Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.54 KB, 28 trang )

Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của Ngân
hàng thơng mại
I Lý luận chung về ngân hàng thơng mại:
1. Khái niệm Ngân hàng thơng mại:
Ngân hàng là một trong những ngành hình thành lâu đời nhất. Trải qua quá
trình phát triển của xã hội, nghề Ngân hàng không ngừng đợc hoàn thiện và phát
triển. ở giai đoạn đầu hoạt động của mình, Ngân hàng mới chỉ thực hiện những
nghiệp vụ đơn giản phục vụ nhu cầu xã hội là giữ hộ của cải và thanh toán hộ.
Đến nay, hoạt động của Ngân hàng đã đợc phát triển mạnh với nhiều lĩnh vực kinh
doanh, dịch vụ và công nghệ ngày càng hiện đại thông qua sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế xã hội. Ngân hàng là một trung gian tài chính không thể
thiếu đợc trong nền kinh tế. Nó đóng vai trò môi giới cho sự gặp gỡ của cung -
cầu tiền tệ thông qua huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân c và các tổ chức trong
xã hội, rồi cho vay lại đối với cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn, góp phần đẩy
mạnh tốc độ vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, qua đó đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế đất nớc.
Trong nền kinh tế, Ngân hàng Thơng mại đóng vai trò là trung gian Tài
chính, là chiếc cầu chuyển tải những nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay
những ngời có nhu cầu và có khả năng đầu t sinh lợi. Nó giống nh hệ tuần
hoàn tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển một cách thuận lợi hơn.
Bản chất của Ngân hàng Thơng mại là trung gian Tài chính, là một cơ
quan nhận một bộ phận tiền vốn nhàn rỗi trong xã hội đến tay những ngời có nhu
cầu chi tiêu cho đầu t phát triển.Trong quá trình đó Ngân hàng Thơng mại tạo ra
cho mình những công cụ Tài chính thay thế tiền làm phơng tiện thanh toán trong
đó công cụ quan trọng nhất là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát séc.
Nhờ các công cụ này mà đại bộ phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển
thông qua Ngân hàng, gắn các nhu cầu về lu thông tiền tệ- thanh toán trong nớc
và quốc tế lại với nhau.
Ngân hàng Thơng mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng, là doanh nghiệp tiến hành thờng xuyên các nghiệp vụ huy
động vốn và làm công tác tín dụng, cung cấp các phơng tiện thanh toán, thực hiện


nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ Tài chính khác.
Bên cạnh các Ngân hàng Thơng mại, trong nền kinh tế cũng còn tồn tại
các trung gian Tài chính khác, đó là các tổ chức phi Ngân hàng nh Công ty Bảo
hiểm, Công ty cầm đồ...làm nhiệm vụ nhận tiền gửi của khách hàng. Nhng điểm
khác biệt giữa Ngân hàng Thơng mại với các trung gian Tài chính đó là sự
chuyên môn hoá của các tổ chức Tài chính. Nó chỉ thực hiện một trong hai Vai
trò hoặc là nhận tiền gửi không cho vay hoặc là chuyên cấp phát.
Tóm lại, Ngân hàng Thơng mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động
chủ yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện chiết khấu và làm phơng tiện
thanh toán.
Về mặt tổ chức, hệ thống Ngân hàng đợc tổ chức theo mô hình sau đây:
- Theo phạm vi nghiệp vụ ngời ta chia Ngân hàng thơng mại thành hai loại
hình sau đây:
+ Loại hình kinh doanh đa năng: Thờng là các Ngân hàng quốc doanh đợc
phép hoạt động đa dạng, nhiều loại nghiệp vụ.
+ Ngân hàng thơng mại chuyên môn hoá: Loại Ngân hàng này với phạm vi
hẹp nh Ngân hàng phát triển nhà ở, Ngân hàng cầm cố bất động sản.
