TÍN DỤNG VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1. Định nghĩa tín dụng.
Tín dụng có mầm mống xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, nó được hình thành
từ khi xã hội có sự phân công lao động, sản xuất hàng hoá phát triển. Trong quá trình
sản xuất và trao đổi hàng hoá đã xuất hiện tình trạng nợ nần lẫn nhau, sau đó là phát
sinh quan hệ vay mượn để thanh toán, đó chính là mầm mống hình thành của tín dụng.
Ban đầu quan hệ đó chỉ mới hình thành giữa những người có quan hệ buôn bán với
nhau, họ mua bán chịu của nhau hình thành nên tín dụng thương mại. Tuy nhiên, hình
thức tín dụng này mang trong nó nhiều hạn chế và chỉ khi ngân hàng xuất hiện thì tín
dụng ngân hàng mới khắc phục được hết những nhược điểm đó.
Trong lịch sử, đã có rất nhiều các học giả nổi tiếng có những nghiên cứu về tín
dụng, đã có rất nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về tín dụng. Tuy nhiên, có
thể hiểu tín dụng dựa trên bề ngoài của nó là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong
đó, một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất
định đồng thời sẽ nhận lại tiền hoặc tài sản hoàn trả lại do bên kia cam kết. Tuy vậy,
bản chất của tín dụng là nhiều hơn thế. Mác đã nghiên cứu tín dụng gắn với nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa và rút ra rằng “tín dụng là sự vận động của tư bản cho vay”, điều đó
có nghĩa bản chất của tín dụng là sự bóc lột của tư bản cho vay.
Ngày nay, tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay.
Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với một chủ thể đặc biệt là ngân hàng (hoặc các trung gian
tài chính khác) thì tín dụng chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Theo đó, tín dụng
ngân hàng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, là một giao dịch về tài
sản giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác, là hoạt động sinh lời lớn nhất song
cũng chứa đựng rủi ro cao nhất cho Ngân hàng thương mại (NHTM).
Có thể hiểu, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng cao nhất của nền kinh tế
hàng hoá, nó biểu hiện mối quan hệ tín dụng bằng tiền và được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng và cùng có lợi giữa một bên là ngân hàng với một bên là phần còn
lại của nền kinh tế.
2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng luôn là một quan hệ kinh tế trong nền sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế
hàng hoá càng phát triển thì tín dụng càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Quá trình chuyên môn hoá nền kinh tế cao độ đã giúp cho
tín dụng ngân hàng phát triển ngày càng mạnh, phạm vi hoạt động ngày càng rộng và
tập trung hầu hết hoạt động tín dụng trong xã hội.
Về bản chất, tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua ngân
hàng. Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính, bằng các nghiệp
vụ huy động vốn đã tập trung được phần lớn lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông và
thông qua hoạt động tín dụng đã dùng chính nguồn vốn huy động này để đầu tư lại xã
hội với lãi suất thu được lớn hơn. Tín dụng ngân hàng cũng mang trong nó những đặc
trưng cơ bản giống như tất cả các quan hệ tín dụng khác.
Đặc trưng quan trọng nhất phải kể đến là tín dụng ngân hàng chỉ thay đổi về
quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Những người có vốn
không biết đầu tư vào đâu nên đã nhượng quyền sử dụng phần vốn đó cho các NHTM,
đó là một hình thức đầu tư gián tiếp. NHTM chỉ được sử dụng phần vốn đó để cho vay,
mua chứng khoán hay đầu tư xây dựng một công ty con, song, NHTM không có quyền
sở hữu phần vốn đó. Hàng kỳ, NHTM vẫn phải hoàn trả cho người gửi tiền một phần
phí sử dụng nguồn vốn đó gọi là lãi và phải có trách nhiệm hoàn trả đủ gốc khi đến hạn.
Cũng giống như vậy, NHTM chuyển giao quyền sử dụng đồng vốn đó cho các tổ chức
kinh tế, doanh nghiệp, những người có nhu cầu về vốn và nhận được một khoản phí lớn
hơn từ họ. Những người nhận chuyển giao này cũng có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ lãi và
phần vốn gốc khi đến hạn.
