Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN NGÀNH BAO BÌ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.12 KB, 26 trang )

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN
NGÀNH BAO BÌ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI
NHÁNH BA ĐÌNH
Qua thực tế phân tích và đánh giá công tác thẩm định dự án vay vốn ngành bao bì
tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình, chúng ta thấy rằng Ngân
hàng đã và đang có nhiều cố gắng để thực hiện tốt hơn công tác này. Trong điều kiện
hiện nay, khi nền kinh tế ở thời kỳ quá độ, hoạt động của Ngân hàng ngày càng giữ vai
trò quan trọng trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của đất nước, thì yêu
cầu cần phải có những biện pháp tích cực và cụ thể hơn nữa nhằm nâng cao vai trò và
hiệu quả của công tác thẩm định tại Ngân hàng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu là một
điều rất cần thiết. Để góp phần cùng Ngân hàng khắc phục những tồn tại trên, em xin
đưa ra một số ý kiến sau:
2.1. Định hướng công tác thẩm định các dự án đầu tư tại Ngân hàng trong thời
gian tới
2.1.1. Phương hướng phát triển công tác thẩm định dự án đầu tư trong thời gian tới
- Công tác thẩm định đầu tư phải xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng thời kỳ và từ thực tiễn cho vay của chính chi nhánh. Ngân hàng cần
hợp lý hóa các chính sách của mình cũng như các chính sách vĩ mô của nhà nước. Các
chính sách của Ngân hàng đưa ra cũng chưa đạt được sự hoàn hảo, do đó, để nâng cao
công tác thẩm định nói riêng, Ngân hàng cần đề ra trong thời gian tới sẽ điều chỉnh
thích hợp để hạn chế tối đa sự bất hợp lý tring hệ thống chính sách của mình, nhất là
chính sách về lãi suất.
- Ngân hàng ngày càng cố gắng hoàn thiện công tác khai thác thông tin từ nhiều
nguồn để chính xác hóa các thông tin sử dụng trong công tác thẩm định dự án đầu tư,
điều này phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của thông tin nên việc nâng cao chất lượng
thông tin là một đòi hỏi khách quan, cấp bách. Chúng ta biết rằng, thông tin sẽ được
chính xác hơn nếu được kiểm tra từ nhiều nguồn. Điều đó nói lên rằng. nên tránh sử
dụng thông tin một chiều, nghĩa là ngoài những dữ liệu do doanh nghiệp xin vay trình
ra, cán bộ tín dụng phải triệt để tận dụng các nguồn thông tin khác như thông tin điều
tra trực tiếp, thông tin do mối quan hệ khách hàng lâu dài và thông tin từ các nguồn bên
ngoài.