- Theo đối tợng khách hàng, ngời ta chia ra:
+ Ngân hàng bán buôn: Loại Ngân hàng này chỉ đầu t vốn vào doanh
nghiệp lớn.
+ Ngân hàng bán lẻ: Loại Ngân hàng này chỉ chuyên đầu t vào các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Theo mô hình phổ biến hiện nay, ngời ta chia thành:
+ Ngân hàng thơng mại quốc doanh: các Ngân hàng này đợc Nhà nớc cấp
vốn.
+ Ngân hàng đầu t và phát triển: Mục đích Ngân hàng này là cung ứng vốn
đầu t trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân hoặc các
công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nớc. Loại hình Ngân hàng này có thể là quốc
doanh hay cổ phần.

+ Ngân hàng chính sách: Ngân hàng này hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận, mà hoạt động theo những mục tiêu riêng do Chính phủ giao, nh phục vụ
ngời nghèo, phục vụ miền núi
+ Các Ngân hàng cổ phần có thể hoạt động đa năng theo từng quy chế
riêng, từng lĩnh vực phạm vi nhất định.
Ngoài ra có thể chia Ngân hàng theo một trong hai mô hình sau đây:
- Mô hình Ngân hàng một cấp: Đứng đầu là Ngân hàng Trung ơng, dới
Ngân hàng Trung ơng là Ngân hàng Nhà nớc tại các huyện huyện. Các Ngân hàng
Nhà nớc cấp dới chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Trung ơng. Bên
cạnh đó là một vài Ngân hàng chuyên doanh làm nhiệm vụ cấp phát theo kế hoạch
của Nhà nớc.
- Mô hình Ngân hàng hai cấp:
+ Hệ thống Ngân hàng Nhà nớc: Bao gồm Ngân hàng Trung ơng và các
Ngân hàng Nhà nớc cấp tỉnh, thành phố với các Vai trò chủ yếu là quản lý, bảo
đảm cho hoạt động của Ngân hàng chuyên doanh (Ngân hàng thơng mại) đợc an
toàn thông qua việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của hệ thống này.
+ Hệ thống Ngân hàng thơng mại: Bao gồm các Ngân hàng thơng mại quốc
doanh, Ngân hàng thơng mại cổ phần, Ngân hàng t nhân với các Vai trò chính là
kinh doanh trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ
thống Ngân hàng thơng mại hoạt động dới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nớc
thông qua các quy định, định chế hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn
bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nớc.
Trớc Cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt nam không có Ngân hàng riêng.
Ngân hàng Đông Dơng đợc thành lập ngày 31/1/1875 theo sắc lệnh của Tổng
thống Pháp, thực chất là Ngân hàng của các nhà t bản tài chính Pháp và là Ngân
hàng chung của cả ba nớc: Việt nam, Lào và Campuchia.
Ngân hàng Đông Dơng là Ngân hàng phát hành, đồng thời là Ngân hàng th-
ơng mại đợc thành lập nhằm bóc lột nhân dân ba nớc Đông Dơng.
Sau Cách mạng tháng 8 thành công, Ngày 6/5/1950, Hồ Chủ Tịch ký sắc
lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam.

2. Đặc trng & hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng Thơng mại.
* Đặc trng
Ngày nay, ngời ta khó có thể hình dung nổi nền kinh tế thị trờng mà lại
vắng bóng các tổ chức Tài chínhtrung gian làm Vai trò cầu nối giữa ngời có
vốn và ngời cần vốn. Trong thực tế, các tổ chức Tài chính trung gianđợc hình
thành ở rất nhiều dạng, nhng nọi dung hoạt động của chúng lại đan xen lẫn nhau
khó phân biệt rõ ràng. Trong số các tổ chức Tài chính trung gian, hệ thống Ngân
hàng Thơng mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô Tài sản và về thành
phần các nghiệp vụ.
