Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Những nguyên lý cơ bản về bảo đảm tiền vay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.16 KB, 23 trang )

Những nguyên lý cơ bản về bảo đảm tiền vay
1. Bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng thơng mại.
1.1. Khái niệm về bảo đảm tiền vay
Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển nh hiện nay, hệ thống ngân
hàng thơng mại đã và đang từng bớc lớn mạnh không ngừng cả về chất và lợng,
đồng thời xuất hiện nhiều hoạt động đa dạng và phong phú hơn, tạo nên một thị
trờng tín dụng sôi động và náo nhiệt. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đồng
nghĩa với việc tăng tính cạnh tranh giữa các ngân hàng trong quá trình cung ứng
sản phẩm cũng nh thu hút nguồn vốn. Điều này yêu cầu các ngân hàng phải
nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lợng hoạt động của mình để đáp ứng đ-
ợc những đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Nhng môi trờng cạnh tranh
càng lớn cũng sẽ tiềm ẩn khả năng rủi ro cao, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng thơng mại. Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro trong hoạt động tín
dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan có thể đề phòng chứ không thể loại
trừ, nhng lại có ảnh hởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng.
Hoạt động tín dụng nh chúng ta đã biếtlà việc tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Theo đó, nếu nh nguyên tắc hoàn
trả bị vi phạm thì rủi ro tín dụng xảy ra. Đó chính là tình trạng ngời đi vay không
có khả năng hoàn trả đợc hoặc lãi, hoặc gốc hoặc cả lãi và gốc một cách đầy đủ,
đúng hạn. Chính vì vậy, quan hệ tín dụng thờng đợc thể hiện trong các hợp đồng
tín dụng nhằm đa ra các điều khoản thi hành, các cam kết thực hiện một cách tự
nguyện bình đẳng giữa ngời cho vay và ngời đi vay. Hợp đồng tín dụng này chính
là cơ sở pháp lý để thực hiện các nghĩa vụ của hai bên khi tham gia hoạt động tín
dụng. Nó cũng là cơ sở pháp lý để thực hiện các bảo đảm tín dụng hay còn gọi là
bảo đảm tiền vay. Nh vậy bảo đảm tiền vay đợc hình thành trên cơ sở từ hợp đồng
tín dụng đã đợc thông qua của chủ thể tham gia hoạt động tín dụng không nằm
ngoài mục tiêu chính của ngân hàng là an toàn và sinh lợi. Từ cách hiểu trên ta có
thể thấy bảo đảm tiền vay chính là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp đối với
khách hàng để khoản vay có thể trở về với ngân hàng một cách an toàn và có lợi.


Hiểu một cách đơn giản, bảo đảm tiền vay là đảm bảo cho khoản tiền ngân hàng
phát ra để cho vay có khả năng thu hồi đợc khi đến hạn.
Theo Nghị định 178/1999/NĐ_CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng thì Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho
khách hàng vay. Nh vậy, thực chất bảo đảm tiền vay là một trong những biện
pháp để phòng ngừa rủi ro của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng đa ra
các hình thức bảo đảm thích hợp áp dụng cho từng đối tợng khách hàng và biện
pháp xử lý các bảo đảm đó nhằm hạn chế tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.
1.2. Sự cần thiết của bảo đảm tiền vay.
Ngân hàng thơng mại đợc hiểu là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ với ba hoạt động chính là nhận gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
toán. Trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất, đem lại nguồn thu chủ
yếu cho ngân hàng nhng lại tiềm ẩn rủi ro cao nhất vì nó liên quan đến chính đối
tợng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ. Trong quan hệ tín dụng này thì đã có sự
tách biệt giữa ngời sở hữu và ngời sử dụng tiền tệ, do đó việc quản lý lợng tiền
khi đã phát ra để cho vay là rất khó khăn. Rủi ro khi khoản cho vay không thu hồi
lại đợc gốc và lãi sẽ làm cho ngân hàng mất đi khả năng thanh toán của mình, tức
là ngân hàng cũng không trả đợc nợ mà ngân hàng đã vay khách hàng của
mình để cho vay. Nếu tổn thất này là nặng nề, khả năng thanh toán của ngân hàng
hoàn toàn không đáp ứng đợc yêu cầu của khách hàng, sẽ có thể dẫn đến sự sụp
đổ của một ngân hàng nói riêng và của cả hệ thống ngân hàng nói chung, gây ảnh
hởng không nhỏ đến tình hình kinh tế trong nớc và quốc tế.
Có thể thấy đợc những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng dới đây:
Thứ nhất, là những nguyên nhân thuộc về chủ quan của khách hàng vay vốn.
Khi khách hàng vay là ngời có trình độ yếu kém về quản lý, kinh doanh, cũng nh
không nhạy bén với tình hình biến động của nền kinh tế _xã hội thì rất có khả
năng việc sử dụng món vay sẽ không đạt đợc hiệu quả nh mong muốn. Mặc dù ý
chí chi trả nợ của khách hàng là sẵn sàng nhng tình hình kinh doanh không đem
lại lợi nhuận cũng sẽ dẫn đến tình trạng khách hàng không thể trả đợc nợ vay đầy

