Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Đánh giá tác dụng của điện châm phục hồi chức năng nghe cho trẻ em điếc tiếp nhận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 71 trang )

1

Đặt vấn đề
Từ hai thế kỷ trước, ănghen đà nêu Nghe là tiền đề của nói, nhờ có
nghe nói mà loài người đà tập hợp được thành một xà hội và xà hội đó sẽ có
nền văn minh ngày càng phát triển. Mất hoặc suy giảm sức nghe là một tật
khá phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo thông báo của tổ chức
Thính Học thế giới nêu rõ: Hiện nay số người bị điếc và nghe kém ảnh hưởng
đến sinh hoạt lên tới trên 300 triệu người và đang ngày càng tăng [23].
Bảo vệ sức nghe, phát hiện và xử trí cho người bị điếc và nghe kém
nói chung mà nhất là trẻ em nói riêng lµ mét nhiƯm vơ rÊt quan träng. Theo J.
C Lafon Không có thính giác thì không có ngôn ngữ nói . Điếc câm là một
tàn tật hết sức nặng nề. Trẻ -bị điếc không những bị khuyết đi thế giới âm
thanh để nhận thức thế giới bên ngoài mà còn mất luôn cả chức năng ngôn
ngữ nói - công cơ cđa giao tiÕp víi x· héi xung quanh. Do đó nếu trẻ không
sớm được PHCN nghe bằng các phương pháp đặc biệt của giáo dục, y tế, xÃ
hội thì sẽ không thích ứng với đời sống cộng đồng [30].
Những thành tựu mới YHHĐ nói chung và TMH nói riêng đà giúp
chúng ta hiểu sâu hơn về bệnh điếc, về bộ máy thính giác, kỹ thuật và phương
pháp thăm dò chức năng thính giác, phân loại điếc, nguyên nhân gây điếc
Những tiến bộ đó giúp cho xà hội loài người phòng ngừa, giảm thiểu số trẻ em
bị điếc, cũng như là những thước đo, đánh giá kết quả chữa bệnh điếc bằng
YHHĐ hay bằng YHCT.
Bệnh điếc và chữa bệnh điếc đà được y văn cổ Trung Hoa nói đến là
do Thận hư tinh thiếu và Can Đởm vượng. Theo YHCT thì tai là ngoại khiếu
của Thận. Các chứng tai ù, tai điếc phần lớn có liên quan tới Can và Thận.
Theo sách Nội Kinh - Tố Vấn và Linh Khu (770 - 221 tr.c.n), tai không phải là
một cơ quan cô lập mà tai có quan hệ mật thiết với kinh lạc và tạng phủ.
Thập nhị kinh mạch giả, thượng lạc vu nhĩ, nghĩa là: 12 đường kinh đi lên



2

trên đều liên lạc với tai. Các danh y Đại Việt: Lê Hữu Trác, Tuệ Tĩnh, Nguyễn
Đại Năng

trong các sách còn lưu lại có nói đến tác dụng của châm cứu chữa

bệnh điếc và câm.
Ngày nay, ngành TMH đà mổ chữa cho một số trường hợp điếc. Với
hoàn cảnh nước ta hiện nay vấn đề điều trị điếc, đặc biệt là điếc tiếp nhận còn
rất nhiều hạn chế. Từ những năm thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Gs Nguyễn Tài
Thu đà châm cứu thành công cho nhiều trường hợp điếc câm do chấn thương
chiến tranh [33]. Từ đó đến nay bệnh viện Châm Cứu trung ương điều trị có
kết quả cho nhiều người bị điếc ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên điện
châm PHCN nghe cho trẻ bị điếc cần được tiếp tục nghiên cứu để đưa ra
phác đồ tối ưu cho từng loại điếc cũng như cường độ kích thích huyệt và
liệu trình điều trị, do vậy chúng tôi tiến hành đề tài: Đánh giá tác dụng
của điện châm phục hồi chức năng nghe cho trẻ em điếc tiếp nhận
nhằm 2 mục tiêu:
1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, đánh giá tác dụng của điện châm phục
hồi chức năng nghe cho trẻ em điếc tiếp nhận theo y học hiện đại.
2. Biện luận tác dụng của điện châm phục hồi chức năng nghe cho trẻ
em điếc tiếp nhận theo y häc cỉ trun.


3

Chương 1

Tổng quan tài liệu

Điếc - câm là một tàn tật hết sức nặng nề. Trẻ không những bị khuyết đi
thế giới âm thanh để nhận thức thế giới bên ngoài mà còn mất luôn cả chức
năng ngôn ngữ nói. Theo F.Brohm và X. Sedlacek thì ở Tiệp Khắc cứ 1000 trẻ
có từ 20 - 30 trẻ do bị điếc mà chậm nói hay nói ngọng và có một trẻ bị điếc
nặng mà không nói được (tức điếc câm). Theo J.C Lafon thì ở Pháp, số trẻ bị
điếc nhẹ và vừa chiếm 3% số trẻ em và số trẻ điếc nặng chiếm khoảng 0,2%.
Theo Massimo del Bo Tại Hội nghị quốc tế TMH trẻ em lần thứ 2 tại Saint
Marin năm1970 thì cứ 1000 trẻ đẻ ra có một trẻ điếc nặng [30].
Năm 1971, viện TMH sơ bộ tìm hiểu trên địa bàn 4 xà thuộc đồng bằng
sông Hồng với số dân 17.871 đà phát hiện được 30 người điếc- câm, chiếm tỷ
lệ xấp xỉ 0,16%. Năm 1981 bộ môn TMH trường đại học Y Hà Nội điều tra ở
hai phường Trung Tự và Thổ Quan quận Đống Đa và xà Đông Mỹ huyện
Thanh Trì - Hà Nội thấy 12 người điếc câm trong tổng số 23.231 nhân khẩu
của địa bàn, chiếm tỷ lệ 0,05% [30].
Năm 1991 - 1995 viện khoa häc gi¸o dơc ViƯt Nam - bé gi¸o dơc và đào
tạo đà điều tra 13 tỉnh , 13 huyện với 313 xà thuộc đủ các vùng: đồng bằng,
trung du, miền núi, duyên hải, ở Bắc - Trung - Nam thấy tỷ lệ trẻ có tật chiếm
7% dân số, trong đó tật thính giác chiếm 22%, nên ước tính có 1 triệu trẻ bị
điếc và nghễnh ngÃng [8], [44], [45], [46].
Một số báo cáo của bộ lao động thương binh và xà hội năm 1996 cho
thấy ở Việt Nam ước có 2 triệu trẻ em tàn tật, chiếm 40% số đó là tật thính
giác [1].
Từ cuối thế kỷ trước người ta đà biết rằng không phải mọi trẻ điếc- câm
đều điếc hoàn toàn: ở Anh, James Kerr Love năm 1893 ®· cho biÕt chØ d­íi


4

10% học sinh điếc tại viện Điếc- câm Glasgow là bị điếc hoàn toàn, số còn lại
có thể nghe được các âm thanh có âm lượng lớn [30].