Xét về mặt đặc trng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thơng mại, cần
chú ý các vấn đề sau đây:
a. Quan hệ tín dụng Ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả.
Ngân hàng Thơng mại với t cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ
hoạt động trên cơ sở đi vay để cho vay thông qua nghiệp vụ tín dụng của
mình. Việc buôn tiền của Ngân hàng Thơng mại suy cho cùng phải đạt đợc lợi
nhuận. Muốn vậy, phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi buôn bán tiền của Ngân
hàng Thơng mại thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn (thuê) để bán (cho thuê)
lại quyền sử dụng đó, nhng nó hoàn toàn khác với các loại kinh doanh khác của
các tổ chức kinh tế.
Trớc hết, vốn mà Ngân hàng mua quyền sử dụngcủa những chủ thể có vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế phải đợc trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu của nó
theo những cam kết đã giao ớc. Là ngời đi vay, Ngân hàng Thơng mại phải đảm
bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách
hàng vời một món lợi tức hợp lý kèm theo.
Là ngời cho vay, Ngân hàng Thơng mại sử dụng vốn đi thuê để cho thuê
lại, tức là tạm thời bán lại quyền sử dụng vốn cho ngời khác, Ngân hàng Thơng
mại vẫn luôn mong muốn khách hàng của mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và
hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kì hạn theo những quy định đã cam kết. Nh vậy,
trong mối quan hệ tay ba giữa Ngân hàng Thơng mại, ngời gửi tiền kí thác và ng-
ời đi vay đều dựa vào lòng tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa hay thiếu

vốn của các chủ thể nêu trên.
b. LãI suất - Biểu hiện đặc trng về hoạt động kinh doanh của một trung
gian Tài chính.
Quan niệm về lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay dựa vào các
phân tích sau đây. Khi sử dụng vốn vay vào trong quá trình sản xuất hoặc kinh
doanh ngời đi vay có thể thu đợc lơị nhuận, một phần lợi nhuạn này có thể đợc
trả cho ngời cho vay và đợc gọi là giá cả của quyền sử dụng khoản vay hay đợc
gọi là lãi suất. Nh vậy, khác với hoạt động sản xuất kinh doanh thông thờng, lợi
nhuận ở đây đợc phân chia chứ không phải nhân lên, phần lợi nhuận đem chia đó
là chi phí mà ngời đi vay phải trả cho việc thuêgiá trị khoản vay về sử dụng
trong kinh doanh theo thời gian nhất định. Khoản chi phí này cũng giống nh chi
phí trả tiền thuê nhà, khác chăng là trong quá trình sử dụng giá trị căn nhà giảm
dần do hao mòn, còn giá trị khoản vay thì bất biến. Đó là đặc điểm khác biệt của
việc cho thuê giá trị so với các loại hình cho thuê Tài sản trong kinh doanh
thông thờng khác.
Có thể việc nghiên cứu kinh doanh ngân hàng hay kinh tế học, ngời ta sẽ
giải thích lãi suất bằng các lý thuyết khác một cách chi tiết hơn.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ giải thích lãi suất bằng lý thuyết vốn có thể
cho vay theo quan niệm truyền thống. Lý thuyết vốn có thể cho vay là sự đơn
giản hoá một vấn đề phức tạp. Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu đề
tác động đến lãi suất. Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà ngời cho vay đòi
hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho ngời khác. Ngời đi
vay coi lãi suất nh khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của
ngời khác. Nh vậy, lãi suất hàm chứa một mâu thuẫn: Ngời cho vay muốn có lãi
suất cao nhất, trong khi ngời đi vay lại muốn có lãi suất thấp nhất. Vì vậy nh giá
cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất đợc xác định bởi cung và cầu. Cung vốn
có đợc chủ yếu từ các khoản ký thác của công chúng và lợng vốn đợc cung ứng
phụ thuộc nhiều vào giá cả (lãi suất). Do đó nếu lãi suất quá thấp, đa số các dân
chúng sẽ quyết định là không đáng để cho vaycác khoản tiết kiệm của mình, họ
sẽ giữ các khoản tiền này dới dạng khả dụng (Tức là dễ chuyển thành tiền mặt)

hơn và để chi tiêu khi cần. Khi mà lãi suất tăng cao, lợng tiền tiết kiệm mà dân
chúng sẵn sàng cho vay tăng lên, và số lợng vốn cung sẽ tăng lên lớn hơn.