đủ cả gốc và lãi khi đến hạn. Ngoài ra, cũng còn có một số bộ phận khách hàng
cố ý chây ỳ, có ý định không trả nợ, hoặc chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng
nhằm sử dụng tiền vay phục vụ cho lợi ích cá nhân. Có nhiều ngời cho rằng, việc
trả nợ vay phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chi trả nợ của khách hàng vay, do đó rủi
ro tín dụng xảy ra sẽ nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng.
Nguyên nhân thứ hai gây ra rủi ro tín dụng là những nguyên nhân bất khả
kháng tác động tới ngời vay làm họ không có khả năng thanh toán cho ngân
hàng. Đây chính là những tác động bất lợi của môi trờng kinh tế, chính trị xã hội,
môi trờng pháp lý và môi trờng tự nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng. Những nguyên nhân này có thể là sự thay đổi của chính phủ trong
chính sách phát triển kinh tế, xã hội, sự biến động của chính trị trong nớc tại thời
điểm khách hàng vay vốn hay nh chiến tranh, thiên tai, dịch hoạ xảy ra bất ngờ
đều có thể làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngời vay bị ngừng trệ, hay
thất bại mà không đợc dự tính trớc. Nếu sự ảnh hởng đến ngời vay là nặng nề thì
khả năng trả đợc nợ vay của họ là rất ít.
Một nguyên nhân quan trọng nữa cần phải nhắc đến đó là những nguyên nhân
thuộc về chính bản thân ngân hàng. Các cán bộ tín dụng chính là ngời ra quyết
định cho vay, là ngời trực tiếp tham gia xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Những đánh giá của cán bộ tín dụng chính là cơ sở đầu tiên để ra quyết định cho
vay. Nếu chất lợng cán bộ tín dụng kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng
hoặc đánh giá không đúng về khách hàng hoặc cố tình làm sai tiếp tay cho khách
hàng gian lậnchính là những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến rủi ro tín dụng.
Những nguyên nhân trên bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan đối
với ngân hàng và khách hàng nên ngân hàng không thể kiểm soát đợc hoàn toàn
rủi ro xảy ra. Chúng ta chỉ có thể phòng ngừa chứ không thể loại trừ đợc rủi ro tín
dụng xảy ra. Một trong những biện pháp phòng ngừa đợc áp dụng ngay trong
khâu đầu tiên của quá trình cho vay đó là sử dụng bảo đảm tiền vay. Bảo đảm tiền
vay đợc coi là nguồn thu nợ thứ hai sau khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lu chuyển
tiền tệ) không thể thanh toán đợc. Khi hợp đồng bảo đảm tiền vay đợc thực hiện,
đó chính là cơ sở pháp lý để ngân hàng có thể thu hồi đợc nợ một cách chắc chắn,

