NHỮNG LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG .
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị ( dươí
hình thái tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một
thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với
chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay để cho vay.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Trước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, toàn bộ nền kinh tế nước ta
hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Hoạt động của
hệ thống ngân hàng cũng chịu sự chi phôí đó. Trên thực tế các ngân hàng thực
hiện dịch vụ kinh doanh của mình hoàn toàn theo sự chỉ đạo của Nhà nước.Vốn
hoạt động của ngân hàng phần lớn được lấy từ nguồn ngân sách cấp chứ không
phải là từ nguồn vốn huy động trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường nguồn vốn kinh doanh của NHTM không
còn do NHNN bao cấp mà phải tự huy động nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong
xã hội, tiến hành các hoạt động kinh doanh mang lai lợi nhuận. Hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho
NHTM ( trên 70%). Hoạt động của ngân hàng thương mại phải đương đầu với
áp lực cạnh tranh, hoạt động của nó luôn chứa đựng rủi ro cao. Trong nền kinh
tế thị trường mọi người đều muốn đồng vốn của mình sinh lời vì vậy họ sẵn
sàng cho vay lấy lãi, còn các nhà doanh nghiệp và các cá nhân cũng vì mục đích
sinh lời mà rất cần vốn để mua nguyên vật liệu hay mở rộng sản suất kinh
doanh nhưng chưa kịp tích luỹ. Để giải quyết vấn đề này ngân hàng cũng vì
mục đích kiếm lời, với chức năng của mình ngân hàng đã đáp ứng được yêu cầu
huy động vốn nhàn rỗi, tức là ngân hàng đã thực hiện chính sách “ đi vay để cho
vay ”.
1.1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Tín dụng ngân hàng ra đời xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong nền
kinh tế luôn làm phát sinh hiện tượng có những chủ thể tạm thời thừa vốn và
những chủ thể tạm thơi thiếu vốn.Tín dụng ngân hàng đã giải quyết được mâu
thuẫn giữa cung cầu về vốn, là sự cần thiết khách quan phù hợp với sự vận động
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng ngày càng giữ vi trí
quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hoá cũng như lưu thông
tiền tệ.
Trước hết tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan
trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường
.Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM, để thực hiện kinh
doanh tín dụng ngân hàng cần có vốn bằng cách “ đi vay để cho vay ”. Trong xã
hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn cần đi
vay, song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay hoặc
có thể gặp nhau nhưng chi phí rất cao và không kịp thời nên tín dụng ngân hàng
là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, giải quyết thoả đáng các nhu cầu
trong mối quan hệ này. Tín dụng ngân hàng làm trung gian để điều tiết nguồn
vốn từ bộ phận nhàn rỗi đến bộ phận thiếu vốn một cách linh hoạt, giảm thiểu
tình trạng lãng phí vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
Sau nữa tín dụng ngân hàng tác động hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi
động, thúc đẩy cạnh tranh nền kinh tế và góp phần tạo nên một cơ cấu hợp lý.
Hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp
không ngừng vận động để phù hợp những biến động của thị trường. Trong quá
trình sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng vốn của mình doanh nghiệp phải đi vay
ngân hàng và hoàn trả “ gốc và lãi ” sau một thời gian nhất định do đó doanh
nghiệp cần phải tìm hiểu và đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao, qua đó
vừa duy trì được hoạt động của mình vừa hoàn trả được vốn vay ngân hàng.
Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển
vì chỉ có tín dụng ngân hàng mới đáp ứng được nhu cầu vốn lớn như vậy cho
nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động, mền
dẻo và linh hoạt.
Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng tạo điều kiện hội nhập vào kinh tế thế
giới. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện để nối liền
nền kinh tế của các nước với nhau. Đặc biệt với các nước đang phát triển, tín
dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá
đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho ngành kinh tế kém phát triển và
các ngành kinh tế mũi nhọn. Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi với những ngành
kinh tế mũi nhọn cũng như các ngành kinh tế kém phát triển nhưng có lợi thế
cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế này phát triển ,
tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế và xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi.
Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát đối với nền kinh tế. Ngân hàng
muốn tồn tại và phát triển thì phải nắm vững hiểu sâu sắc hoạt động của doanh
nghiệp để giảm mức rủi ro trong cho vay. Như vậy ngân hàng có khả năng tổng
hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có thể đánh giá được
mức độ phát triển của từng ngành từ đó có thể nêu lên ý kiến, góp phần để thực
hiện điều chỉnh khi có sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế.
Tóm lại : Tín dụng ngân hàng là biện pháp cơ bản và chủ yếu để điều hoà
vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng đóng vai
trò là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, biến mọi nguồn tiền tệ phân tán trong xã
hội thành nguồn vốn tập trung qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong
xã hội góp phần ổn định tiền tệ. Tín dụng ngân hàng giữ vai trò rất quan trọng
với nền kinh tế nhưng nó tác động theo chiều hướng nào đến nền kinh tế còn
phụ thuộc vào việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng ở NHTM có chất lượng và
hiệu quả hay không. Trên cơ sở đó ta thấy rõ vai trò và tác động của tín dụng
ngân hàng với nền kinh tế thị trường do đó mỗi NHTM cần chú trọng quan tâm
đến công tác tín dụng và đổi mới nâng cao chất lượng tín dụng để đem lại hiệu
quả thiết thực.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG.
1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng.
Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế hoạt động chủ
yếu và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi và cho vay, chất lượng tín dụng luôn
là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng
ngân hàng đương nhiên được tạo nên bởi chất lượng của từng khoản tín dụng.
Song không chỉ có thế, nếu bó hẹp khái niệm chất lượng tín dụng đồng nghĩa
với chất lượng của một khoản tín dụng thì rõ ràng là không đầy đủ và không
phản ánh được hết tính đa dạng và phức tạp của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Do đó, một cách đầy đủ có thể hiểu khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
như sau:
Chất lượng tín dụng ngân hàng là khái niệm phản ánh khả năng mở
rộng tín dụng của ngân hàng phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng,
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng ( người gửi
tiền và người vay tiền ) phù hợp với sự tăng trưởng của kinh tế xã hội và đảm
bảo sự tồn tại, phát triển của tín dụng .
Chất lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng của
khách
hàng với lãi suất, kỳ hạn hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, thu hút
được nhiều khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc tín
dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm , khai thác được khả năng tiềm
tàng trong nền kinh tế.
- Đối với NHTM: Hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt
động và cạnh tranh mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh toán cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh
của NHTM trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng thể hiện qua nhiều yếu tố như: thu hút được nhiều
khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, an toàn vốn cao. Chất lượng tín dụng là sự tồn
tại và là cơ sở mở rộng hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Mở rộng đầu tư tín dụng cần phải đi liền với công tác nâng cao chất
lượng tín dụng, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong
hoạt động tín dụng. Nó quyết định sự hoạt động kinh doanh của ngân hàng xét
cả về mặt kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng. Nếu các ngân hàng
thương mại không quan tâm đến chất lượng tín dụng thì nguy cơ đổ bể càng
cao.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
1.2.2.1. Chỉ tiêu định tính.
1.2.2.1.1. Về phía ngân hàng.
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay.
Mỗi tổ chức kinh tế hoạt động đều được dựa trên một nguyên tắc nhất
định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất
lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước do vậy các hoạt động
của ngân hàng cũng rất chặt chẽ. Với mỗi ngân hàng lại có những nguyên tắc
khác nhau, nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi ngân
hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản vay điều đầu tiên phải xem xét là
khoản vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay không.
Nguyên tắc cơ bản của cho vay là:
* Thứ nhất : Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
* Thứ hai : Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng.
Thời hạn cho vay được xác định kể từ khi người vay nhận vốn vay đầu
tiên cho đến khi người vay trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận cho vay căn cứ vào: Chu kỳ sản
xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của
khách hàng, tính chất nguồn vốn của ngân hàng.
Thông qua đó sẽ quy định rõ thời hạn khách hàng trả tiền lãi tiền gốc cho
ngân hàng. Việc xác định thời hạn vay sẽ gắn trách nhiệm của người vay với
khoản vay, buộc họ phải sử dụng vốn vay kinh doanh có hiệu quả trong khoảng
thời gian đó.