Những ngời đi vay vốn coi lãi suất là một khoản chi phí và nh vậy, chi phí
giảm khi cầu càng tăng, khi lãi suất tăng thì cầu vay vốn giảm xuống.
c. Yếu tố lòng tin trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh credo có nghĩa là sự giao phó
hay Tài đặt niềm tin vào đó, hoặc từ tiếng la- tinh credittum có nghĩa là sự
tín nhiệm.
Trong giới Tài chính, một ngời đợc xem là có uy tín khi ngời khác
tin tởng và sẵn sàng ký thác Tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho
vay có hứa hẹn hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức tín nhiệm của ngời cho vay,
yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần
cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Trong quan hệ kinh doanh thông thờng khác, uy tín vẫn là yếu tố đ-
ợc đặt lên hàng đầu trong nhiều trờng hợp, nhng không đóng vai trò quyết định
trong mua bán bởi các lẽ sau: Thứ nhất hàng hoá thông thờng cồng kềnh mang
tính chất chuyên dùng, khả năng thanh toán kém nên khó tẩu tán, việc kiểm tra
uy tín kinh doanh trong mối quan hệ giao dịch dễ dàng, không cần thử thách.
Ngợc lại, kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh quyền sử dụng
khoản tiền tệ, Ngân hàng chỉ bán Quyền sử dụng của tiền chứ không bán
tiền, nên khi hết thời gian sử dụng của tiền theo cam kết, tiền quay về giữ
nguyên giá trị của nó, phần chênh lệch theo thoả thuận nếu có là giá bán
quyền sử dụng khoản cho vay trong thời gian nhất định. Do vậy tiền phát ra qua
các thời gian nhất định rồi sẽ thu về, nó không đợc bán đứt. Hơn nữa giá bán (lãi
suất) quyền sử dụng tiền tệ thờng rất nhỏ so với giá trị khoản cho vay, nên sự bù
đắp khi rủi ro xảy ra là quá ít ỏi. Từ đó có thể thấy rằng quan hệ tín dụng buộc
phải có lòng tin, trong nhiều trờng hợp, vì thiếu lòng tin nên ngời ta thờng phải
tăng cờng gia cố bằng các quyền truy đòi, bằng tài sản (thế chấp) hay bằng
pháp lý (bảo lãnh), thiếu lòng tin quan hệ tín dụng có thể không phát sinh.
Lòng tin của khách hàng là số tiền gửi của họ đợc cất giữ một cách tốt

nhất và nhanh chóng đợc rút tiền ra khi cần thiết. Tuy nhiên trong quan hệ tín
dụng, lòng tin của ngời cho vay đối với ngời đi vay quan trọng hơn nhiều, bởi lẽ
ngời cho vay là ngời giao phó tiền bạc hoặc Tài sản của họ cho ngời khác sử
dụng và lơì hứa hoàn trả.
Lòng tin trong quan hệ ngân hàng lại càng đặc biệt hơn so với yếu tố lòng
tin trong quan hệ tín dụng phi Ngân hàng, bởi lẽ sau đây:
+ Trong tín dụng thơng mại, tiền vay là một phần vốn sản xuất của doanh
nghiệp cho vay; còn trong tín dụng Ngân hàng, tiền vay dựa trên cơ sở đi vay để
cho vay, do vậy Ngân hàng đóng vai trò vừa là ngời đi vay và là ngời cho vay.