hoặc cũng góp phần làm giảm tổn thất khi khách hàng không trả đợc nợ. Mặc dù
vậy, nhng không phải khi yêu cầu tài sản bảo đảm của một khách hàng là ngân
hàng muốn xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ mà ngân hàng chỉ muốn có một sự
cam kết ràng buộc trách nhiệm lớn hơn đối với khoản vay của khách hàng. Ngân
hàng luôn mong muốn khách hàng của mình làm ăn có hiệu quả để trả nợ vay
chứ không hoàn toàn dựa vào nguồn thu nợ thứ hai là bảo đảm tiền vay. Tuy
nhiên khi quyết định cho vay tuỳ vào từng đối tợng khách hàng vay mà ngân
hàng quyết định sử dụng các hình thức bảo đảm tiền vay khác nhau, hoặc cho vay
không cần có bảo đảm. Với những khách hàng có uy tín, phẩm chất đạo đức tôt,
năng lực tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả, đồng
thời dự án xin vay vốn có tính khả thi cao hoặc là những khách hàng lâu năm,
khách hàng truyền thống thì ngân hàng có thể không yêu cầu bảo đảm.
Ngoài mục đích sử dụng bảo đảm tiền vay để phòng ngừa rủi ro khi phơng án
trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện đơc, hoặc xảy ra các rủi ro không l-
ờng trớc đợc nh trên thì việc ngân hàng sử dụng bảo đảm tiền vay còn nhằm nâng
cao trách nhiệm thực hiện cam kết của khách hàng vay đối với khoản vay. Cán bộ
tín dụng khi xem xét ra quyết định cho vay thờng tập trung vào 3 yếu tố cơ bản,
đó là: phơng án vay vốn( thông tin về tơng lai của khách hàng); tài sản bảo đảm;
thông tin về khách hàng( thông tin trong quá khứ về khách hàng). Ngân hàng
không thể chỉ phụ thuộc vào một yếu tố nào, mà phải xem xét tổng thể cả 3 yếu
tố đó. Nh vậy, việc có tài sản đảm bảm là một trong những căn cứ để ngân hàng
ra quyết định cho vay. Giá trị món vay còn đợc xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm
của giá trị tài sản bảo đảm. Do đó, để có thể vay đợc một số lợng vốn lớn thì tài
sản bảo đảm phải có giá trị. Chính vì vậy mà khách hàng cũng cần phải có ý thức
trách nhiệm hơn trong việc sử dụng vốn vay một cách hiệu quả để có thể trả đợc
nợ vay và thu hồi lại tài sản bảo đảm của mình tiếp tục phục vụ cho dự án tới.
Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu vốn luôn luôn là mối quan tâm của
các doanh nghiệp để mở rộng và phát triển kinh doanh cũng nh mong muốn nâng
cao chất lợng cuộc sống của ngời tiêu dùng. Tất cả đều có thể nhờ đến ngân hàng
nh một nhà tài trợ để thực hiện đợc mục đích của mình. Nhng không phải mọi

nhu cầu vay vốn đều có thể đợc đáp ứng đầy đủ nhất là những khách hàng mới
vay lần đầu hoặc không phải là khách hàng truyền thống của ngân hàng. Vì thế,
việc chứng minh đợc khả năng đảm bảo tiền vay của mình sẽ giúp cho khách
hàng dễ dàng hơn trong việc vay vốn khi mà các thông tin khác cha đợc ngân
hàng kiểm nghiệm. Đồng thời, việc thực hiện tốt bảo đảm tiền vay cũng là bớc
đầu tiên thiết lập mối quan hệ tin tởng với ngân hàng, làm cơ sở cho những lần
vay tiếp theo. Nh vậy với sức ép của bảo đảm tiền vay, có thể là giá trị của tài sản
bảo đảm hay sức ép của bên thứ ba bảo lãnh, cùng với việc lấy đợc uy tín với
ngân hàng, sẽ khiến cho khách hàng có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng vốn
vay, có ý thức hơn trong việc trả nợ vay ngân hàng, đồng thời tránh đợc sự gian
lận trong ý định vay vốn của khách hàng.
Nh vậy, việc ngân hàng yêu cầu bảo đảm tiền vay vừa giúp ngân hàng hạn chế
đợc rủi ro tín dụng có thể xảy ra vừa giúp khách hàng có trách nhiệm hơn đối với
khoản tiền mình đã vay.
1.3. Các nguyên tắc và đặc trng của bảo đảm tiền vay.
Khi thực hiện hợp đồng bảo đảm tiền vay, ngân hàng và khách hàng cần
phải xem xét các qui tắc áp dụng chung nhất để có thể đa ra đợc quyết định cho
vay và vay một các hợp lý nhất. Dới đây là những nguyên tắc chủ yếu đợc quy
định trong Nghị định 178/1999/NĐ-CP :
Ngân hàng có quyền lựa chọn và quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài
sản hoặc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và chịu trách nhiệm về quyết
định của mình. Trong trờng hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ
định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho
vay này sẽ đợc Chính phủ xử lý. Trờng hợp cho vay không có đảm bảo bàng tài
sản, song trong quá trình xử dụng vốn vay, ngân hàng phát hiện khách hàng vay
vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng có quyền yêu cầu khách
hàng vay thực hiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trớc hạn.
Trờng hợp khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn không thực hiện hợp đồng
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ. Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay,

nếu khách hàng hoặc bên bảo lãnh vẫn cha thực hiện đúng hoặc thực hiện cha đủ
nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh
có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Do đó việc xem xét kỹ những nguyên tắc trên là rất quan trọng, để tránh những
tranh chấp trong thực hiện hợp hợp đồng. Đồng thời cũng giúp khách hàng biết đ-
ợc những quyền lợi và nghĩa vụ của mình để thực hiện hợp đồng đúng nh đã cam
kết.
Dới góc độ của ngời cho vay, ngân hàng cũng cần phải xem xét các đặc trng
hay là những yêu cầu của bảo đảm tiền vay trong trờng hợp cho vay có bảo đảm
bằng tài sản. Nói chung, bất kỳ tài sản hay quyền về tài sản đợc phép giao dịch
mà có khả năng tạo ra lu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm đảm bảo. Tuy nhiên,
đối với ngân hàng nhìn chung một đảm bảo phải thể hiện đợc 3 đặc trng sau:
Thứ nhất, giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ đợc đảm bảo. Nh trên đã
đề cập đến, bảo đảm tiền vay không chỉ là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng
mà còn có ý nghĩa thúc giục ngời vay phải trả nợ nếu không họ sẽ mất tài sản
đem ra làm đảm bảo. Nhng nếu giá trị của bảo đảm nhỏ hơn giá trị món vay thì
ngời vay dễ có động cơ không trả nợ vay. Do đó việc yêu cầu giá trị của đảm bảo
phải thích hợp là cần thiết để khách hàng có trách nhiệm hơn trong nghĩa vụ trả
nợ.
Thứ hai, tài sản bảo đảm phải có sẵn thị trờng tiêu thụ, thuận tiện và dễ đánh
giá. Mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của ngời cho vay. Tài
sản có độ thanh khoản cao sẽ mất ít chi phí khi xử lý hơn và có thể thu hồi đợc
vốn nhanh hơn, do đó sẽ dễ dàng đợc ngân hàng chấp nhận làm đảm bảo. Mức độ
thanh khoản trung bình có thể chấp nhận đợc nhng phải tính đến chi phí do kéo
dài thời gian xử lý.
Thứ ba, đảm bảo phải có đủ cơ sở pháp lý để ngời cho vay có quyền u tiên về
xử lý tài sản. Điều này có nghĩa là tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của ngời đi
vay hoặc ngời bảo lãnh và đợc pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải có đủ
các cơ sở pháp lý để ngân hàng- chủ thể cho vay đợc quyền u tiên xử lý tài sản
bảo đảm nhằm thu nợ khi ngời đi vay không thanh toán đúng hạn.

Trên đây là những quy định và nguyên tắc chủ yếu mà ngân hàng thờng phải
xem xét khi thực hiện hợp đồng bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, trong từng hình
thức bảo đảm tiền vay khác nhau mà ngân hàng có những quy định riêng có khác.
Chúng ta sẽ xem xét các hình thức bảo đảm tiền vay cụ thể dới đây mà các ngân
hàng thờng sử dụng.
1.4. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Thông thờng có hai hình thức bảo đảm tiền vay chủ yếu mà các ngân hàng
áp dụng đối với khách hàng vay là bảo đảm đối vật và bảo đảm đối nhân hay còn
gọi là bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm bằng tín chấp. Tuỳ từng khách hàng mà
ngân hàng có thể lựa chọn cho vay theo hình thức nào cho phù hợp, để vừa giữ đ-
ợc khách hàng vừa đảm bảo đợc mục tiêu kinh doanh của ngân hàng là an toàn
và sinh lợi.
1.4.1.Bảo đảm đối vật hay bảo đảm bằng tài sản.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hình thức bảo đảm mà ngân hàng áp dụng với
khách hàng vay vốn, trong đó ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ, đợc hởng một số
quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng là con nợ, nhằm làm căn cứ
thu hồi nợ trong trờng hợp con nợ không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Hay
nói một cách đơn giản hơn, cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay mà
theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay đợc cam kết bảo đảm thực hiện bằng
tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng hoặc bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Nh vậy, việc bảo đảm bằng tài sản giúp cho
ngân hàng tránh đợc rủi ro mất hoàn toàn vốn, đồng thời đem lại cho ngân hàng
quyền u tiên khi phát mại tài sản so với các chủ nợ khác của khách hàng nếu
khách hàng vay không có khả năng trả đợc các khoản nợ đã vay. Tuy nhiên,
không phải bất kỳ tài sản nào cũng có thể dùng làm bảo đảm tiền vay. Tài sản
dùng làm bảo đảm tiền vay phải đáp ứng đủ 4 điều kiện dới đây:
Thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay hoặc bên
bảo lãnh: Để chứng minh đợc quyền này, khách hàng vay hoặc bên bảo
lãnh phải xuất trình Giấy chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài
sản.