- Cán bộ tín dụng cần nắm được các thông tin tài chính của tất cả các doanh
nghiệp có thể không phải là khách hàng của mình.
- Trong những năm tới, Ngân hàng cần nâng cao trình độ cán bộ tín dụng hơn nữa
vào các khâu thẩm định công nghệ, kỹ thuật, kinh tế tài chính, xã hội, thị trường, tác
động đến môi trường.
2.1.2 Phân tích SWOT về công tác thẩm định của Ngân hàng Công thương Việt Nam
– Chi nhánh Ba Đình
2.1.2.1. Điểm mạnh
a) Về quy trình thẩm định
Từ khi “Quy trình nghiệp vụ tín dụng” được ban hành theo tiêu chuẩn mới, công
tác thẩm định đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các bước trong quy trình được quy
định khá bài bản và logic từ việc hướng dẫn làm khách hàng làm hồ sơ vay vốn, tiếp
nhận hồ sơ vay vốn, thẩm định hồ sơ, thẩm định khách hàng đến thẩm định dự án đầu
tư và lập tờ trình. Mặt khác, quy trình thẩm định còn được áp dựng thống nhất trong
toàn hệ thống và nhìn chung trong thời gian qua đã được cán bộ thẩm định tuân thủ một
cách nghiêm túc.
Không những thế, đã có sự phân công cụ thể và phối hợp chặt chẽ giữa các phòng
ban trong quy trình thẩm định dự án đầu tư. Chịu trách nhiệm chính trong quá trình
thẩm định là phòng khách hàng, trực tiếp nhận hồ sơ của khách hàng và kiểm tra tính
đầy đủ của hồ sơ. Đồng thời, kết hợp với phòng phụ trách về nguồn vốn để xác định
nguồn vốn và lãi suất; phòng thanh toán xuất nhập khẩu để xác định điều kiện thanh
toán; và các phòng khác sẽ tham gia khi có sự đề nghị. Các thông tin này được sử dụng
rất quan trọng cho quá trình thẩm định dự án đầu tư. Nhờ các thông tin đó, phòng khách
hàng vừa và nhỏ sẽ tiến hành tính toán các chỉ tiêu về hiệu quả tài chính và xác định
phương thức cho vay, từ đó phòng khách hàng vừa và nhỏ có thể đưa ra quyết định có
nên cho vay vốn hay không.
Nhưng trong quy trình thẩm định vẫn có sự phân định rạch ròi về trách nhiệm,
quyền hạn và nghĩa vụ giữa các cán bộ thẩm định. Mỗi cán bộ thẩm định sẽ chịu trách
nhiệm chính về một mảng thẩm định riêng theo chuyên môn và thế mạnh của từng
người. Làm như vậy sẽ phát huy được thế mạnh của mối người, tránh chồng chéo về

quyền hạn ra quyết định cho vay, nâng cao trách nhiệm của cán bộ thẩm định, dễ dàng
phân trách khi có sai sót xảy ra.
b) Về nội dung thẩm định
Nếu như trước đây, công tác thẩm định hầu như chỉ chủ yếu xem xét khía cạnh
tài chính thì đến nay nội dung thẩm định đã tính đến các khía cạnh khác nhau của một
dự án, đó không chỉ là việc đơn thuần tính toán các chỉ tiêu tài chính mà còn xem xét tư
cách pháp lý của người vay; xem xét các yếu tố đầu vào, đầu ra của dự án; phân tích rủi
ro mang tính thị trường. Không những thế còn thẩm định về phương diện kinh tế, kỹ
thuật, tổ chức và môi trường. Vậy nội dung thẩm định đã có sự thay đổi theo chiều
hướng tích cực, phù hợp với tiêu chuẩn chung, với đòi hỏi phát triển của nền kinh tế thị
trường.
c) Về phương pháp thẩm định
Các phương pháp ngân hàng sử dụng trong quá trình thẩm định ngày càng khoa
học và hiện đại. Các phương pháp này được áp dụng một cách linh hoạt tuỳ theo tính
chất của dự án và lượng thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập được.
Mặt đáng nói ở đây là ngân hàng đã chuyển từ phương pháp phân tích tài chính
trong trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Cụ thể là việc áp dụng phương pháp phân tích
độ nhạy của các chỉ tiêu phân tích dự án trong trạng thái động, các yếu tố biến động
theo hướng bất lợi để đánh giá tính vững chắc của dự án trong trường hợp có rủi ro.
Phương pháp này giúp các cán bộ thẩm định có thể lương trước được các kịch bản có
thể xảy ra và đánh giá lại hiệu quả của dự án từ đó có thể đưa ra nhận xét về mức độ an
toàn, vững chắc của dự án trong điều kiện bất lợi của dự án. Vì vậy sẽ giảm được hậu
quả rủi ro mất khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
Mặt khác việc áp dụng Excel vào tính toán các chỉ tiêu hiểu quả tài chính và
phân tích độ nhạy, khiến cho việc tính toán, phân tích nhanh hơn, chính xác hơn tạo
thuận lợi cho cán bộ thẩm thẩm định rút ngắn thời gian tính toán.
e) Về cán bộ thẩm định
Đội ngũ cán bộ thẩm định của chi nhánh ngày càng được nâng cao về năng lực,
trình độ, gia tăng về dân số.
Phần lớn cán bộ thẩm định đều có trình độ từ đại học trở lên, đều là những người