Một đặc trưng khác là đặc trưng về thời hạn tín dụng. Đối với tín dụng ngân
hàng, thời hạn tín dụng cũng được hình thành trên cơ sở sự thoả thuận giữa ngân hàng
và người đi vay dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Thời hạn tín
dụng được thoả thuận sao cho là hợp lý nhất với khả năng trả nợ của khách hàng đồng
thời thuận tiện nhất cho việc quản lý, kinh doanh của ngân hàng. NHTM khi tiến hành
cấp tín dụng bao giờ cũng tiến hành phân tích, thẩm định món vay. Một khoản tín dụng
chỉ được cấp khi nó thoả mãn được hầu hết các chỉ tiêu an toàn, và sinh lời của ngân
hàng.
Cũng giống như các quan hệ tín dụng khác, Người sở hữu vốn tín dụng cũng
được nhận một phần thu nhập dưới dạng lợi tức. Đó là kết quả trực tiếp của việc người
sở hữu vốn đã nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và từ bỏ mọi cơ hội sinh lợi
do việc sử dụng đồng vốn mang lại trong một thời gian nhất định. Phần thu nhập đó
được ngân hàng trích từ lợi nhuận do hoạt động của ngân hàng đem lại. Đó có thể là lợi
nhuận từ việc ngân hàng đầu tư mua cổ phiếu, lợi nhuận từ việc cung cấp các dịch vụ
tiện ích của ngân hàng hay lợi nhuận từ việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng.
Khi khách hàng được cấp tín dụng, họ tiến hành sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận,
một phần lợi nhuận từ đó được trích ra để trả lãi ngân hàng và ngân hàng lại trích một
phần lãi đó để trả lãi huy động cho những người sở hữu vốn tín dụng. Chính vì vậy,
phần thu nhập của người sở hữu vốn tín dụng chính là một phần lợi tức từ việc sử dụng
phần vốn đó đem lại.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Như chúng ta đã biết, ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính giữ một
vai trò rất lớn trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng là một hoạt động chiếm
tỷ trọng lớn nhất cũng có những vai trò nhất định.
Trước tiên, tín dụng ngân hàng có vai trò đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh
nghiệp để duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tái sản
xuất phát triển. Nền kinh tế thị trường chứng kiến một tốc độ tăng trưởng nhanh của
khối doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có nhu
cầu về vốn để tài trợ cho các dự án, các kế hoạch và hầu hết chúng không thể chỉ dùng
nguồn vốn của chủ. Doanh nghiệp có rất nhiều cách để huy động vốn như phát hành
thêm cổ phiếu, phát hành trái phiếu, vay các tổ chức kinh tế, hay vay ngân hàng…Tuy
nhiên, tìm đến tín dụng ngân hàng là cách phổ biến nhất mà các doanh nghiệp thường
dùng.
Với tư cách là trung gian điều hoà lượng cung cầu về vốn cho nền kinh tế, ngân
hàng làm nhiệm vụ dẫn đường cho nguồn vốn chảy từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn.
Tại một thời điểm luôn phát sinh hai loại nhu cầu là nhu cầu cho vay vốn để hưởng lợi
và nhu cầu vay vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai nhu cầu này
tuy ngược nhau song chúng cùng vì mục tiêu sinh lời và đều có tính chất tạm thời. Qua
ngân hàng, người thừa vốn có được một khoản thu nhập là phần lãi do họ đã nhượng lại
quyền sử dụng phần vốn trong một thời gian nhất định, còn người thiếu vốn có được
khoản vốn để đầu tư thông qua một khoản cấp tín dụng và phải trả phí cho khoản tín
dụng đó. Chính nhờ có khoản vốn nhận được từ tín dụng ngân hàng mà các doanh
nghiệp có thể tài trợ cho các dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, giúp doanh
nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất.
Tín dụng ngân hàng còn là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế
kém phát triển và thúc đẩy những ngành kinh tế mũi nhọn phát triển. Xuất phát từ chủ
trương chính sách của Đảng và nhà nước , Ngân hàng nhà nước (NHNN) thực hiện
chính sách ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành kinh tế kém
phát triển nhưng cần thiết cho quốc kế dân sinh bằng việc quy định một khung lãi suất,
các điều kiện ưu đãi dành cho các đối tượng này đối với các NHTM khi cấp tín dụng.
Thông qua tín dụng ngân hàng, nhà nước vẫn có thể dành sự ưu tiên phát triển cho
những ngành kinh tế mũi nhọn hay những ngành kinh tế kém phát triển song không làm
mất đi tính thị trường của việc phát triển các ngành đó. Với nguyên tắc hoàn trả gốc và
lãi đầy đủ và đúng hẹn của tín dụng ngân hàng đã giúp các doanh nghiệp tích cực hơn
trong việc tìm kiếm cơ hội, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình, hiệu quả của
đồng vốn được quan tâm, chú trọng hơn.