Việc xác định thời gian vay là rất quan trọng, nó thể hiện trình độ của cán
bộ tín dụng, nó quyết định tới khả năng thu nợ của ngân hàng. Nếu thời hạn vay
nhỏ hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng thì họ không thể trả nợ
đúng hạn vì chu kỳ sản xuất kinh doanh chưa kết thúc, họ chưa có nguồn thu
điều này sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng. Ngược
lại nếu thời gian cho vay lớn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh thì cũng không tốt
vì khi đã hoàn thành một chu kỳ kinh doanh mà vẫn chưa phải trả nợ ngân hàng
thì rất có thể họ sử dụng vốn đó vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo hoặc một lĩnh
vực kinh doanh khác, điều này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu
hồi nợ .
Việc trả nợ đúng thời hạn của khách hàng giúp ngân hàng bảo toàn và
phát triển vốn, tăng cường hoạt động cho vay. Trường hợp khách hàng không
trả được nợ thì phải chuyển sang nợ quá hạn - thể hiện chất lượng tín dụng có
vấn đề.
•
Thứ ba:Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện theo quy định của Chính
phủ, thống đốc ngân hàng Nhà nước đối với khách hàng.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản
cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện.
Một là: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Hai là: Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Ba là: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, không vi phạm pháp luật,
phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Bốn là: Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả
thi có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và
phù hợp với quy định của pháp luật.
Năm là: Thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
c. Quá trình thẩm định.
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới
chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để ngân hàng
nắm được thông tin về khách hàng, năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng
…Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi
khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về quy trình thẩm
định và nội dung thẩm định cho vay của từng ngân hàng. Một khoản vay có chất
lượng là khoản vay cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của
quá trình thẩm định. Việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩmđịnh
cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất lượng.
1.2.2.1.2. Về phía doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá chất lượng của khoản tín
dụng xét theo quan điểm doanh nghiệp bao gồm:
- Mức tăng năng suất lao động nhờ thực hiện dự án.
- Doanh thu tăng từ dự án.
- Lợi nhuận tăng từ dự án.
Các chỉ tiêu này càng cao càng tốt, nó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp đạt mức cao. Đó là tiền đề để doanh nghiệp thực hiện đúng
cam kết trả nợ cho ngân hàng đồng thời bản thân doanh nghiệp cũng có lợi
nhuận đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
1.2.2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Doanh số cho vay
- Chỉ tiêu vòng quay vốn :
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa doanh số cho vay với dư
nợ bình quân qua đó có thể thấy được khả năng mở rộng cho vay cũng như hiệu
quả của công tác thu nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hoạt
động cho vay và công tác thu nợ của ngân hàng là rất tốt, điều này chỉ có thể
đạt được khi quy mô cho vay được mở rộng và hầu hết các khoản cho vay đến
hạn trong năm đó đều được thu hồi đầy đủ. Ngược lại nếu tỷ lệ này càng thấp
chứng tỏ hoạt động cho vay hay thu nợ hoặc cả hai đều gặp khó khăn.
- Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là những khoản nợ khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc hết thời hạn
cho vay vốn cộng với thời gian gia hạn thêm (nếu có) nhưng khách hàng vẫn
chưa trả được nợ. Căn cứ để phân chia các loại nợ quá hạn chủ yếu dựa vào các
tiêu thức như: thời gian nợ quá hạn, nguyên nhân gây ra nợ quá hạn, uy tín của
doanh nghiệp vay vốn. Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình trạng nợ quá
hạn bao gồm:
Dư nợ quá hạn
+ tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ :
Tổng dư nợ
+ tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trên tổng dư nợ :
Dư nợ quá hạn khó đòi
Tổng dư nợ
+ tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi trên tổng dư nợ:
Dư nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu (1) phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng trong
cho vay. Rõ ràng các ngân hàng đều mong muốn hạ tỷ lệ này xuống càng thấp
càng tốt, bởi lẽ tỷ lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro.
Tuy nhiên trong thực tế do những rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh
khỏi nên các ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được
coi như giới hạn an toàn. Theo quy định của NHNN thì tỷ lệ nợ quá hạn ở mức
dưới 3%, còn ở mức dưới 1,3% có thể coi là lý tưởng.