Thuộc loại tài sản đợc phép giao dịch: là các tài sản mà pháp luật không
cấm mua, bán, tặng, cho, chuyển đổi, chuyển nhợng, cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh và các giao dịch khác.
Không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm: phải có cam
kết bằng văn bản về việc tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng, quản lý tài sản đó và phải chịu trách nhiệm về cam kết của
mình.
Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật qui định
Theo hình thức bảo đảm tiền vay này, khi vay vốn khách hàng và ngân hàng
có thể lựa chọn các hình thức bảo đảm dới đây:
1.4.1.1. Bảo đảm bằng tài sản của khách hàng vay.
a. Bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp là hình thức theo đó khách hàng vay
phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) các tài
sản bảo đảm sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Do đó khách hàng
vẫn giữ đợc tài sản phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, còn
ngân hàng chỉ giữ các giấy tờ gốc có liên quan đến tài sản trong thời gian thực
hiện hợp đồng. Bởi vì trong nhiều trờng hợp tài sản của khách hàng khi đem làm
tài sản bảo đảm vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên
nó không thể tách khỏi quá trình sử dụng.
Những tài sản thờng đợc sử dụng làm tài sản thế chấp có thể là:
- Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà ở công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất.
- Giá trị quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật về đất đai.
- Tàu biển theo qui định của bộ luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định
của luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trờng hợp đợc thế chấp.
- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Hoa lợi, lợi tức và các quyền
phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp, nếu ngân hàng và khách
hàng có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định, trờng hợp tài sản thế chấp đợc
bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp.

- Trờng hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ thì vật phụ đó cũng thuộc tài
sản thế chấp. Trong trờng hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật
phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp khi có sự thoả thuận với khách hàng.
Nh vậy những tài sản đem thế chấp chủ yếu là những bất động sản thuộc sở
hữu của khách hàng. Những tài sản này thờng cồng kềnh, phân tán và khó di dời.
Hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhợng cũng không đơn giản. Tuy nhiên giá trị của
loại tài sản này thờng lớn nên giá trị khoản vay mà khách hàng muốn vay sẽ cao
hơn. Đồng thời nó cũng là những tài sản chủ yếu mà một doanh nghiệp hay ngời
tiêu dùng có để bắt đầu quá trình sản xuất hay sinh sống. Vì vậy mà hình thức
bảo đảm bằng thế chấp là rất phổ biến.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép ngời nhận tài trợ vẫn đợc sử dụng tài sản của
mình để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà hao mòn
trong quá trình sử dụng tài sản sẽ làm giảm giá trị của tài sản. Hơn nữa, do vẫn
còn nằm trong tay khách hàng nên ngân hàng không thể kiểm soát đợc hoàn toàn
tài sản bảo đảm, khách hàng có thể lợi dụng phân tán tài sản, gây tổn thất đối với
tài sản, làm thiệt hại đến giá trị của tài sản gây tổn thất cho ngân hàng. Do đó,
khi thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp ngân hàng phải xem xét kỹ
vật thế chấp, các mô tả vật thế chấp phải đợc ghi trong hợp đồng bảo đảm.
Khi cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, thì việc định giá tài sản thế
chấp là một vấn đề khá phức tạp. Về nguyên tắc việc định giá tài sản thế chấp
phải theo giá thị trờng, mà giá cả thị trờng thì lại luôn biến động, khó xác định
chính xác đợc biên độ giao động của giá. Trong khi đó, nếu định giá cao hơn giá
thị trờng có thể sẽ dẫn đến khi phát mại tài sản thế chấp( hoặc chuyển quyền sở
hữu cho ngân hàng) trong trờng hợp khách hàng không trả đợc nợ , không thu hồi

×