Tín dụng ngân hàng cũng đóng vai trò quyết định tới sự ổn định của lưu thông
tiền tệ. Nền kinh tế thị trường chú trọng đến việc phát triển và lưu thông hàng hoá gắn
với việc ổn định lưu thông tiền tệ. Tín dụng ngân hàng với những tính năng ưu việt của
nó đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định lưu thông tiền tệ. Trước hết,
NHTM là kênh quan trọng nhất để đưa tiền vào lưu thông. Thông qua NHTM, NHNN
có thể kiểm soát được khối lượng tiền sao cho phù hợp với lượng lưu thông hàng hoá
qua việc thay đổi một số công cụ của chính sách tiền tệ như thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, thay đổi tỷ lệ chiết khấu,…Tín dụng ngân hàng được thực hiện một cách có hiệu
quả sẽ đảm bảo khối lượng tiền cung ứng một cách phù hợp với nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng còn có chức năng kiểm soát nền kinh tế. Xuất phát từ chức
năng phân phối vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được hoạt động kinh tế
thông qua quá trình sử dụng các nguồn huy động để cấp tín dụng. Thông qua nghiệp vụ
huy động vốn, NHTM có thể đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình sản xuất
kinh doanh cũng như khả năng chi trả của khách hàng thông qua biến động số dư trong
tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nghiệp vụ tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải luôn dự
trù nguy cơ rủi ro có thể xẩy ra và có các phương án khắc phục. Để có thể phân tích rủi
ro, các NHTM phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của khách hàng, có các
biện pháp và kế hoạch giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, theo dõi tình
hình sử dụng vốn vay,…Bằng sự phân tích trên, các NHTM có thể nắm được tình hình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời có thể có những can thiệp, tác
động, góp ý kiến để có sự điều chỉnh kịp thời khi cần thiết.
Hiện nay, với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tín dụng ngân hàng còn
tham gia tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Đầu tư vốn ra nước
ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế
thông dụng giữa các nước, và vốn là yếu tố quyết định đầu tiên cho sự hợp tác này. Do
vậy, nhu cầu vay vốn không chỉ dừng lại ở các tổ chức tín dụng trong nước, mà nó còn
lan rộng ra rất nhiều các các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã và đang tham gia vào các tổ
chức tài chính quốc tế lớn như WB, IMF, ADB…, tham gia vào các thị trường tài chính
lớn trên thế giới cũng như có mở các đại lý ngân hàng tại các nước khác nhau trên thế
giới. Chính nhờ các đại lý ngân hàng này mà quan hệ ngoại thương phát triển hơn, việc
trả tiền trong hợp đồng xuất nhập khẩu được nhanh hơn, ít tốn kém hơn, việc vay vốn
của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài được thực hiện đơn giản hơn…Như
vậy, đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì tín dụng ngân
hàng chính là công cụ mở đường góp phần mở rộng xuất nhập khẩu hàng hoá, nguồn tín
dụng bên ngoài là một trong các nguồn góp phần mở rộng đầu tư phát triển kinh tế nước
nhà.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.
Đối với một NHTM thì hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu nhất, là tài sản
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số tài sản có của ngân hàng. Tuy nhiên, tín dụng
cũng là nghiệp vụ có độ rủi ro cao nhất trong hoạt động của NHTM.
Tín dụng ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế cũng như
trong hoạt động kinh doanh của bản thân NHTM. Việc nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng của NHTM là rất cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia cũng như phát triển
hoạt động kinh doanh, tăng vị thế của NHTM.
4. Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng.
Tổ chức hoạt động tín dụng tại NHTM được xây dựng dựa trên cơ sở một số các
chính sách và nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời cho
hoạt động của ngân hàng. Các nguyên tắc này được cụ thể và chi tiết hoá trong các quy
định của NHNN và từng NHTM. Ta có thể khái quát những nguyên tắc của tín dụng
ngân hàng đó thành một số nguyên tắc như sau:
Thứ nhất là nguyên tắc hoàn trả đúng và đủ. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng khi
cấp tín dụng yêu cầu khách hàng của mình hoàn trả đủ khoản tiền gốc (vốn) và lãi đúng
hạn theo thời gian được thoả thuận trước giữa ngân hàng và khách hàng. Sở dĩ như vậy
là do các khoản tín dụng ngân hàng chủ yếu được hình thành từ các khoản tiền gửi của
khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả đủ
gốc và lãi cho những nguồn này đúng hạn như đã cam kết, thoả thuận với khách hàng.