trẻ có trình độ chuyên môn giỏi, say mê với công việc. Đây là đội ngũ chủ chốt và có
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thẩm định dự án đầu tư sau này. Không những thế, chi
nhánh còn có nhiều cán bộ làm việc lâu năm, có kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực
này và dày dặn kinh nghiệm công tác. Ngoài ra, công tác bồi dưỡng cán bộ, nâng cao
nghiệp vụ thẩm định cũng được chi nhánh thường xuyên chú trọng. Chi nhánh luôn
luôn khuyến khích và toạ điều kiện thuận lợi cho các cán bộ trau dồi và nâng cao
nghiệp vụ thẩm định bằng cách chú trọng vào công tác đào tạo lại cán bộ, tập huấn,
giao lưu, tổ chức hội nghị hội thảo mời các chuyên gia giỏi giảng dạy về thẩm định dự
án; việc tuyển nhân sự cũng được giao cho chi nhánh tổ chức tiến hành với hình thức
thi tuyển và phỏng vấn trực tiếp đã tuyển chọn được đội ngũ nhân sự đủ năng lực, phẩm
chất đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Chính những kiến thức và kinh nghiệm thực tế đã giúp cho cán bộ thẩm định không chỉ
đảm nhiệm được công việc của mình trong môi trường đầy thử thách với số lượng các
dự án cần phải thẩm định ngày càng nhiều, giá trị ngày càng lớn và tính phức tạp ngày
một tăng mà vẫn đảm bảo đưa ra được những đánh giá, những quyết định chính xác,
kịp thời. . Điều này được thể hiện ở chất lượng những báo cáo thẩm định ngày càng
được nâng cao.
f) Về công tác thu thập, quản lý, lưu trữ số liệu phục vụ cho quá trình thẩm định
Nguồn thông tin thu thập cho công tác thẩm định ngày càng đầy đủ, đa dạng và
phong phú. Nếu như trước đây, các thông tin về dự án dùng để phân tích được cung cấp
bởi chính chủ đầu tư, làm cho quá trình thẩm định hầu như chỉ xoay quanh việc thẩm
định tính hợp lý, tính chính xác đại số của các số liệu, tiến hành phỏng vấn khảo sát
thực địa thì đến nay thông tin đã có tính nhiều chiều hơn. Ngoài các nguồn thông tin do
khách hàng cung cấp, chi nhánh đã thực hiện việc thu thập thông tin từ các tổ chức có
liên quan và trực tiếp bằng quá trình điều tra của các cán bộ thẩm định. Bằng cách mở
rộng phạm vi thu thập thông tin từ nội bộ đến các thông tin bên ngoài (văn bản tài liệu
có liên quan, báo chí, tham khảo ý kiến của các Sở, cơ quan chuyên ngành…) đã làm
cho nguồn thông tin trở nên đa dạng, nâng cao tính chính xác, khách quan của thông tin
dẫn đến tính chính xác của các kết quả tính toán và quá trình ra quyết định đạt kết quả
cao.

Không những thế, trong điều kiện hiện nay, các cán bộ thẩm định được trang bị và
hỗ trợ khá tốt với những phương tiện làm việc cần thiết như máy tính nối mạng, điện
thoại giúp cho cán bộ thẩm định nhanh chóng thu thập được những thông tin cần thiết,
rút ngắn thời gian thẩm định.
Đặc biệt, ngân hàng Công thương Việt Nam đã triển khai thành công dự án hiện
đại hoá Ngân hàng cho toàn hệ thống từ Trụ sở chính đến các Chi nhánh, trong đó có
chi nhánh NHCT Ba Đình. Dự án này đã xây dựng chiến lược và kế hoạch lưu trữ dữ
liệu phù hợp với công nghệ lưu trữ hiện đại, nâng cấp đường truyền thống nối các chi
nhánh Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh với trụ sở chính.
2.1.2.2. Điểm yếu
a) Về thông tin
Để có những kết quả tính toán chính xác về hiệu quả dự án đầu tư thì phải dựa trên
những thông tin, số liệu đầy đủ, có chất lượng, chính xác về dự án trên nhiều mặt, nhiều
góc độ khác nhau. Chất lượng và sự đầy đủ những thông tin này phụ thuộc một phần
vào việc lập, thẩm định dự án đầu tư của chủ dự án và cung cấp thông tin của các chủ
thể liên quan khác.
Nhưng thực tế, trong quá trình thẩm định các dự án đầu tư, cán bộ tín dụng chỉ có
một nguồn thông tin duy nhất do khách hàng cung cấp. Vì chỉ là nguồn thông tin một
chiều nên mức độ chính xác của nó không cao. Khách hàng có thể nộp cho Ngân hàng
những báo cáo không trung thực, phân tích sai lệch thực trạng sản xuất kinh doanh của
đơn vị họ hoặc dự án chứa đựng số liệu không chính xác.
Nhưng vì nguồn hàng có rất ít cơ hội tìm kiếm các nguồn thông tin khác để kiểm
chứng nên rất khó khăn cho công tác thẩm định, có thể dẫn đến quyết định cho vay
không đúng đắn.
Mặt khác, nền kinh tế nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên các tài
liệu về dự án đầu tư phần lớn là của nước ngoài. Do đó các khái niệm, thuật ngữ được
đề cập đến trong dự án là khá mới mẻ đối với các chủ đầu tư, nên không thể tránh khỏi
sự thiếu nhất quán trong sử dụng. Thị trường tư vấn nước ta lại chưa phát triển nên hầu
hết các dự án đầu tư đều do các lực lượng của chủ đầu tư với trình độ còn nhiều hạn
chế lập ra. Kết quả là các dự án được lập không đầy đủ, chưa chính xác, thiếu thông tin

cần thiết làm cơ sở cho cán bộ tín dụng đánh giá tính khả thi.
Rõ ràng là hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư phụ thuộc rất lớn vào
trình độ chính xác của thông tin. Nâng cao chất lượng thông tin là một đòi hỏi khách
quan và cấp bách.
b) Về cơ chế chính sách của Nhà nước
Hiện nay, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, giá chung chung và không chính xác
của nhà nước đã và đàn tạo ra trở ngại lớn cho công tác thẩm định dự án đầu tư. Những
năm gần đây, các luật về đất đai, về khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước đã được
ban hành nhưng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót. Ngoài ra, những quy hoạch về đất đai
liên quan đến vùng kinh tế, vùng dân cư hay công trình giao thông… lại thường vuyên
bị thay đổi, tạo tâm lý bất ổn cho doanh nghiệp, khiến họ không yên tâm đầu tư vốn để
sản xuất kinh doanh. Và khi có sự thay đổi thì rủi ro thuộc về phía Ngân hàng và doanh
nghiệp. Vì vậy, trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, cán bộ tín dụng thường rất ngần
ngại và mất nhiều thời gian cân nhắc cho vấn đề này.
Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối
với các doanh nghiệp (mà đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) còn chưa
được quan tâm đúng mức. Số lượng các công ty kiểm toán của Việt Nam chưa nhiều
nhưng cũng đủ đáp ứng yêu cầu. Nhưng vì công tác kiểm toán còn mới mẻ chưa khẳng
định được uy tín của mình. Mặt khác, họ chưa có sự vượt trội hẳn về năng lực nghiệp
vụ. Trong đó, cơ quan kiểm toán của nhà nước (VACO) mới ra đời, chỉ hoạt động trong
phạm vi nhỏ hẹp. Với đặc điểm hoạt động của kế toán ở các doanh nghiệp như vậy cán
bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc lấy số liệu để tính toán các chỉ tiêu. Có thời kì,
Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần làm cho tỷ lệ cho vay
ngoài quốc doanh của các ngân hàng rất lơn. Sau một thời gian đầu tư cho thấy, hoạt
động khu vực này thực tế không mang lại hiệu quả như mong muốn, và làm cho tỷ lệ
nợ quá hạn tăng cao.
c) Về trình độ phân tích, thẩm định các khúc cạnh của dự án
Một dự án đầu tư bao gồm nhiều phương diện khác nhau, trong mỗi phương diện
đánh giá một khía cạnh của dự án và tất cả các phương diện này đều rất quan trọng. Do
đó, về mặt lý thuyết trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng phải xem xét mọi vấn đề

