trờng của Nhà nớc. Thông qua thuế,
Nhà nớc thực hiện định hớng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định h-

ớng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các
ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và
thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trờng xảy ra các chu kỳ
kinh doanh đó là chu kỳ dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ
lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm,
lạm phát ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng bền vững là hớng
phấn đấu nỗ lực của mọi chính phủ nhằm san bằng chu kỳ kinh doanh, đa
giá cả về mức ổn định.
2. Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp
phần đảm bảo công bằng xã hội:
Kinh tế thị trờng làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này
có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy,
cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự
phân hoá này, làm lành mạnh xã hội.
Nhà nớc dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa ngời giàu và ngời
nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua
thuế thu nhập, Nhà nớc thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền
lơng và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã
hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là
các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia
tăng.
Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho ng -
ời nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng đợc giảm bớt. Trái lại những
mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ
phận thu nhập của ngời giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ
thuế để điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng
điều tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm
khả năng tăng trởng kinh tế của đất nớc.
3. Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát:
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng

hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế đợc sử dụng để điều chỉnh
lạm phát, ổn định giá cả thị trờng. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nớc dùng
thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm
thuế thu nhập để kích thích đầu t sản xuất ra nhiều khối lợng sản phẩm nhiều
hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu
lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển
kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nớc dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng
cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
4. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong n ớc và tạo điều
kiện hoà nhập nền kinh tế thế giới:
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nớc tránh khỏi sự cạnh tranh
khốc kiệt từ bên ngoài đợc coi là hết sức cần thiết đối với các nớc. Điều này
đợc thể hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất
trong nớc phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nớc đánh
thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất
khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh
thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nớc cha sản
xuất đợc và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị
trong nớc đã sản xuất đợc hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.
Hiện nay, xu hớng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong
khu vực và trên thế giới. Sự u đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc
tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa một số
quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Trớc sự đổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trờng đòi hỏi hàng loạt các
chính sách kinh tế, tài chính phải thay đổi cho phù hợp, trong đó có chính
sách thuế khoá. Kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá IX nớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam đã thông qua hai luật thuế quan trọng là Luật thuế Giá trị gia
tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/1999
thay thế cho Luật thuế doanh thu, lợi tức. Vấn đề đặt ra là ngành thuế cũng
nh các đối tợng sản xuất kinh doanh phải nắm vững và thực hiện nghiêm

chỉnh 2 luật thuế này giúp cho Thuế ngày càng có sức khả thi, hiệu quả hơn
trong nền kinh tế thị trờng.
II. Sự cần thiết phảI áp dụng thuế thuế Giá trị
gia tăng ở nớc ta hiện nay:
1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng thay cho
thuế Doanh thu:
Chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội và nguồn thu
cho NSNN. Do đó, Nhà nớc có trách nhiệm quan tâm, tạo môi trờng thuận
lợi cho sản xuất phát triển, lu thông đợc thông suốt. Một môi trờng đầu t đợc
coi là thuận lợi nếu trong đó, những cơ chế chính sách đợc quy định phù
hợp, rõ ràng, ổn định, ít có biến động để tạo cho doanh nghiệp yên tâm bỏ
vốn đầu t phát triển sản xuất, kinh doanh.
ở nớc ta, đến thời điểm này, Nhà nớc thấy cần thiết phải áp dụng
thuế Giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu vì các lý do sau:
Với Việt Nam, Thuế doanh thu đã đợc áp dụng từ rất lâu, trớc đây có
tên là Thuế doanh nghiệp, từ khi cải cách thuế bớc một (từ năm 1990) đợc
đổi tên là Thuế doanh thu. Thuế doanh thu có đặc trng cơ bản là có nhiều
mức thuế suất, phân biệt theo nghành hàng và mặt hàng. Thuế thu hàng
tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng, không có khấu trừ thuế đã nộp ở
khâu trớc. Thuế suất đợc quy định thấp.

×