Chính vì vậy đây chính là nguyên tắc, điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Trong thực tế, đôi khi ngân hàng vẫn tài trợ cho một số hoạt động mà không thu
lãi, tuy nhiên đó chỉ là một số chính sách ưu đãi của ngân hàng đối với khách hàng
riêng biệt chứ không phản ánh bản chất của hoạt động tín dụng. Khi tổ chức hoạt động
tín dụng, các NHTM thường xác định nguyên tắc này bằng cách xác định mức chấp
nhận rủi ro tín dụng phù hợp. Điều đó có nghĩa các NHTM chấp nhận một mức rủi ro
nhất định trong hoạt động tín dụng của mình, tức là trong khi cấp tín dụng ngân hàng
vẫn chấp nhận một tỷ lệ nhất định không thu hồi được nợ. Đồng thời các ngân hàng duy
trì một quy trình giám sát và đo lường rủi ro hợp lý, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ đối với
rủi ro tín dụng.
Thứ hai là nguyên tắc về đảm bảo, cam kết sử dụng tín dụng đúng mục đích. Các
ngân hàng khi cấp tín dụng luôn có điều kiện yêu cầu khách hàng của mình sử dụng
khoản tín dụng đúng mục đích khách hàng đã thoả thuận với ngân hàng. Để đảm bảo
nguyên tắc này các NHTM thường xây dựng cho mình một quy trình cấp tín dụng thống
nhất và khoa học, phù hợp thực tế và thông lệ chung. Khi thẩm định, cán bộ tín dụng
phải đảm bảo chỉ đồng ý cấp tín dụng trong điều kiện mục đích sử dụng tín dụng của
khách hàng thoả thuận với ngân hàng không trái với các quy định của pháp luật và các
quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các
ngân hàng, cùng với nó các ngân hàng khác nhau có thể có mục đích và phạm vi hoạt
động riêng khác nhau. Khi ký kết hợp đồng tín dụng, mục đích tài trợ được ghi rõ để
đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và trái với các quy
định của ngân hàng cấp trên.
Thứ ba, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án, dự án có hiệu quả. Điều đó có
nghĩa là ngân hàng sẽ luôn thu hút khách hàng và dự án tín dụng tốt. Đây chính là
nguyên tắc tiền đề cho thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Chỉ khi phương án, dự án của
người được cấp tín dụng là có hiệu quả thì khách hàng mới có khả năng trả nợ, ngân
hàng mới có thể thu hồi được nợ gốc và lãi. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn
liền với việc hình thành lên tài sản của người vay. Đây là nguyên tắc để đảm bảo ngân
hàng có thể thu hồi lại vốn. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng sẽ yêu
cầu khách hàng có thêm tài sản đảm bảo khi vay.
5. Các nghiệp vụ tín dụng.
Quy luật phát triển của ngành ngân hàng cho thấy các NHTM muốn tồn tại, mở
rộng và phát triển thường thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng. Việc mở rộng các
hình thức tín dụng, bên cạnh việc phải xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng
đắn, các ngân hàng còn phải không ngừng đa dạng hoá các hình thức tín dụng cho phù
hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Có nhiều cách thức khác nhau để phân loại
tín dụng, trong phạm vi bài viết này chúng ta đi vào nghiên cứu các nghiệp vụ tín dụng
của các NHTM theo hình thức cấp tín dụng. Theo cách phân loại này, các nghiệp vụ tín
dụng của NHTM được chia thành bốn loại đó là chiết khấu thương phiếu, cho vay, cho
thuê tài sản và bảo lãnh
(1)
.
5.1. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện, được hình thành trong
quan hệ thương mại, chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa các
bạn hàng với nhau. Từ đặc điểm thương phiếu ta có thể thấy có hai loại thương phiếu là
hối phiếu và lệnh phiếu. Điểm khác nhau cơ bản giữa hối phiếu và lệnh phiếu là người
ký phát. Hối phiếu do người bán ký phát để yêu cầu người mua trả một số tiền ghi trên
hối phiếu, trong khi đó lệnh phiếu lại do người mua hàng ký phát cam kết trả một khoản
tiền ghi trên lệnh phiếu cho người bán hay người thụ hưởng.
Người bán Người mua
Ngân hàng
Thông thường thì người bán hay người thụ hưởng có thể nắm giữ thương phiếu
cho đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả). Tuy nhiên, trong
(1)
Luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi “ Tổ chức tín dụng
được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN”.