Khi là ngời đi vay, Ngân hàng phải có đợc lòng tin của công chúng để họ ký thác
Tài sản hoặc tiền bạc cho ngân hàng. Trong trờng hợp ngân hàng là ngời cho vay,
ngân hàng phải thẩm tra uy tín và khả năng hoàn trả của ngời đi vay. ở đây ngân
hàng thực hiện nghiệp vụ đi vay để cho vay, mua quyền sử dụng vốn của chủ
thể có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi bán quyền sử dụng vốn đó cho các
chủ thể có nhu cầu để hởng lợi tức. Cũng nh bao doang nghiệp khác, hoạt động
của các ngân hàng phải mang lại lợi nhuận và bảo toàn vốn, điều đó liên quan
đến sự sống còn của các Ngân hàng Thơng mại.
+ Khách hàng là ngời ký thác và khách hàng là ngời đi vay của ngân hàng
rất là đa dạng và phức tạp, thuộc nhiều thành phần, ở nhiều lĩnh vực khác nhau
trong nền kinh tế. Vì thế yếu tố lòng tin trong kinh doanh tín dụng của ngân
hàng đợc nhân lên rất nhiều lần: Ngân hàng phải ổn định lòng tin ở mức độ cao
cho ngời ký thác, đồng thời phải thẩm định khắt khe uy tín của ngời vay. Nếu
không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến việc cho vay đối với những ngời không có khả
năng hoàn trả, ngân hàng sẽ không có vốn để hoàn trả cho ngời ký thác, tức là
đánh mất lòng tin đối với công chúng từ đó ngân hàng sẽ không tiếp tục cho vay
đợc, đó là cha nói đế sự phá sản sẽ diễn ra do ngân hàng mất khả năng thanh
toán.
d. Tín dụng của ngân hàng tạo tiền ký thác, tạo Tài nguyên cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Vai trò tạo tiền và huỷ tiền là Vai trò riêng có của tín dụng ngân hàng. Vai

trò này làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng khác hẳn với các
hoạt động kinh doanh thông thờng khác.
Khi ta mua chịu ở một cửa hàng nào đó thì quan hệ tín dụng phát sinh: số
tiền ta nhận đợc qua mua chịu sễ bằng số tiền mà ngời bán chịu lẽ ra nhận đợc.
Hoặc khi mua một trái phiếu, số tiền mà ta giảm đi cũng chính là số tiền mà
công ty đó nhận đợc. Vậy trong tín dụng thông thờng, việc cho vay chẳng qua là
chuyển số tiền từ tay ngời này sang tay ngời khác sử dụng, ngời cho vay mất đi
cái mà ngời cho vay nhận đợc. Điều này cũng giống nh khi Ngân hàng Thơng
mại cho vay bằng tiền mặt. Nhng khi ngân hàng cho vay bằng rút qua số d Tài
khoản tiền gửi ( tức cho vay chuyển khoản), thì ngân hàng không mất đi cái gì,
mà khách hàng có thêm phơng tiện tạo ra sức mua. Tóm lại, trong các loại tín
dụng khác, cho vay hoặc là thu nợ là quá trình chuyển một số tiền từ tay ngời
này sang tay ngời khác, không mất đi và cũng không tăng thêm. Trong khi đó
Ngân hàng Thơng mại cho vay (không bằng tiền mặt) sẽ làm giảm một lợng tiền.
Ngân hàng Thơng mại thông qua tín dụng để tạo tiền và huỷ tiền, cung cấp ph-
ơng tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi làm điều đó ngân hàng đã tạo ra Tài
nguyên quan trọng nhất phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
e. Công nghệ ngân hàng là công nghệ đặc biệt: công nghệ biến đổi cơ cấu
thời hạn của các đông tiền.
Hoạt động kinh tễ xã hội luôn sản sinh ra tình trạng lỡng lập, nghĩa là
luôn có những ngời thừa tiền muốn cho vay và những ngời thiếu tiền muốn đi
vay. Tuy vậy, khi những ngời đi vay và cho vay giao dịch trực tiếp với nhau, thì
họ gặp phải những khó khăn hầu nh nan giải. Những khó khăn này bao gồm sự
không trùng hợp về thời gian (ngời cho vay chỉ thích cho vay ngắn hạn, còn
ngời đi vay mong muốn có đợc khoản vay dài hạn), số lợng vốn (những ngời
tiết kiệm có thể chỉ có những khoản vốn nhỏ muốn cho vay, trong khi ngời vay
lại yêu cầu một khoản vay lớn) và những rủi ro, v.v... Nh vậy, vấn đề cơ bản nảy
sinh là làm sao hoà hợp đợc ý nguyện của hai bên: ngời cho vay (đầu tiên) muốn
cho vay ngắn hạn và ngời đi vay (cuối cùng) muốn đợc vay dài hạn. Thị trờng
Tài chính trực tiếp sẽ bị bế tắc không thể giải quyết nổi và ngời ta gọi đó là thể

trạng yếu đuối của thị trờng Tài chính trực tiếp.
Khi các ngân hàng cung cấp tín dụng, tức là ngân hàng cam kết khả năng
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng đã thiết kế cơ cấu thời gian
hợp lý để đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngay cả khi nhận tiền ký thác bằng
cách tính toán giá trị cũng nh thời hạn của các tài sản đến hạn trong giai đoạn
nào đó, ngân hàng cũng đã lên kế hoạch bổ sung bằng các nguồn ký thác mới.
Các biện pháp thay đổi cơ cấu thời hạn ngân quỹ luôn luôn đáp ứng đợc yêu cầu
về khả năng thanh toán cho khách hàng cũng nh khả năng thanh khoản của ngân
hàng đã hình thành một công nghệ đặc biệt của ngân hàng: công nghệ thay đổi
thời hạn sử dụng của các đồng tiền.
* Hoạt động của ngân hàng thơng mại
a. Dự trữ pháp định (dự trữ bắt buộc):
Tại các Ngân hàng thơng mại phải giữ lại một phần trong tổng số nguồn
vốn theo tỷ lệ bắt buộc để bảo hiểm cho các khoản tiền gửi hay bảo vệ lợi ích của
ngời gửi tiền và lợi ích của nền kinh tế. Các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc th-
ờng theo quy định về luật Ngân hàng của từng quốc gia. ở Việt nam tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là từ 0% đến 20% trên tổng số huy động.
b. Tiền mặt tại quỹ.
Là khối lợng tiền do Ngân hàng giữ trong các kho két Ngân hàng. Một
phần số tiền này đợc coi là dự trữ pháp định. Các nhà quản lý Ngân hàng thờng cố
gắng giữ càng ít tiền mặt càng tốt vì lý do an toàn, giảm bớt chi phí bảo vệ, bảo
quản tiền mặt khỏi h hỏng nhng lý do cao nhất vẫn là lợi nhuận.
c. Tiền gửi ở các Ngân hàng khác:
Để tạo thuận lợi thanh toán, các Ngân hàng thơng mại có khoản tiền gửi ở
các Ngân hàng thơng mại khác. Đây là một phần của hệ thống đợc gọi là hoạt
động Ngân hàng vãng lai. Các khoản tiền gửi này chỉ để tạo điều kiện thuận lợi
trong thanh toán hoặc đổi lấy những dịch vụ nh tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ,
mua giúp chứng khoán mà không đợc hởng lãi suất.
d. Khoản mục đầu t hoặc chứng khoán.