có liên quan đến dự án. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, đa số các dự án chưa được
phân tích kỹ càng, xử lý toàn diện, bản thẩm định vẫn còn sơ sài. Tính khả thi của dự án
được đánh giá chủ yếu dựa vào kết quả phân tích, tính toán trên phương diện tài chính
mà thôi. Điều đó dẫn đến kết quả của việc thẩm định không đầy đủ, chính xác, và có
thể dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm, gây hậu quả nghiêm trọng không lường
trước được.
Hiện nay, tuy các cán bộ tín dụng đã có nhiều nỗ lực đáng kể nhưng hiệu quả chưa
thực sự cao. Chẳng hạn, thẩm định doanh nghiệp vay vốn về hoạt động sản xuất kinh
doanh chưa được chú trọng. Công doạn này nếu tiến hành đầy đủ theo yêu cầu sẽ chiếm
nhiều thời gian và công sức, đặc biệt là với khách hàng mới có quan hệ với ngân hàng.
Tuy nhiên, trên thực tế Ngân hàng chưa quan tâm đúng mức tới khâu thẩm định tài
chính doanh nghiệp vay vốn mà chỉ dừng lại ở mức nêu ra và chỉ tiêu chung nhất,
không kèm theo nhận xét, đánh giá trong biên bản báo cáo thẩm định. Bước thẩm định
này không những cho ta cái nhìn bao quát về tình hình doanh nghiệp mà còn là cơ sở
cho việc kiểm nghiệm sự đúng đắn của các khoản mục nêu ra trong dự án. Tình hình tài
chính doanh nghiệp vay vốn trong quá khứ thực sự là quan trong và liên quan mật thiết
tới hoạt động tương lai của doanh nghiệp nói chung trong đó có dự án.
- Thị trường là nơi tiêu thụ sản phẩm, tạo ra nguồn thu cho dự án và đảm bảo trang trải
nợ cho Ngân hàng. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ của các dự án
lên quan tới nhiều vấn đề đòi hỏi ở cán bộ tín dụng khả năng phân tích tổng hợp và óc
phán đoán mới nắm bắt được tình hình.
Yêu cầu này thực sự không đơn giản, nhất là đối với sản phẩm mới xuất hiện hoặc
chưa có trên thị trường. Về mặt này, việc thẩm định còn quá sơ sài, thiếu chính xác,
thậm chí mang tính lấy lệ là chủ yếu.
Về phương diện kỹ thuật cũng xảy ra tình trạng tương tự, thực ra cán bộ tín dụng
đâu phải là chuyên gia kỹ thuật mà trái lại họ chỉ có chuyên môn về kinh tế, về tài
chính, ở lĩnh vực này ngân hàng hầu như không có mấy kinh nghệm, chủ yếu vẫn phải
dựa vào phân tích kỹ thuật trong luận chứng kinh tế ký thuật mà doanh nghiệp đưa ra.
Cán bộ tín dụng không xác định chính xác được tính tiên tiến của máy móc thiết bị,
chưa xác định được máy móc công suất có trong dự án có phù hợp với nhà máy hay

không? có đảm bảo tính đồng bộ của máy không? có phù hợp với điều kiện sản xuất ở
Việt Nam không? Ngoài ra, thông thường cán bộ tín dụng cũng không phân tích cụ thể
về khả năng sử dụng, vận hành thiết bị, công nghệ mới của dự án. Cụ thể đội ngũ kỹ sư,
công nghệ kỹ thuật trường hợp dự án được duyệt trong tình trạng không đạt yêu cầu về
kỹ thuật sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động của dự án khi đi vào hoạt động.
- Phương diện hiệu quả kinh tế xã hội hầu như không được đề cập trong bản thẩm định.
Công tác tổ chức quản lý dự án cũng hay bị bỏ qua, thiết nghĩ một dự án cho dù có
mang lại lợi nhuận lớn đến đâu và có đủ khả năng trả nợ gốc và lãi đi chăng nữa cũng
không thể chấp nhận nếu nó gây ra những ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực cho xã hội, đặc
biệt liên quan đến vấn đề môi sinh.
Tóm lại, việc hoàn thiện hơn nữa tính toàn diện trong công tác thẩm định dự án
đầu tư có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp, Ngân hàng và cả xã hội.
d) Về thế chấp, bảo lãnh, cầm cố
Thế chấp, bảo lãnh hay cầm cố tài sản là các biện pháp để Ngân hàng phòng chống
rủi ro trong trường hợp không thu hồi được nợ, Tuy nhiên, các quy định về điều này
hiện đang còn ở mức văn bản dưới luật. Do đó, khi thẩm định dự án đầu tư, cán bộ sẽ
phải mất nhiều thời gian để đánh giá, việc thực hiện hay giám sát phát mại tài sản bắt
buộc phải có sự phối hợp của các cơ qua chức năng cũng như chính quyền sơ tại và cơ
quan bảo vệ luật pháp. Nhưng thủ tục còn nhiều rườm rà, phức tạp, tạo tâm lý ngần ngại
cho cán bộ tín dụng trong quá trình thực hiện trách nhiệm. Vì vậy vấn đề thế chấp, bảo
lãnh, cầm cố đang là vấn đề đòi hỏi được giải quyết nhanh chóng.
Tóm lại, có bốn vấn đề chính đang gây trở ngại cho hoạt động thẩm định dự án ở
Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình, đó là:
- Sự thiếu đồng bộ và cụ thể trong cơ chế, chính sách của Nhà nước
- Nguồn thông tin chưa thực sự đáng tin cậy
- Công tác thẩm định chưa toàn diện
- Bảo lãnh, thế chấp còn nhiều vướng mắc, các vấn đề trên tạo khó khăn, trở ngại
lớn, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công tác thẩm định. Vấn đề đặt ra là cần phải làm
gì để khắc phục những khó khăn này, từng bước nâng cao chất lượng công tác thẩm
định dự án đầu tư

2.1.2.3. Cơ hội
Một là: Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng
Việt Nam nói chung và Chi nhánh nói riêng, nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
Hội nhập là cơ hội để Chi nhánh tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ
chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua
đó hạn chế biến động của thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an toàn cho hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và
hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các biện pháp
bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại,
trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ.
Đối với các TCTD, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc Chi
nhánh phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn
tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị
điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị
trường tài chính trong nước, khung khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông
lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân
chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn, thị phần của
NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác, nhất là tại các
thành phố và khu đô thị lớn. Tùy theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện những
ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân hàng bán buôn, ngân hàng
bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm
lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc
các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là
chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua
đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính.
Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài
chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân
hàng, Chi nhánh có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua

các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Trong
quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của Chi nhánh sẽ tạo điều kiện
phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy quan
hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Nhờ hội nhập quốc tế, Chi nhánh sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một cách
dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao
chất lượng và loại hình hoạt động. Đồng thời Chi nhánh sẽ phản ứng, điều chỉnh và
hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm
tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Hai là: Nền kinh tế nước ta tiếp tục ổn định và phát triển với tốc độ cao, môi
trường kinh tế ngày được cải thiện tích cực. Điều này cũng có tác động thúc đẩy rất lớn
đối với các Ngân hàng. Nhu cầu về vốn đầu tư phát triển, cho tiêu dùng ngày càng gia
tăng, khả năng huy động vốn cũng hết sức thuận lợi. Đây là cơ sở để Ngân hàng có thể
đưa ra chính sách họat động và mở rộng thị trường của mình.
Trong giai đoạn tới là giai đoạn bùng nổ các dịch vụ Ngân hàng bán lẻ trong đó
nổi trội lên là tiêu dùng cao cấp và thẻ Ngân hàng. Đây lại chính là lĩnh vực chiến lược
mà NHCT đang có thế mạnh. Việc chú trọng đầu tư cho công nghệ hiện đại, tăng cường
hợp tác phát triển các dịch vụ Ngân hàng cá nhân, đặc biệt là dịch vụ Ngân hàng các
nhân, điện tử trong thời gian qua là bước tiền đề cho Chi nhánh mở rộng họat động
trong giai đoạn tới.
Các công cụ chính sách của Nhà nước trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ ngày
càng đồng bộ và hợp lý hơn, tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể chủ động trong định
hướng hoạt động và phát triển.
Hiện tại, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, Chi nhánh đang có được đội ngũ
cán bộ tín dụng có chất lượng cao. Chính sách tiền lương, tiền thưởng và đào tạo tốt là
yếu tố thu hút và giữ chân các cán bộ nhân viên, giúp họ có được động lực đóng góp
cho sự phát triển chung của Ngân hàng.
2.1.2.4. Thách thức
Một là: Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tiếp
tục kéo dài những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục gánh chịu những tác

động xấu từ bên ngoài. Thị trường xuất khẩu bị co hẹp, hoạt động sản xuất kinh doanh,
tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, đà tăng trưởng kinh tế
giảm. Thị trường bất động sản khó có khả năng phục hồi sớm, là một trong những yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng, chất lượng tín dụng cũng như thu
hồi nợ xấu (do tài sản đảm bảo của các Ngân hàng thương mại chủ yếu là bất động sản).
Sự có mặt của các Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài sẽ đẩy mạnh mức độ
cạnh tranh giữa các Ngân hàng mạnh mẽ.
Áp lực cạnh tranh quốc tế là thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt
Nam nói chung, với Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng. Lĩnh vực tài chính Ngân hàng
là lĩnh vực chịu tác động đầu tiên và mạnh mẽ nhất khi nước ta gia nhập WTO. Thị
trường tài chính sẽ càng trở nên sôi động khi các công ty bảo hiểm, các Ngân hàng lớn
của nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam .
Những giao dịch mới ngày càng nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho công tác
thẩm định dự án đầu tư trong khi đó khách hàng ngày càng đòi hỏi chất lượng phục vụ
tốt hơn.
Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống NHTM gây nên một sự thiếu hụt về nguồn
nhân lực. Đây sẽ là bài toán khó nếu Chi nhánh không có được chính sách thu hút và
đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên phù hợp.
Hai là: Khi khách hàng nhận khoản giải ngân từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn
vào mục đích kinh doanh như: Đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đầu tư mua nguyên vật
liệu…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh những rủi ro không mong
muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được như:
+ Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.
Khi tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, bao giờ doanh nghiệp cũng tiến hành
đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát triển thị trường, dự
báo tăng trưởng doanh số. Nếu nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế quốc nội vận
hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp sẽ thực hiện tốt các kế hoach đề ra.
Tuy nhiên, ta biết rằng: Nền kinh tế nước ta hiện giờ đang phụ thuộc nhiều vào
các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Mà

những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết.
Khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, xuất
khẩu hàng nông sản (xuất khẩu café, hạt điều, xuất khẩu cá basa,..) có nguy cơ không
bán được khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Hoặc một sự thay đổi trong chính
sách nhập khẩu (tăng thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu chuẩn nhập khẩu) tại các nước
sở tại ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu.
+ Rủi ro do các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà.
Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải quan…
nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Ta biết rằng, cơ
hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ không thể thực hiện
nhanh chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp lý. Việc chậm trễ sẽ dẫn
đến hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ, các dự án đầu tư “buộc lòng”
phải “treo” trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp
vay vốn.
+ Rủi ro do thị trường bị bóp méo bởi hàng hóa nhập lậu.
Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên từ lâu đã là nỗi
“ám ảnh” của các doanh nghiệp nội địa. Hàng hóa nhập lậu có ưu điểm rẻ hơn về giá,
loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu của đại bộ phận người tiêu dùng có thu
nhập thấp. Các mặt hàng về đồ điện tử, kim khí, quần áo, mỹ phẩm là một minh chứng
cho hiện tượng trên.

×