Năm 1772 1838, Jean Gaspard Marie Itard là người đầu tiên có sáng
kiến sử dụng các phần thính giác còn sót lại ở trẻ điếc và đà thành công trong
việc dạy các trẻ điếc phân biệt được các nguyên âm bằng tai nghe [30].
Năm 1998, Gs Nguyễn Tài Thu và cộng sự đà bước đầu đánh giá kết quả
nghiên cứu điện châm phục hồi chức năng nghe cho trẻ em bị điếc tiếp nhận
đạt kết quả tốt [42].
1.1- Quan niệm thính học theo YHHĐ
1.1.1- Đại cương về thính giác và cơ quan thính giác
Thính giác bình thường của người không hoàn toàn giống nhau.
Vùng nghe được của tai người ở dải 16 - 20.000 Hz và ở mỗi tần số có
ngưỡng nghe tối thiểu và tối đa. Tiếng nói con người nằm trong vùng nhạy
cảm nhất của trường nghe, khoảng tần số 250 - 4000 Hz, tối đa ở vùng tần số
1000 - 2000 Hz.
VỊ c­êng ®é: tõ 30- 70 dB, nãi nhá 30-35 dB, nãi võa 55dB, nãi to 70dB.
V× vËy sự giảm sút thính lực trong vùng tiếng nói được nhiều người chú ý và ít
quan tâm đến sự giảm sút thính lực ở vùng khác. Về cường độ, sự giảm sút sức
nghe >30 dB mới được chú ý [51].
1.1.2 - Nhắc lại giải phẫu và sinh lý của hệ thống dẫn truyền và tiếp
nhận âm thanh
Tai là một cơ quan có cấu trúc phức tạp, chức năng của cơ quan này là
cảm nhận âm thanh (nghe), nó gồm có quá trình dẫn truyền âm thanh và tiếp
nhận âm thanh, bên cạnh chức năng nghe, tai còn tham gia vào việc điều
chỉnh thăng bằng cho cơ thể. Về giải phẫu tai gồm 3 phần đó là tai ngoài, tai
giữa và tai trong [14], [23], [30], [54].
1.1.2.1- Tai ngoµi:


5

Phần dễ nhìn thấy nhất của tai ngoài là vành tai. Nó có vai trò hạn chế

bớt âm thanh mạnh vào ống tai. Ngoài ra nó còn có vai trò thẩm mỹ nhiều
hơn: để đeo khuyên tai hoặc đeo kính.
Phần tiếp theo là ống tai. Nó còn được gọi là ống tai ngoài. Đó là ống
được tạo từ cơ, giúp cộng hưởng các âm thanh thu được vào ống tai. Trung
bình ống tai ngoài dài khoảng 2,5 cm và hơi cong. Đầu trong của nó là màng
nhĩ. Phần lớn chiều dài ống tai là sụn nên mềm mại nhưng cũng dễ tổn thương
khi dùng các vật lạ để ngoáy tai. Tai ngoài có chức năng thu thập và dẫn
truyền âm thanh vào tai giữa [13], [14], [30].
1.1.2.2- Tai giữa:
Gồm màng nhĩ, chuỗi ba xương con (gọi là tiểu cốt) và vòi nhĩ. Vòi nhĩ
nối hòm tai giữa với mũi hầu. Các cấu trúc này nằm trong khoang của xương
thái dương ở phần đáy sọ.
Màng nhĩ là cấu trúc bán trong suốt, hình nón tương đối chắc chắn mặc
dù đủ mềm mại để rung động. Màng nhĩ nhạy cảm với các âm thanh có các
tần số khác nhau. Phần lớn màng nhĩ đáp ứng với các âm thanh có tần số thấp,
chỉ có một phần đáp ứng với âm thanh tần số cao đặc biệt. Nhờ rung động của
nó, các âm thanh được truyền từ màng nhĩ tới chuỗi tiểu cốt. Chuỗi tiểu cốt
(ba xương con) được treo trong tai giữa nhờ các dây chằng. Xương đầu tiên
được gọi là xương búa (vì nó trông như chiếc búa) và dính với màng nhĩ.
Xương tiếp theo là xương đe (vì nó giống ®e). Nã nèi víi x­¬ng bóa b»ng mét
khíp rÊt nhá, nhờ đó có thể truyền được các rung động vô cùng nhỏ. Xương
thứ ba gọi là xương bàn đạp (vì nó giống cái bàn đạp). Âm thanh được truyền
từ xương búa sang xương đe tới xương bàn đạp vào tới cửa sổ bầu dục ở tai
trong.
Có hai cơ rất nhỏ ở tai giữa, hạn chế sự rung chuyển của màng nhĩ và các
xương con. Cơ căng màng nhĩ kéo căng màng nhĩ, do vậy hạn chế sự rung


6


động của màng nhĩ. Cơ thứ hai là cơ bàn đạp, nó giữa chuỗi xương con làm
hạn chế rung động. Những phản ứng này mang tính phản xạ gọi là phản xạ
thính học. Nhờ đó mà tai được bảo vệ khỏi tổn hại bởi những âm thanh hoặc
tiếng động quá lớn [13], [47], [54].

Hình 1: Sơ đồ cắt ngang tai, gồm tai ngoài, tai giữa, tai trong [22], [54].
1.1.2.3- Tai trong:
Gồm: ốc tai đảm nhiệm chức năng nghe.


7

Tiền đình gồm nang cầu, nang xoan và các ống bán khuyên đảm
nhiệm chức năng thăng bằng
ốc tai
ốc tai là một bộ phận của tai trong, đó là phần mê nhĩ trước hay mê nhĩ
thính giác (labyrinthe auditif), nó cùng với mê nhĩ sau (mê nhĩ tiền đình) tạo
nên tai trong. Hai bộ phận này về mặt giải phẫu có liên hệ mật thiết với nhau,
nhưng về mặt chức năng thì hoàn toàn khác nhau [14], [54], [58],[61].
- ốc tai xương: Được ví như ống rỗng nằm trong xương đá, tự xoay
quanh mình nó 2 vòng rưỡi, trông giống như hình con ốc, phần đầu của vòng
xoắn ốc đầu tiên có 2 cửa sổ, đó là cửa sổ tròn có màng nhĩ phụ đậy và cửa sổ
bầu dục có đế của xương bàn đạp lấp vào mà qua đó năng lượng sóng âm sẽ
được truyền vào tai trong. Lòng của ốc tai xương có chứa ngoại dịch và có ốc
tai màng chạy trong đó [30], [47], [54], [61].
- ốc tai màng: Còn được gọi là ống ốc tai, đó là một ống màng dài
khoảng 32 mm, chạy trong lòng của ốc tai xương, trong lòng có chứa đầy nội
dịch [47], [54], [60].
Trên thiết đồ cắt ngang qua ống ốc tai, thấy ốc tai màng giới hạn bởi 3
thành:

o Thành trên: Màng Reissner
o Thành dưới: Màng đáy và cơ quan Corti
o Thành ngoài: Dây chằng xoắn ngoài và vân mạch.
Phía trên màng Reissner là vịn tiền đình có chứa đầy ngoại dịch, phía
dưới của màng đáy là vịn nhĩ cũng chứa ngoại dịch. Cơ quan Corti: Nằm trên
màng đáy, được cấu tạo bởi các tế bào biểu mô thần kinh biệt hoá cao và các
tế bào thần kinh đệm [30], [47], [61].


8

Hình 2: Thiết đồ cắt ngang qua ống ốc tai [22]

Có hai loại tế bào biểu mô thần kinh:
+ Tế bào lông trong: Đó là tế bào hình quả lê, số lượng khoảng 3 500
đến 4 000 tế bào, các tế bào này được sắp xếp thành một hàng và trên đầu của
mỗi tế bào có hệ thống lông lập thể (stereocils) [47], [54], [61].
+ Tế bào lông ngoài: Đó là các tế bào hình trụ, số lượng khoảng 30
000 đến 40 000 tế bào, các tế bào này được sắp xếp thành 3 hàng và cực trên
cũng có hệ thống lông lập thể [47], [54], [61].
Các tế bào thần kinh đệm: Gồm có:
+ Các tế bào trụ tháp Corti
+ Các tế bào Deiters
+ Các tế bào Hensen vµ Claudius


9

Mạch cấp máu cho ốc tai
Động mạch tai trong được tách ra từ động mạch tiểu nÃo trước

dưới thuộc hệ đốt sống thân nền, động mạch này tiếp tục chia thành 3 nhánh
chính [14], [26], [47], [59], [61].
+ Động mạch tiền đình: Cấp máu cho phần tiền đình.
+ Động mạch ốc tai: Cấp máu cho 3/4 trước của ốc tai.
+ Động mạch tiền đình- ốc tai: Cấp máu cho một phần của tiền
đình và 1/4 sau của ốc tai.
Dây thần kinh ốc tai và đường thần kinh thính giác
Sau khi năng lượng của sóng âm được truyền vào ngoại dịch của tai
trong qua cửa sổ bầu dục, năng lượng của sóng âm này sẽ tác động lên cơ
quan Corti và cơ quan Corti sẽ chuyển chúng thành các xung động thần kinh
theo các sợi trục của các tế bào lông trong, tập trung về hạch Corti rồi dẫn
truyền qua bó loa đạo của dây thần kinh số VIII, đi trong ống tai trong vào
thân nÃo.
ở thân nÃo, bó loa đạo chia thành nhiều bó nhỏ đi đến nhiều nhân thần
kinh như nhân ốc lưng, nhân ốc bụng, phức hợp trám trên, củ nÃo sinh tư dưới
và cuối cùng tập trung lại đi lên thuỳ thái dương 1 và 2 của vỏ nÃo, đó chính là
trung khu phân tích thÝnh gi¸c [14], 30], [47], [48], [49], [54].
1.1.3- Sinh lý quá trình nghe
Sóng âm đập vào màng nhĩ làm nó dao động gây nên dao động của
chuỗi xương con. Khi xương bàn đạp đập vào cửa sổ bầu dục, đập vào ngoại
dịch ở vịn tiền đình (thang tiền đình). Những cử động này gây đẩy hoặc kéo
ốc tai màng (mê đạo màng), làm chuyển động ngoại dịch ở vịn nhĩ (thang
nhĩ). Những cử động của dịch này khiến nhiều cấu trúc kể cả màng đáy (màng
nền) cử động [13], [23], [51].


10

1.1.3.1- Truyền sóng âm
Màng đáy bắt đầu chuyển động từ phía đáy (gần cửa sổ bầu dục) sau đó

cử động lên xuống được chuyển từ phía dưới lên đỉnh màng đáy. Kiểu dao
động này được gọi là truyền sóng. Biên độ của sóng âm tăng lên và đạt cực đại
tại một vị trí nào đó của màng đáy và sau đó giảm dần. Vị trí cực đại được xác
định nhờ tần số của sóng âm. Những âm có tần số cao sẽ gây kích thích ở
phần đáy của màng đáy. Ngược lại những âm có tần số thấp kèm biên độ dao
động lớn gây cử động ở phần đỉnh. Sự sắp xếp mối liên quan giữa tần số âm
và vị trí dao động của màng đáy gọi là cấu tạo định khu âm thanh. Cường độ
âm thanh cũng ảnh hưởng đến biên độ sóng âm được truyền. Âm thanh nhỏ có
biên độ sóng truyền thấp và ngược lại. Như vậy, tần số âm thanh được xác
định bởi vị trí nhận ở màng đáy và cường độ âm thanh được quy định bởi biên
độ sóng truyền của ngoại dịch [13], [23], [51].
1.1.3.2- Chuyển dạng âm thanh
Cơ quan corti nằm lơ lửng trong dịch endolymph. Cơ quan này chứa tế
bào lông, có vai trò chính trong quá trình nghe. Các sóng âm ở dạng năng
lượng cơ học được chuyển thành dạng năng lượng điện. Quá trình biến đổi từ
dạng năng lượng này sang dạng năng lượng khác gọi là chuyển dạng. Việc
thực hiện chức năng này chính là nhờ tế bào lông. Chân các tế bào này ở màng
đáy, còn các lông nhỏ cắm vào màng mái. Cử động lên xuống của cơ quan
corti khiến các sợi lông này ngả ra trước và sau. Những cử động này của sợi
lông được gọi là cử động lắc lư, chính là quá trình chuyển dạng âm[13],[51]
1.1.3.3- Giải phóng chất dẫn truyền thần kinh
Bên trong các tế bào lông chứa đầy các ion mang điện tích âm. Nội
dịch, mà các sợi lông của tế bào lông ngập trong đó, lại chứa đầy các ion
dương. Những điện tích trái dấu này cách nhau bằng màng tế bào. Các cử
động lắc lư của sợi lông làm đóng và mở cửa sổ rất nhỏ ở đầu sợi lông. Khi
mở, các ion dương đi vào tế bào lông và các ion âm bên trong tế bào có kích


11


thước lớn nên không ra khỏi tế bào. Điện thế bên trong tế bào giảm gọi là quá
trình khử cực và sảy ra ở đáy tế bào. Các túi nhỏ chứa chất hoá học, gọi là chất
dẫn truyền thần kinh, được giải phóng ra ở khoang dịch bao quanh tế bào.
Ngay ở đó các chất này kích thích các tế bào thần kinh, nằm ngay cạnh tế bào
lông. Như vậy quá trình chuyển dạng đà được thực hiện: tế bào lông chuyển
năng lượng cơ học (lắc lư các sợi lông ) thành năng lượng điện (giải phóng
chất dẫn truyền thần kinh) [13], [23], [51].
1.1.4- Định nghĩa điếc
Điếc nghĩa là suy giảm hoặc mất toàn bộ hay một phần sức nghe. Có
thể là điếc nặng nếu mất hoàn toàn sức nghe, điếc vừa nếu mất một phần thính
giác và điếc nhẹ hay còn gọi là nghễnh ngÃng [7], [8].
1.1.5-- Phát hiện nghe kém và đánh giá sức nghe trẻ em
Sóng âm được tiếp nhận bởi cơ quan thính giác bằng các đường khác
nhau. Thông thường, các loại động vật sống trên mặt đất trong đó có con
người, nhận các kích thích âm thanh bằng đường không khí. Sóng âm qua tai
ngoài, tai giữa tới tai trong, gây các chuyển động của dịch , kích thích cơ quan
corti, và được truyền tới dây thần kinh thính giác. Đường dẫn truyền này gọi là
dẫn truyền đường khí. Ngoài ra, sóng âm còn được dẫn truyền vào tai trong
nhờ những dao động của xương sọ. Những dao động này được truyền tới ốc tai
xương (mê đạo xương) và cũng gây những dao động tương tự ở cơ quan corti
như cách truyền âm bằng đường khí. Cách dẫn truyền âm này gọi là dẫn
truyền bằng đường xương [13].
1.1.5.1- Các phương pháp đo sức nghe đơn giản:
Dựa vào quan sát các phản xạ với tiếng động ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ: Sử
dụng hộp đồ chơi phát ra tiếng kêu súc vật, dùng tiếng nói của người, dùng
chũm choẹ, trống, thanh la Các phương pháp này không phải là cách đo định
lượng mà chỉ cho được ý niệm gần đúng để phân biệt một trẻ nghễnh ngÃng
nhẹ với một trẻ điếc vừa hay điếc nặng.



12

1.1.5.2 - Đo sức nghe bằng tiếng nói
Khoa điếc trẻ em - thÝnh häc viƯn TMH sư dơng 24 tõ thử được thể hiện
bằng 24 hình vẽ có những khái niệm gần gũi, dễ hiểu đối với trẻ. Phương pháp
này không chỉ liên quan đến thính giác mà cả đến trình độ hiểu biết, suy đoán,
nó bổ sung cho phương pháp đo bằng đơn âm.
1.1.5.3 - Các kỹ thuật đo có điều kiện
Với các trẻ có khả năng cộng tác thì có thể đo được sức nghe bằng đơn
âm để có được một thính lực đồ hoàn chỉnh. Dùng các phương pháp đo sức
nghe bằng đơn âm như: Phản xạ ®Þnh h­íng cã ®iỊu kiƯn (R.O.C), ®o søc
nghe b»ng Peep- Show, phương pháp đo dùng bộ hình học mẫu giáo.
Đo sức nghe bằng âm đơn:
Đây là phương pháp đo thính lực nhờ máy đo. Máy tạo nên hàng loạt
các tín hiệu là các âm đơn với một tần số mà không phải là sóng hài. Tần số
của các tín hiệu gồm: 125Hz, 250Hz, 500Hz, 1000Hz, 2000Hz, 4000Hz, 8000
Hz.
Phương tiện đo: Là các máy đo thính lực.
Máy Clinical Computer Audiometre Model AC5 đo sức nghe đơn âm.
Cách đo: Đo thính lực bằng đường xương hay đường khí đều nhằm xác
định ngưỡng nghe của người bệnh ở các tần số khác nhau đối với mỗi bên tai.
Nếu đo bằng đường khí, người bệnh phải đeo chụp tai và tín hiệu lần lượt được
phát ra từ mỗi bên tai nghe. Nếu đo bằng đường xương dao động ký được áp
chặt vào xương sọ, thường là mỏm chũm mỗi bên. Nhưng dù tín hiệu phát ra ở
mỗi bên nhưng dao động của xương đều được truyền cùng lúc đến ốc tai hai
bên, nên khó mà xác định được đáp ứng là của ốc tai bên nào.
Các tín hiệu âm thanh do máy phát ra được xác định bằng tần số và
cường độ của âm. Tần số của âm đo bằng Herzt (Hz- số chu kỳ trong một
giây). Cường độ âm đo bằng đề-xi-ben (dB). Sức nghe người bình thường được



13

xác định trong khoảng 10 đến 15 dB. Mọi ngưỡng nghe lớn hơn 15 dB được
coi là nghe kém, dù bằng đường khí hay đường xương, hoặc cả hai.
Biểu đồ ngưỡng nghe: Ngưỡng nghe được biểu diễn trên đồ thị, gọi là
thính lực đồ. Trục hoành phía trên biểu diễn các tần số của tín hiệu (Hz). Trục
tung thể hiện cường độ của kích thích (dB). Độ lớn của các thông số tăng dần
từ trên xuống dưới và từ trái qua phải [13].
1.1.5.4 - Các phương pháp đo sức nghe khách quan
Các phương pháp này không đòi hỏi đến sự cộng tác của trẻ, cũng như
không phải dựa vào sự quan sát các phản xạ thính giác: đo sức nghe bằng ghi
điện thân nÃo, ghi điện ốc tai và đo trở kháng tai. Những phương pháp này
cũng chỉ đưa ra đánh giá bước đầu về sức nghe của trẻ.
Phương pháp đo trở kháng tai đơn giản, rẻ tiền có hai ứng dụng lâm
sàng:
- Nhĩ đồ: Bình thường biểu hiện như một hình nón không cân xứng, đáy
loe, đỉnh trùng với áp suất 0. Khi có dịch tiết nước hoặc nhày trong hòm nhĩ,
vòi nhĩ bị tắc một phần hoặc tắc hoàn toàn .Nhĩ đồ có các hình ảnh bệnh lý
đặc biệt.
- Phản xạ cơ bàn đạp: Xác định được tương đối chính xác sức nghe của
trẻ, phân biệt rõ được nghe kém và sức nghe bình thường. Trường hợp bình
thường ngưỡng phản xạ cách ngưỡng nghe khoảng 70 - 90 dB. Khi có hồi
thính ngưỡng này thu hẹp lại.
Đo phản xạ cơ bàn đạp có thể phát hiện nhiều trường hợp điếc giả vờ.
1.1.6 - Phân chia các loại điếc
1.1.6.1 - Các kiểu điếc ở trẻ em
Sức nghe bình thường cđa con ng­êi lµ cã ng­ìng nghe d­íi 15 dB ë
mäi tÇn sè [13], [24], [52].



14

Mức giảm sút sức nghe tính
bằng dB

Tần số tính bằng héc (Hz)

Hình 3: TLĐ bình thường [17], [18].
Theo kinh điển có 3 loại:
* Điếc dẫn truyền đơn thuần:
- Đồ thị đường xương bình thường, đồ thị đường khí xuống thấp.
- Ngưỡng nghe đường khí cao hơn 20dB nhưng không bao giờ
vượt quá 60-70dB [30], [53].

Mức giảm sút sức nghe tính
bằng dB

Tần số tính bằng Hec (Hz)

Hình 4: TLĐ điếc dẫn truyÒn [17], [18].


15

* Trẻ bị điếc tiếp nhận thuần tuý:
- Đồ thị đường khí và đường xương đều xuống thấp, luôn song
hành, có thể trùng nhau.
- Ngưỡng nghe đường khí và đường xương đều cao và ở cùng
một tần số thì hai ngưỡng nghe không chênh lệch quá 10 dB [30], [53],

[57].

Mức giảm sút sức nghe
tính bằng dB

Tần số tính bằng Hec (Hz)

Hình 5: TLĐ điếc tiếp nhận [17],[18].
* Điếc hỗn hợp với các đặc điểm trên thính lực đồ:
- Đồ thị đường khí và đường xương đều xuống thấp nhưng
không bao giờ song hành hay trùng nhau
- Ngưỡng nghe đường khí và đường xương đều cao nhưng
không bằng nhau, ngưỡng nghe đường khí luôn cao hơn đường
xương 10-60 dB.
- Nếu đồ thị đường khí thấp cách xa đường xương ở tần số
trầm rồi đi chếch lên và gần với đồ thị đường xương ở tần số cao ta
có nghe kém hỗn hợp thiên về dẫn truyền.


16

- Nếu đồ thị đường khí và đường xương xuống thấp ở tần số
cao ta có nghe kém hỗn hợp thiên về tiếp nhận [31], [53], [56], [57].

Hình 6: TLĐ điếc hỗn hợp thiên về dẫn truyền [17], [18].
Tần số tính bằng Hec (Hz)

Hình 7: TLĐ điếc hỗn hợp thiên vÒ tiÕp nhËn [17], [18].



17

1.1.6.2 - Các mức độ điếc ở trẻ em
Đây là một tiêu chí phân loại chủ yếu. Theo kinh điển người ta đánh
giá mức độ điếc bằng cách tính trung bình cộng mức điếc của trẻ ở 3 tần số
chính 500, 1000 và 2000Hz đo đường khí đạo và tính bằng đơn vị dB với công
thức Fletcher - Carhart:
Sức nghe  dB ( 500 )  dB (1000 )  dB ( 2000 )
3

-Trẻ bị điếc độ I: Sức nghe của trẻ có cường độ 20- 40 dB. Đó là trẻ
nghễnh ngÃng, điếc nhẹ.
-Trẻ bị điếc độ II: Sức nghe của trẻ có cường độ trong khoảng 40-60
dB. Đó là trẻ điếc vừa.
-Trẻ bị điếc độ III: Sức nghe của trỴ tõ 60 - 90 dB, cã thĨ nhËn ra một
số tiếng động và còn có khả năng phân biệt các nguyên nhân nhưng phân biệt
rất khó các phụ âm. Đó là những đứa trẻ điếc nặng, có thể trở thành điếc câm.
-Trẻ bị điếc độ IV: Với sức nghe lớn hơn 90 dB. Đó là những đứa trẻ
điếc đặc mà để tự nhiên chắc chắn sẽ trở thành điếc câm. [17], [18], [25], [30].
1.1.7 - Những nguyên nhân gây điếc ở trẻ em
Có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra điếc cho trẻ em
1.1.7.1 - Các nguyên nhân di truyền
Ngày nay, người ta thừa nhận khoảng 20-25% trẻ điếc là do di truyền.
Các nhà di truyền học xếp các tổn thương di truyền ra làm 4 loại:
- Các loạn sản về hình thái: gây ra các dị hình của cơ quan.
- Các loạn sản về tổ chức: thường là các loại sản của mô liên kết.
- Các loạn sản về phân tử: hay bệnh chuyển hoá di truyền mà hiện
nay người ta chưa biết cơ chế tại sao gây ra điếc.
- Các thoái hoá: đó là các vô dưỡng sinh được Gowers gọi là bệnh
thoái hoá di truyền thường gây tổn thương chủ yếu ở cơ, hệ thần kinh và mặt.

Có 6 hội chứng khác nhau đà được mô tả từ lâu. Các quá trình vô dưỡng sinh


18

xảy ra ở biểu mô giác quan của cơ quan Corti hoặc một biểu mô giác quan
khác như biểu mô thận, mô thần kinh, nÃo

Các kết hợp hết sức khác nhau và

cho các bệnh cảnh phức tạp.
Các bệnh di truyền có liên quan tới phần dẫn truyền của
thính giác tổn thương giải phẫu liên quan đến vành tai, ống tai ngoài, hòm nhĩ,
các xương con. Các dị dạng phối hợp có thể là: liệt mặt bẩm sinh, teo hàm
dưới và xương gò má. Các hội chứng khác nhau đà được mô tả:
* Hội chứng Franceschelli: hội chứng lệch khớp hàm mặt.
* Hội chứng mắt-tai của Franceschlli và Golderhar.
* Bệnh Lobstein-Vander Hoeve: xương dễ gÃy, xốp xơ tai, dây
chằng khớp nhÃo, củng mạc mắt xanh.
* Hội chứng Alpert- Crouzon: lệch khớp sọ mặt, rộng xương
bướm, mắt lồi
* Hội chứng Marfan: chi dài, dị dạng tim, mắt.
Các bệnh di truyền có liên quan đến phần tiếp nhận của thính
giác hay gặp hơn và được phân biệt thành 4 thể loại điếc:
* Thể loại Siebenmann: tổn thương vỏ xương ốc tai, sợi dây thần
kinh số VIII.
* Thể loại Scheibe: thiếu hoặc phát triển không đầy đủ các giác
quan của tai trong với vỏ xương ốc tai vẫn nguyên vẹn. Di truyền lặn, nhiễm
sắc thể thường.
* Thể loại Mondini: dị dạng vỏ xương ốc tai, teo dây thần kinh ốc

tai xuất hiƯn mn, di trun tréi, nhiƠm s¾c thĨ th­êng.
* ThĨ loại Michel: bất sản toàn bộ mê nhĩ, hiếm gặp.
Người ta phân biệt hai loại điếc tiếp nhận di truyền:
* Điếc đơn phát có tính chất lặn hay cố định: Xảy ra từ khi đẻ và
không tiến triển. Điếc nặng cả hai tai, đối xứng, đường biểu diễn sức nghe đổ
nhanh về phía tần số cao hoặc có độ dèc h×nh cïi d×a.


19

* Điếc thoái hoá có tính chất trội hay điếc tiến triển: Điếc tiếp
nhận đối xứng hai bên, xảy ra muộn 5 - 30 tuổi. Đồ thị thính lực đa dạng.
Các điếc lặn trội, đều có thể kèm các bệnh di truyền khác có liên
quan đến bộ máy khác như:
Mắt: Héi chøng Usher, héi chøng Waadenburg Kleln.
ThËn: Héi chøng Alport.
ThËn- tuyến giáp: Hội chứng Pendred.
Hệ thần kinh
Song thông thường nhất thì điếc di truyền kiểu tiếp nhận là riêng rẽ
chiếm 90% số trẻ điếc có căn nguyên di truyền [18], [23], [30], [55].
Tiêu chí nghĩ đến điếc di truyền là:
* Trẻ bị điếc cả hai tai, đối xứng.
* Gia đình có người điếc.
* Tiền sử bản thân không phát hiện được nguyên nhân gây điếc.
1.1.7.2 - Điếc do các bệnh xảy ra trong các thời kỳ bào thai có tầm quan
trọng đặc biệt do khả năng áp dụng được các biện pháp dự phòng. Ngày nay
có khuynh hướng xem mọi người bệnh mà người mẹ mắc phải khi có thai đều
có thể là nguyên nhân gây ra điếc cho thai nhi:
C¸c bƯnh nhiƠm vi rut: rubeon (phong chÈn), zona, thủ đậu, sởi,
quai bị, cúm, toxoplasma

Các bệnh nhiễm khuẩn: giang mai, lao
Các rối loại chuyển hoá thể dịch hay nội tiết.
Các nguyên nhân gây đe doạ sẩy thai, xuất huyết nhiều lần.
Các bệnh mạn tính: bệnh thận, đái tháo đường
Các nguyên nhân nhiễm độc và rối loạn chuyển hoá: thiếu vitamin,
nhiễm độc chì, rượu, thuốc lá, thuốc phá thai, các tác nhân vật lý, các thuốc
Aminosid phù niêm bẩm sinh [18].
1.1.7.3- Các nguyên nhân gây ra điếc trong khi đẻ


20

Chấn thương khi đẻ gây chảy máu tai trong, xuất huyết nÃo, màng
nÃo của trẻ. Mẹ đẻ khó do khung chậu hẹp, can thiệp Foocxep, đẻ quá lâu, quá
nhanh, chèn ép cuống rau, rau cuốn cổ

đà gây ngạt và gây tổn thương bộ

máy thính giác.
Do đẻ non: do thiếu ô xy, suy hô hấp
Do bất đồng nhóm máu, yếu tố Rh [18].
1.1.7.4- Các nguyên nhân gây ra điếc xảy ra sau khi đẻ
Do chấn thương: hiếm gặp có thể là điếc do gián đoạn chuỗi xương
con. Có thể là tiếp nhận do chấn thương âm thanh, chấn thương sọ có hay
không có vỡ xương đá.
Do nhiễm độc thuốc: Các kháng sinh nhóm Aminosid, Quinin,
Salixlat, v.v.v điếc xảy ra thương tiến triển cả hai tai, kiểu tiếp nhận thuần
tuý.
Do nhiễm vi khuẩn và vi rút: hay gặp.
. Điếc do nhiễn khuẩn bộ máy tiếp nhận: Các viêm màng nÃo tuỷ: điếc cả hai tai. Các viêm nÃo do ho gà, sởi, quai bị, thuỷ đậu có thể gây

tổn thương các nhân ốc tai và dây thần kinh thính giác. các di chứng có khi rất
phức tạp và nặng nề vì kèm theo điếc là tổn thương thần kinh khác nhau và trì
độn trí tuệ.
. Điếc do nhiễm khuẩn bộ máy dẫn truyền: viêm tai giữa cấp và
mÃn, viêm tai xương chũm [18]...
1.1.7.5 - Các loại điếc không có căn nguyên rõ rệt
Trong số này có hai căn nguyên cần làm sáng tỏ thêm: điếc di truyền
và điếc do nhiễm khuẩn vi rút trong thời kỳ bào thai.
Việc nghiên cứu kỹ các căn nguyên gây điếc ở trẻ nhỏ mang ý nghĩa
quan trọng về phương diện dự phòng và trị liệu. Điếc do nhiƠm vi khn, vi rót
trong thêi kú bµo thai dễ bỏ qua vì các dấu hiệu nhiễm khuẩn nhiều khi hÕt


21

sức tối thiểu, có khi tiềm tàng và chẩn đoán dựa vào phản ứng huyết thanh lại
không tìm được [16], [18].
1.2- Quan niƯm thÝnh häc theo YHCT
Theo YHCT th× tai là ngoại khiếu của Thận. Thận khí phải đầy đủ, can
huyết phải dồi dào thì nhĩ mục mới thông minh: mắt mới nhìn rõ, tai mới nghe
được. Các chứng tai ù, tai điếc phần nhiều có liên quan tới Thận và Can.
Theo sách Nội Kinh-Tố Vấn và Linh Khu (770 - 221 trước công nguyên),
tai không phải là một cơ quan cô lập mà tai có quan hệ mật thiết với kinh lạc
và tạng phủ.
Thập nhị kinh mạch giả, thượng lạc vu nhĩ, nghĩa là: 12 đường kinh đi
lên trên đều liên lạc với tai.
Nhiều đoạn trong Nội Kinh-Tố Vấn và Linh Khu đà nêu lên quan hệ mật
thiết đó.
1.2.1 - Quan hệ giữa tai và kinh lạc
Nội kinh-Linh khu ở Thiên Tà khí tạng phủ bệnh kinh :

Thập nhị kinh mạch, tam bách lục thập ngũ lạc, kỳ hut khÝ giai
th­ỵng vu diƯn nhi tÈu khỉng khiÕu kú biƯt khÝ tÈu vị nhÜ di thÝnh”
Cã nghÜa: KhÝ hut của 12 kinh chính và 365 lạc đều chạy lên phía
trên tới mặt, vào ngũ quan (mũi, mắt, miệng, tai, lưỡi), thất khiếu (hai con
mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng) đặc biệt đi ra tai làm cho nghe được.
Nội kinh-Linh khu ở Thiên

Kinh mạch :

Mạch của thủ thiếu dương (kinh Tam Tiêu) chạy lên gáy tới sau
tai, chạy thẳng lên góc trên của tai rồi vào tai trong và ra phía trước
tai.
Mạch của túc thiếu dương (kinh Đởm) chạy tới sau tai, đi vào
trong tai rồi lại ra trước tai.
Mạch của thủ thái dương (kinh Tiểu Trường) chạy lên đến đuôi
mắt thì chuyển vào tai trong.


22

Mạch của túc thái dương (kinh Bàng Quang) đi tới đỉnh đầu rồi
xuống góc trên tai.
Mạch của túc dương minh (kinh Vị) đi đến huyệt giáp xa thì đi
lên phía trước tai.
Biệt lạc của thủ dương minh (kinh Đại Trường) đi vào tai, hợp
với tổng mạch.
Như vậy tuần hành của 6 kinh dương đều đi đến tai.
Tuy 6 kinh âm không trực tiếp đi đến tai, nhưng 6 kinh biệt của 6 kinh
âm đều hội họp với 6 kinh biƯt cđa 6 kinh d­¬ng, råi cïng nhËp vào 6 kinh
dương, nên như vậy thì 6 kinh âm cũng có quan hệ gián tiếp với tai.

Vì vậy trong thiên Khẩu vấn của Linh Khu đà nói: Nhĩ vi tổng
mạch chi sở tụ nghĩa là: Tai là nơi tụ tập của các mạch.
Nội kinh -Tố vấn ở Thiên Mậu thích luận :
Năm lạc của thủ túc, thiếu âm, thái âm và túc dương minh đều hội
họp ở trong tai: cũng nói lên 5 lạc của 4 kinh âm (Thủ-Túc: Thiếu âm, Thái
âm) đều cùng hợp với một kinh dương (Túc dương minh vị) để đi vào tai.
Sách Kỳ kinh bát mạch khảo của Lý Thời Trân (đời Minh- Trung
Quốc) cũng nói thêm một bước quan hệ giữa kinh lạc và tai như sau:
Hai mạch âm kiểu và Dương kiểu, phân bổ tại mặt trong và mặt
ngoài của đùi, tại đầu gối, cũng song song đi vào sau tai.
Mạch Dương duy giống như chiếc võng liên lạc các kinh dương của
toàn thân, đi lên đầu vào tai [39].
1.2.2 - Quan hệ giữa tai và tạng phủ
Quan hệ giữa tai và Tâm-Thận
Thiên Mạch đồ trong Nội kinh- Linh khu đà ghi: Thận khí thông ra
tai. Thận bình thường thì nghe tốt. Trên lâm sàng Thận hư thường gây ra ù
tai, điếc tai nên khi điều trị ù tai điếc tai thường bổ Thận. Đó là quan hệ giữa
Thận và tai.


23

Thiên Kim quỹ chân ngôn luận trong Nội Kinh-Tố vấn nói: Nam
phương sắc đỏ, thông với tâm, khai khiếu ở tai tại sao Tâm cũng khai khiếu ở
tai?
Góc khiếu của Tâm là lưỡi (Tâm khai khiếu tại thiệt) nhưng vì lưỡi
không có lỗ khiếu (khống khiếu) nên đà gửi khiếu ở tai.
Vì thế, Thận lấy tai làm chủ khiếu, Tâm lấy tai làm khách khiếu (theo
Triệu Dương Quì đời Minh giải thích trong sách Y quán).
Đó là quan hệ giữa tai và hai tạng: Tâm và Thận.

Quan hệ giữa tai và Tỳ Vị
Thiên Ngọc cơ chân tàng luận trong Nội Kinh-Tố vấn viết: Tỳ bất
cập làm cho cửu khiếu không thông tức là bệnh hư nhược ở Tỳ làm cho ngũ
quan thất khiếu và hai khiếu tiền âm, hậu âm không thông.
Thiên Thông bình hư thực luận trong Nội kinh-Tố vấn cũng viết:
tai ù đầu đau cửu khiếu không thông là do Trường Vị gây ra.
Quan hệ giữa tai với Can, Phế, NÃo, Tuỷ
* Thiên Tàng khí pháp thời luận trong Néi kinh- Tè vÊn viÕt: “BƯnh
cđa Can nÕu khÝ hư thì tai không nghe được, nếu khí nghịch thì nhức đầu, tai
điếc.
Như vậy: Tai và tạng Can có ảnh h­ëng bƯnh lý mËt thiÕt.
* N¹n thø 40 trong N¹n kinh cđa BiĨn Th­íc cã ghi “PhÕ chđ thanh
lµm cho tai nghe được, nói lên quan hệ giữa tai và phế.
* Sách Chứng trị chuẩn thằng đời Nguyên (1602) nhận định: Phế
khí hư tất thiểu khí

làm cho tai bị điếc.

* Sách Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc (1773) cũng viết: Phế chủ khí,
khí của toàn thân xâu suốt ra tai.
* Thiên Hải luận trong Linh Khu còn nói: NÃo là bĨ cđa tủ (n·o
vi tủ h¶i), nÕu n·o kÐm, tủ hải bất túc gây ra tai ù.
Đó là nhận định của người xưa về quan hệ giữa tai và nÃo.


24

Từ những lời bàn trong sách xưa mà lý giải có thể tai cùng với toàn
thân tồn tại nhiều mối quan hƯ mËt thiÕt, cÊu thµnh chØnh thĨ thèng nhÊt [39].
1.2.3- Vai trò sử dụng điện châm và kích thích điện

Thiên thích tiết châm tà, sách Linh khu viết: mục đích và phạm vi của
việc dùng châm là để điều hoà khí. Điều khí bản chất chính là điều hoà khí âm
dương, trên cơ sở tả cái thực của khí hữu dư, bổ cái hư của khí bất túc ở những
vị trí khác nhau của cơ thể, do những tà khí khác nhau gây ra. Tả cái thực của
khí hữu dư chính là để ngăn chặn và đuổi tà khí gây nên bệnh ra khỏi cơ thể
(khu tà). Bổ cái hư của khí bất túc nhằm phục hồi và nâng cao sức chống đỡ
của cơ thể (phù chính). Âm dương được điều hoà, khí huyết được lưu thông thì
mọi bệnh tật có thể khỏi và mọi chứng đau sẽ hết. Điều này y học cổ truyền
gọi là : tăng cường chính khí để đuổi tà khí [9], [41].
Theo quan điểm của y học hiện đại, hiệu quả chính của châm cứu là
điều hoà chức phận của cơ thể, nâng cao sức chống đỡ, tăng cường chức năng
hệ miễn dịch và khả năng chống viêm, giảm đau, chống co thắt và chống liệt
[41].
Điện châm là phương pháp tác động vào huyệt (qua kim châm cứu)
tức là dùng một máy điện tử tạo xung điện với tần số và cường độ thích hợp để
kích thích và điều hoà sự vận hành của khí huyết. Từ đó ảnh hưởng đến hoạt
động của các cơ, dây thần kinh, các tổ chức làm tăng cường dinh dưỡng và
điều chỉnh chức năng của các mô, các hệ thống cơ quan đưa trạng thái của cơ
thể trở về trạng thái thăng bằng âm dương để tiêu trừ bệnh tật [34], [37], [41].
1.2.4- Phân loại bệnh điếc tiếp nhận trẻ em
Theo sách Nội Kinh-Tố Vấn và Linh Khu (770 - 221 trước công nguyên),
tai không phải là một cơ quan cô lập mà tai có quan hệ mật thiết với kinh lạc
và tạng phủ.
Thập nhị kinh mạch giả, thượng lạc vu nhĩ, nghĩa là: 12 đường kinh đi
lên trên đều liên lạc với tai.


25

Theo YHCT thì tai là ngoại khiếu của Thận. Thận khí phải đầy đủ, can

huyết phải dồi dào thì nhĩ mục mới thông minh: mắt mới nhìn rõ, tai mới nghe
được. Các chứng tai ù, tai điếc phần nhiều có liên quan tới Thận và Can.
Theo Gs Nguyễn Tài Thu bệnh điếc tiếp nhận chia làm 2 loại [35], [36],
[38], [40]:
Loại 1:
Điếc do Can Thận hư, tinh thiếu, tân dịch thoát.
Triệu chứng: Lưỡi nhạt, rêu trắng, mạch huyền trầm nhược.
Nguyên nhân: Thường do đẻ non, đẻ yếu, sau nhiễm khuẩn, viêm nÃo.
Loại 2:
Điếc do Can Đởm vượng.
Triệu chứng: Lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch phù huyền sác.
Nguyên nhân: Thường do nhiễm ®éc thuèc, bÈm sinh, di truyÒn, sèt cao
co giËt, tù nhiên bị điếc..


×