Nghiệp vụ đầu t đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của

Ngân hàng. Ngân hàng tập trung đợc một khối lợng tiền lớn trong tay, với số vốn
này Ngân hàng có thể đầu t vào các doanh nghiệp, các dự án, mua cổ phần của
các doanh nghiệp Với việc mua cổ phần, đầu t vào các doanh nghiệp, Ngân
hàng có thể tham gia kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Ngoài ra Ngân hàng còn nắm giữ một số loại chứng khoán nh: trái phiếu chính
phủ, các thơng phiếu vì mục đích thanh khoản, đa dạng hoá hoạt động và để
nâng cao lợi nhuận.
e. Hoạt động tín dụng:
Tín dụng là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kết cấu tài sản Có.
Đây cũng là hoạt động sinh lời quan trọng và là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng
thợng mại, mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhng nó cũng là lĩnh vực nhiều rủi ro
nhất. Căn cứ vào hình thức hoạt động có thể phân loại cho vay nh sau:
- Căn cứ theo kỳ hạn chia thành: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và
dài hạn.
- Căn cứ vào hình thức đảm bảo thanh toán chia thành: Cho vay có bảo
đảm, cho vay không bảo đảm.
- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh chia thành: Cho vay đối với các doanh
nghiệp công nghiệp, cho vay đối với các doanh nghiệp thơng mại, cho vay đối với
các doanh nghiệp dịch vụ
- Qua công tác phân loại tài sản nh trên, ta có thể phân tích hoạt động đầu
t tín dụng ở Ngân hàng thơng mại theo tính thời hạn. Cơ cấu giữa nguồn huy động
ngắn hạn, trung và dài hạn là yếu tố quan trọng quyết định việc sử dụng nguồn
cho hoạt động tín dụng. Một Ngân hàng thơng mại có nguồn ngắn hạn dồi dào sẽ
có khả năng cho vay ngắn hạn cao, cũng nh nếu có nguồn trung dài hạn tốt sẽ
tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu về tín dụng trung dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn:
Do tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế luôn xẩy ra
hiện tợng có doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn nhng lại có doanh nghiệp lại thừa
vốn, nên việc cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp là nghiệp vụ th-
ờng xuyên của Ngân hàng thơng mại. Nhu cầu về các loại tín dụng này thờng

không đợc báo trớc nên nguồn vốn cho vay ngắn hạn đợc hình thành ở Ngân hàng
chủ yếu là từ tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Những khoản cho vay
ngắn hạn thờng đợc sử dụng rộng rãi trong việc cho vay mang tính thời vụ về vốn
luân chuyển và cho vay ngắn hạn đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tín dụng trung dài hạn:
Nhu cầu về vốn trung dài hạn thờng nẩy sinh khi các doanh nghiệp
muốn đổi mới máy móc thiết bị hoặc quy trình công nghệ. Nhu cầu này không
ngừng tăng lên không chỉ đối với doanh nghiệp sản xuất mà cả doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ. Đặc biệt đối với nền kinh tế nớc ta, thực hiện bớc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, quyết tâm thực hiện công cuộc CNH - HĐH mà Đảng và Nhà nớc đã
đề ra, thì nhu cầu về vốn trung dài hạn là hết sức cấp thiết.
f. Tài sản có khác:
Bao gồm TSCĐ nh: cơ sở hạ tầng, các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động
của Ngân hàng. Nếu nh đối với các xí nghiệp sản xuất, tài sản cố định (máy móc
thiết bị nhà xởng) chiếm một tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ vốn, thì đối với các
Ngân hàng thơng mại, tài sản cố định chiếm một tỷ lệ rất nhỏ khoảng 10% trong
tài sản có.
3. Vai trò và vai trò của Ngân hàng Thơng mại
Tầm quan trọng của các Ngân hàng Thơng mại đợc thể hiện qua các vai trò
của nó. Vai trò của Ngân hàng Thơng mại có thể đợc nêu ra dới nhiều khía cạnh
khác nhau, nhng nhìn chung đợc nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các vai trò sau:
a. Vai trò trung gian tín dụng:
Đây là Vai trò đặc trng và cơ bản nhất của Ngân hàng Thơng mại và có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài
chính là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những ngời

×