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, người nắm giữ thương phiếu cần sử dụng vốn
ngay và họ không thể chờ đến ngày đáo hạn thương phiếu khi đó họ có thể mang
thương phiếu đến ngân hàng xin chiết khấu trước hạn. Sau đây là sơ đồ luân chuyển
thương phiếu.
(2)
(3) (1)
(4) (5)
Hình 1.1: Chiết khấu thương phiếu
Ban đầu người bán chuyển hàng hoá dịch vụ cho người mua, sau đó thương
phiếu được lập. Người mua ký vào thương phiếu cam kết trả tiền cho người bán hay
người thụ hưởng khi thương phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người bán đồng
thời cũng là người thụ hưởng. Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán
có thể mang thương phiếu đến ngân hàng để xin chiết khấu. Khi đó, ngân hàng sẽ tiến
hành kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, phát tiền cho người bán theo một tỷ lệ thoả
thuận với người bán và nắm giữ thương phiếu. Ngân hàng có thể yêu cầu người bán ký
hậu vào thương phiếu, cam kết trả tiền cho ngân hàng nếu người mua từ chối việc trả
tiền. Khi thương phiếu đến hạn, ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi
tiền, nếu bên mua không trả ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên hối
phiếu.
Số tiền ngân hàng ứng trước cho khách hàng phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu,
thời hạn chiết khấu và tỷ lệ chiết khấu. Lãi suất thực từ việc chiết khấu thương phiếu
mà ngân hàng nhận được chính là tỷ lệ phần trăm giữa phần lãi mà ngân hàng thu được
với số tiền mà ngân hàng ứng trước cho khách hàng. Bên cạnh việc áp dụng lãi suất
chiết khấu, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm phần lệ phí chiết khấu đối
với những trường hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền.
Chiết khấu thương phiếu được coi là một nghiệp vụ tín dụng đơn giản,
dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu.
Để thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng thường ký với khách hàng một hợp
đồng chiết khấu trong đó quy định cấp cho khách hàng một hạn mức chiết khấu
nhất định trong kỳ. Khi cần thiết, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu đến
ngân hàng xin chiết khấu, Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu
và thực hiện chiết khấu. Do bản chất thương phiếu là tờ mệnh lệnh trả tiền vô
điều kiện nên có tối thiểu hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng do vậy độ an
toàn của thương phiếu là tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng ký miễn truy
đòi đối với khách hàng). Thêm vào đó, NHTM có thể tái chiết khấu thương
phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp, vì vậy
thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng có tính
thanh khoản cao.
5.2. Cho vay.
Đây là hình thức cấp tín dụng phổ biến nhất của các NHTM. Đối với hầu hết các
NHTM thì nghiệp vụ tín dụng này chiếm một tỷ trọng và quy mô lớn nhất. Để thuận
tiện trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát… các NHTM thường chia nhỏ nghiệp vụ
cho vay thành các nghiệp vụ nhỏ hơn dễ theo dõi quản lý hơn. Thông thường thì các
NHTM thường phân nghiệp vụ cho vay thành một số nghiệp vụ như thấu chi, cho vay
trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay
gián tiếp,… Chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu từng nghiệp vụ nhỏ để thấy xem vì sao các
NHTM lại phân chia chúng như vậy, chúng khác nhau như thế nào?
+ Thấu chi
Đây là một nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi
vượt (trội) trên số dư tiền gửi thanh toán của họ đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn đó được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được sử dụng dịch vụ thấu chi, khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng (có
cung cấp dịch vụ thấu chi) mà mình mở tài khoản thanh toán hạn mức thấu chi và thời
gian thấu chi (khách hàng có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng).
y Trục y: Số dư tiền gửi thanh toán (đồng)
Trục x: Thời gian
Hạn mức thấu chi
Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi)
x Số dư tiền gửi thanh toán
Hình 1.2: Thấu chi
Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,
…vượt qua số dư tiền gửi thanh toán để chi trả song phải trong hạn mức thấu chi. Khi
khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi dựa trên
số tiền thực tế chi vượt và thời gian thực tế sử dụng số tiền đó. Trong trường hợp khách
hàng chi vượt quá hạn mức thấu chi thì các khoản chi vượt quá hạn mức đó sẽ phải chịu
lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về mặt thời
gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ
song không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng trong quá trình thanh toán được chủ động, nhanh và kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng,
vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,… Hình thức
này thường chỉ được sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao thu nhập đều
đặn và kỳ thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của các
NHTM đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu và
tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc