Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Thực trạng và một số yếu tố liên quan biểu hiện lo âu, trầm cảm và stress ở cha mẹ trẻ tự kỷ được điều trị tại bệnh viện tâm thần trung ương i năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.84 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

BÙI THỊ HIỆU

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
BIỂU HIỆN LO ÂU, TRẦM CẢM VÀ STRESS Ở CHA MẸ
TRẺ TỰ KỶ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN
TRUNG ƯƠNG I NĂM 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

NAM ĐỊNH – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

BÙI THỊ HIỆU
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
BIỂU HIỆN LO ÂU, TRẦM CẢM VÀ STRESS Ở CHA MẸ
TRẺ TỰ KỶ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN
TRUNG ƯƠNG I NĂM 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG


Chuyên ngành: Điều dưỡng
Mã số: 60.72.05.01

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Hướng dẫn1: TS. QUẢN TRƯỜNG SƠN
Hướng dẫn 2:TS.BS. TRƯƠNG TUẤN ANH

NAM ĐỊNH –2017


i

TĨM TẮT LUẬN VĂN
Nhằm mơ tả thực trạng và một số yếu tố liên quan tới các biểu hiện lo âu, trầm
cảm và stress ở cha mẹ có con bị tự kỷ, chúng tôi đã áp dụng phương pháp nghiên
cứu mô tả cắt ngang, bằng các công cụ là Thang đáng giá lo âu Zung, Bảng hỏi thiết kế
sẵn và Thang đánh giá trầm cảm – lo âu – Stress 21 (DASS-21), trên nhóm nghiên cứu
gồm 35 người, là cha hoặc mẹ có con bị tự kỷ được điều trị tại Bệnh viện tâm thần
trung ương I năm 2017.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ bố mẹ trẻ bị tự kỷ có biểu hiện lo âu chiếm
25,7%. Có 22,9% cha/mẹ trẻ tự kỷ có rối loạn trầm cảm mức độ vừa.Tỷ lệ bố mẹ có
biểu hiện stress chiếm 62,9%. Trong đó biểu hiện stress ở mức độ nhẹ chiếm
28,7%, mức độ vừa chiếm 11,4%, mức độ nặng chiếm 5,7% và ở mức độ rất nặng
chiếm 17,1%. Có hai yếu tố liên quan đến lo âu là “trình độ học vấn” và “mức độ bệnh
của trẻ”. Trong đó, trình độ học vấn có tương quan nghịch và mức độ bệnh của con
có tương quan thuận với mức độ lo âu của cha mẹ trẻ tự kỷ. Mức độ trầm cảm có
tương quan nghịch với “số con trong gia đình”. Nói cách khác, số con càng nhiều,
xác xuất cha mẹ bị trầm cảm càng giảm. Hai yếu tố liên quan đến mức độ stress ở
nhóm nghiên cứu là “độ tuổi” và “ thời gian bị bệnh của trẻ”. Cả hai mối tương quan
này đều là tương quan thuận.

Dựa vào kết quả nghiên cứu chúng tơi có một số khuyến nghị đối với các bậc
cha mẹ trẻ tự kỷ là cần nâng cao kiến thức, tích cực tìm kiếm, trao đổi thơng tin,
cùng nhau chia sẻ và phối hợp chặt chẽ với thầy thuốc để cải thiện tốt nhất vấn đề
của trẻ. Đối với các cơ sở chăm sóc sức khỏe trẻ tự kỷ, cần quan tâm hơn tới vấn đề
sức khỏe tâm lý của cha mẹ trẻ. Với cộng đồng, cần tăng cường đầu tư, cải thiện
thái độ trong công tác chăm sóc trẻ tự kỷ nói riêng và trẻ bị các rối loạn tâm thần
nói chung.


ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, phịng QLĐT Sau đại học, cùng
tồn thể các Thầy giáo, Cô giáo trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã quan
tâm, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong q trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tơi xin giửi đến các thầy: TS. Quản Trường Sơn và TS.BS Trương Tuấn Anh
lời biết ơn sâu sắc về những định hướng quan trọng và đặc biệt là về tinh thần
nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học để tơi có thể hồn thành luận văn này.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Ban lãnh đạo, cùng các bác sỹ, cán
bộ tâm lý, điều dưỡng của khoa Tâm lý lâm sàng - Bệnh viện tâm thần trung ương I,
đã tạo điều kiện cho tơi thực hiện nghiên cứu của mình tại Khoa và Bệnh viện.
Tôi xin giửi lời biết ơn sâu sắc đến các bậc cha/mẹ trẻ bị hội chứng tự kỷ đã
hợp tác, chia sẻ với chúng tôi một cách chân thành, trung thực trong quá trình
nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi xin giửi đến gia đình, bạn bè đồng nghiệp lời cám ơn sâu sắc,
đã luôn bên tôi, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.



iii

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung
thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa
từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những cam đoan này!
Nam Định, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn

Bùi Thị Hiệu


MỤC LỤC
Trang
TÓM TẮT LUẬN VĂN ......................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ ii
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. iii
DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ ............................................................................ vi
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4
1.1. Đại cương về lo âu, trầm cảm và Stress ......................................................... 4
1.2. Hội chứng tự kỷ............................................................................................. 9
1.3. Một số nghiên cứu về sức khỏe tâm lý của cha mẹ có con mắc hội chứng tự
kỷ trong nước và trên thế giới............................................................................. 11

1.4. Vài nét về địa bàn nghiên cứu...................................................................... 17
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................... 18
2.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 18
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ................................................................ 18
2.3. Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................... 18
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu ................................................................... 18
2.5. Phương pháp thu thập số liệu:..................................................................... 18
2.6. Các biến số nghiên cứu................................................................................ 19
2.8. Phương pháp phân tích số liệu: .................................................................... 21
2.9.Vấn đề đạo đức nghiên cứu: ........................................................................ 22
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 23
3.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu ........................................................................ 23
3.2. Thực trạng rối loạn lo âu, trầm cảm và stress ở cha, mẹ có con bị tự kỷ............. 28


3.3. Một số yếu tố liên quan tới các biểu hiện lo âu, trầm cảm và stress ở cha, mẹ
trẻ tự kỷ. ............................................................................................................. 37
Chương 4: BÀN LUẬN ........................................................................................ 42
4.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu. ........................................................................ 42
4.2. Thực trạng rối loạn lo âu, trầm cảm và stress ở cha, mẹ có con bị tự kỷ được
điều trị tại Bệnh viện tâm thần Trung ương 1 năm 2017. .................................... 44
4.3. Một số yếu tố liên quan tới các biểu hiện lo âu, trầm cảm và stress ở cha, mẹ
trẻ tự kỷ được điều trị tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1. ............................ 46
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 49
KHUYẾN NGHỊ ................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1: PHIÉU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Phụ lục 2: THANG ĐÁNH GIÁ LO ÂU – TRẦM CẢM – STRESS (DASS 21)
Phụ lục 3: TRẲC NGHIỆM LO ÂU CỦA C.ZUNG
Phụ lục 4: BIÊN BẢN CHỈNH SỮA SAU PHẢN BIỆN

Phụ lục 5: BIÊN BẢN BẢO VỆ LUẬN VĂN THẠC SĨ
Phụ lục 6: NHẬN XÉT LUẬN VĂN PHẢN BIỆN 1
Phụ lục 7: NHẬN XÉT LUẬN VĂN PHẢN BIỆN 2


iv

DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BSCKI:

Bác sỹ chuyên khoa 1

ĐTB:

Điểm trung bình

ĐTNC:

Đối tượng nghiên cứu

NC:

Nghiên cứu

KH và CN: Khoa học và công nghệ.
PHCN :

Phục hồi chức năng


RLLA :

Rối loạn lo âu

RLTT:

Rối loạn tâm thần

SD:

Độ lệch chuẩn

THPT:

Trung học phổ thơng

TTTW :

Tâm thần Trung ương

VH:

Văn hóa


v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Đặc điểm về giới, độ tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thu nhập gia

đình, tình trạng hơn nhân. ..................................................................... 23
Bảng 3.2: Các đặc điểm tuổi, thứ bậc trong gia đình, thời điểm được phát hiện bệnh
của trẻ tự kỷ. ......................................................................................... 24
Bảng 3.3: Thời gian mắc bệnh của trẻ.................................................................... 25
Bảng 3.4: Hiểu biết của cha me về bệnh của trẻ ..................................................... 26
Bảng 3.6: Mối liên hệ giữa trình độ học vấn với mức độ lo âu. .............................. 37
Bảng 3.7: Hệ số tương quan của yếu tố trình độ học vấn với lo âu ......................... 37
Bảng 3.8: Mối liên hệ độ tuổi với mức độ stressbằng thang DASS 21. .................. 38
Bảng 3.9: Hệ số tương quan giữa độ tuổi và stress ................................................. 38
Bảng 3.10: Mối liên hệ giữa số con trong gia đình với mức độ trầm cảm bằng thang
DASS 21. ............................................................................................. 38
Bảng 3.11: Hệ số tương quan giữa số con và trầm cảm .......................................... 39
Bảng 3.12: Mối liên hệ giữa mức độ bệnh, thời gian bị bệnh của convới mức độ lo
âu bằng thang Zung. ............................................................................. 39
Bảng 3.13: Hệ số tương quan của yếu tố mức độ bệnh của con với lo âu ............... 40
Bảng 3.14: Mối liên hệ giữa thời gian bị bệnh, mức độ tự kỷ của trẻ với stress ...... 40
Bảng 3.15: Hệ số tương quan giữa thời gian bị bệnh của trẻ và stress .................... 41


vi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1: Mơ hình kiểu truyền thống....................................................................... 12
Sơ đồ 2. Mơ hình hiện đại...................................................................................... 13
Biểu đồ 3.1: Mức độ tự kỷ của trẻ.......................................................................... 25
Biểu đồ 3.2: Thực trạng hỗ trợ can thiệp cho trẻ. .................................................. 27
Biểu đồ 3.3: Kết quả khảo sát rối loạn lo âu bằng thang Zung. .............................. 28
Biểu đồ 3.4 : Kết quả khảo sát rối loạn lo âu bằng thang DASS 21 ........................ 28
Biểu đồ 3.5: Các triệu chứng chính của lo âu................................................................. 29

Biểu đồ 3.6 : Các mức độ của triệu chứng chính ......................................................... 30
Biểu đồ 3.7: Mức độ trầm cảm .............................................................................. 31
Biểu đồ 3.8: Các triệu chứng chính của trầm cảm .................................................. 32
Biểu đồ 3.9: Mức độ biểu hiện của các triệu chứng chính ...................................... 33
Biểu đồ 3.10: Mức độ stress .................................................................................. 34
Biểu đồ 3.11: Triệu chứng chính của stress ............................................................ 35
Biểu đồ 3.12: Các mức độ biểu hiện triệu chứng chính .......................................... 36


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đối với mỗi người, con cái là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm tự hào, là tương lai
của các bậc cha mẹ. Vì con cái, người ta có thể hy sinh tất cả những thú vui, nhu cầu,
sở thích và thậm chí, nếu có thể, cả mạng sống của mình. Vì vậy, khi phải đối diện với
sự thật là đứa con thương yêu của mình bị bệnh, hơn nữa lại là căn bệnh nan y “khơng
có thuốc chữa” đó là chứng tự kỷ thì đây là cú “Sốc” tinh thần cực kỳ lớn đối với các
bậc cha mẹ.
Theo các nhà nghiên cứu, tự kỷ là một rối loạn phát triển đặc trưng bởi sự
thiếu hụt về kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ, kỹ năng xã hội và có hành vi lặp lại.
Trên thế giới tỷ lệ tự kỷ trong những năm gần đây gia tăng ở mức đáng báo động.
Theo trung tâm kiểm sốt và phịng chống dịch bệnh Hoa Kỳ năm 2014 ước tính cứ
68 trẻ em thì có 1 trẻ được xác định là mắc chứng tự kỷ. Tại Việt Nam với dân số
hơn 93 triệu người(2016), ước tính đã có khoảng 160.000 trẻ em mắc bệnh tự kỷ[3].
Việc điều trị, ni dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ trẻ tự kỷ là một quá trình gian
nan, vất vả kéo dài, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở điều trị và gia đình. Đặc
biệt đối với cha mẹ của trẻ, việc phải đối mặt với sự thật là đứa con yêu quý của
mình bị chứng tự kỷ, với bao nỗi gian nan vất vả hàng ngày trong việc ni dưỡng,
chăm sóc, dạy dỗ trẻ, thực sự là một gánh nặng tâm lý không dễ gì vượt qua được.

Sự lo lắng, sợ hãi, xung đột lẫn nhau giữa cha-mẹ trẻ trong việc chăm sóc, dạy dỗ
trẻ, từng ngày chứng kiến sự tiến triển chậm chạp của quá trình can thiệp tại các cơ
sở y tế, sự vô cảm, thờ ơ, phá phách của đứa con, đã lấy đi ở họ niềm hy vọng mong
manh ban đầu, đẩy nhiều trong số họ vào trạng thái tâm lý hết sức căng thẳng, với
những biểu hiện đa dạng của các rối loạn tâm lý, tâm thần như lo âu, trầm cảm và
Stress. Những biểu hiện của các vấn đề sức khỏe tâm lý vừa nêu ở các bậc cha mẹ
có con bị tự kỷ sẽ quay trở lại, ảnh hưởng khơng nhỏ tới q trình can thiệp cho trẻ
tự kỷ. Vấn đề này đã đặt ra những đòi hỏi thực tiễn cho các cơ sở chăm sóc sức
khỏe cho trẻ bị tự kỷ là phải quan tâm, tìm hiểu về sức khỏe tâm lý ở các bậc cha
mẹ có con bị tự kỷ, để có những biện pháp tư vấn, hỗ trợ kịp thời, nhằm giúp họ


2

giải quyết các vấn đề về sức khỏe tâm lý của bản thân, để có thể phối hợp tốt hơn
với các thầy thuốc trong việc chăm chữa cho trẻ.
Tuy nhiên, hiện nay trong các cơ sở can thiệp trợ giúp trẻ tự kỷ, vấn đề sức
khỏe tâm lý của cha mẹ trẻ lại chưa được quan tâm đúng mức. Với mong muốn tìm
hiểu về lĩnh vực này chúng tơi chọn đề tài:
“Thực trạng và một số yếu tố liên quan các biểu hiện Stress, lo âu và trầm
cảm ở cha mẹ trẻ tự kỷ được điều trị tại Bệnh viện tâm thần Trung ương I năm
2017” nhằm 2 mục tiêu sau:


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Đánh giá thực trạng biểu hiện lo âu, trầm cảm và Stress ở cha mẹ có con bị
tự kỷ được điều trị tại Bệnh viện tâm thần Trung ương I năm 2017.

2. Xác định một số yếu tố liên quan tới vấn đề lo âu, trầm cảm và Stress ở cha
mẹ có con bị trẻ tự kỷ được điều trị tại Bệnh viện tâm thần Trung ương I năm 2017.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về lo âu, trầm cảm và Stress
1.1.1. Lo âu
1.1.2.1 Định nghĩa:
Lo âu là một phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người, là cảm giác sợ hãi,
mơ hồ, khó chịu lan tỏa cùng các rối loạn cơ thể ở một hay nhiều bộ phận nào đó.
Lo âu thực chất là tín hiệu báo động, báo trước cho cá thể biết rằng sẽ có sự đe dọa
từ bên trong hoặc bên ngồi cơ thể (những khó khăn, thử thách, đe dọa của tự nhiên
hoặc xã hội), từ đó giúp con người tìm ra được các giải pháp phù hợp để tồn tại và
phát triển [18].
Ernest Jones đã đưa ra các trạng thái lo âu khác nhau: sợ và lo âu. Ơng mơ tả
2 nét khác nhau giữa sợ và lo âu như sau:
- Sợ nói chung được coi như sự đáp ứng với kích thích đe dọa từ bên ngồi
nguy hiểm có thực đang đến, vì vậy có tính chất sống cịn.
- Ngược lại lo âu giống như sợ nhưng lại khơng có sự đe dọa rõ ràng. Khơng
cân xứng giữa kích thích bên ngoài, biểu hiện tâm thần và cơ thể.
Lo âu trở thành vấn đề sức khỏe đáng quan tâm khi xuất hiện không liên
quan tới một sự đe dọa nào, mức độ lo âu không cân xứng với bất kỳ một đe dọa
nào và tồn tại kéo dài. Khi mà mức độ lo âu gây trở ngại rõ rệt cho các hoạt động,
lúc đó được gọi là lo âu bệnhlý.
1.1.2.2. Các biểu hiện của lôu:
Lo âu là một nhóm triệu chứng liên quan đến nhiều trạng thái khác nhau
và ban đầu người bệnh thường đi khám ở những chuyên khoa khác nhau như

tim mạch, hơ hấp, thần kinh… chứ ít khi người bệnh đến thẳng chuyên khoa
tâm thần. Biểu hiện của lo âu có thể diễn ra một cách từ từ hoặc là đột ngột với
nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau. Có thể được nhận biết qua 2 nhóm biểu
hiện sau.


5

- Biểu hiện về cảm xúc: sợ và lo lắng một cách quá mức trước những sự
việc không đáng lo, cảm giác rất sợ chết, khiếp sợ cái chết, có vấn đề về tập
trung, chú ý vào công việc, dễ bị kích thích, cảm thấy đứng ngồi khơng n,
cảm giác căng thẳng, hay giật mình, hay nghĩ đến những điều nguy hiểm xảy ra
với mình, cảm thấy đầu óc mình trống rỗng, cảm thấy điều gì đó xấu sẽ xảy ra
với mình.
- Biểu hiện về triệu chứng cơ thể: lo âu không chỉ là triệu chứng của cảm
xúc mà của tất cả các cơ quan, bộ phận trong cơ thể đều có thể bị ảnh hưởng và
làm cho cơ thể có những biểu hiện về triệu chứng cơ thể khác nhau. Lo âu gồm
các triệu chứng như: cơn nhịp tim nhanh, vã mồ hơi, khó chịu ở dạ dày hoặc
cảm giác hoa mắt, chóng mặt, hay phải đi tiểu hoặc hay phải đi ngồi, thở
nhanh và nơng, run tay chân và co quắp tay chân, căng cơ, đau đầu, mệt mỏi và
mất ngủ. Chính vì các triệu chứng này mà người bệnh dễ bị chẩn đoán nhầm với
những bệnh lý khác và không được điều trị đúng chuyên khoa, hoặc phải mất
thời gian dài mới có thể gặp được đúng thầy thuốc chuyên khoa tâm thần.[18]
1.1.2. Trầm cảm:
1.1.2.1. Định nghĩa:
Trầm cảm là một dạng rối loạn tâm thần (RLTT) thường gặp nhất trong các
dạng RLTT, bao gồm nhiều triệu chứng nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc
và người bệnh khơng cịn quan tâm hay thích thú đối với những gì xảy ra xung
quanh hoặc đối với bản thân mình. Người bệnh ln cảm thấy mệt mỏi, mất hi vọng
vào tương lai, nghĩ rằng thế giới xung quanh dường như lúc nào cũng u ám [1].

Trầm cảm có thể xuất hiện với góc độ là một phản ứng đáp lại tác động gây
stress nào đó hoặc một tình huống cuộc sống nặng nề, thường là sự mất mát của
bản thân: mất người thân, li hôn, …; khủng hoảng tài chính hoặc mất vai trị đã có
(nghề nghiệp, gia đình,…). Trầm cảm thường xuất hiện dưới dạng phàn nàn cơ thể.
Nếu phiền muộn và buồn bã là những phản ứng bình thường với một sự mất mát
nào đó thì trầm cảm lại khơng phải như vậy. Người có nỗi phiền muộn thì mong
muốn tạo ra sự thơng cảm và chia sẻ của người khác. Ngược lại, trầm cảm tạo ra


6

sự thất vọng và kích thích. Phiền muộn kèm theo tính tự trọng cịn ngun vẹn,
trong khi đó trầm cảm lại nổi lên cảm giác tội lỗi và không xứng đáng. [1]
1.1.2.2. Biểu hiệu của trầm cảm:
Các triệu chứng của trầm cảm hết sức đa dạng cả về thực thể, tâm thần và hành
vi. Người bị trầm cảm có nhiều biểu hiện khác nhau về mức độ nghiêm trọng, tần số
và thời gian của các triệu chứng tùy thuộc vào từng cá nhân, bệnh tật cụ thể [1]:
 Buồn dai dẳng, lo lắng hoặc cảm giác “trống rỗng”.
 Cảm giác tuyệt vọng hay bi quan.
 Cảm giác tội lỗi, vô dụng hoặc bất lực.
 Dễ bị kích thích, bồn chồn.
 Mất quan tâm trong các hoạt động hoặc sở thích bao gồm hoạt động tình dục.
 Mệt mỏi, giảm năng lượng.
 Khó tập trung, ghi nhớ chi tiết và ra quyết định.
 Mất ngủ, tỉnh táo vào buổi sáng sớm hoặc ngủ quá nhiều.
 Ăn quá nhiều hoặc mất cảm giác ngon miệng.
 Ý nghĩ tự tử hay tự tử.
 Đau đầu, đau bụng hoặc rối loạn tiêu hóa.
Đối với những người bệnh nặng hơn cịn gặp khó khăn hay khơng thể thực
hiện những việc bình thường như đi ra ngoài, đi chợ hay đi học, gặp gỡ bạn bè,

thăm người thân, tiếp xúc với người khác, đặt biệt là với người khác giới.[1]
1.1.3. Khái niệm và những biểu hiện của Stress
1.1.3.1. Khái niệm về stress
Theo “Từ điển Y học Anh - Việt” (2007) thì: “Bất kỳ nhân tố nào đe dọa đến
sức khỏe cơ thể hay có tác động phương hại đến các chức năng cơ thể như tổn
thương, bệnh tật hay tâm trạng lo lắng đều gọi là stress”.
Theo “từ điển tiếng Việt” stress là một cảm giác căng thẳng và dồn ép. Áp lực
với cường độ thấp có thể là một điều tốt và thậm chí có lợi ích trong cơng việc và
sức khỏe. Stress tích cực giúp tăng hiệu suất vận động thể thao. Nó cũng có vai trị
trong động lực, thích nghi và phản ứng với môi trường xung quanh. Tuy nhiên với


7

một lượng áp lực quá nhiều có thể dẫn đến nhiều vấn đề đối với cơ thể và điều đó
có thể cực kì có hại.
Tác giả Tơ Như Kh quan niệm: “Stress chính là những phản ứng khơng đặc
hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các
tình thế mà con người chủ quan thấy bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trị quyết định
khơng chủ yếu do các tác nhân kích thích, mà do sự đánh giá chủ quan về tác nhân
đó” [24]. Khái niệm này đề cập đến vai trò của yếu tố nhận thức và thái độ của con
người trong stress.
Dưới góc độ tâm lý học, Stress được hiểu như sau: “Stress là trạng thái căng
thẳng về mặt tâm lý, xuất hiện ở người trong quá trình hoạt động gặp phải những
biến cố, những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, dễ nhận thấy qua các dấu
hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ năng, cảm giác mệt mỏi, khó chịu, hoặc ưu
phiền, chán nản... Có thể dẫn đến những hậu quả nhiều mặt tùy theo khả năng ứng
phó của mỗi người”.[12]
Như vậy, stress phải được hiểu một cách tổng hợp, vừa như một kích thích,
vừa như một hậu quả kèm theo, bao hàm cả các yếu tố sinh học, xã hội, tâm lý trong

phản ứng tâm lý của con người trước các áp lực của cuộc sống.
- Phân loại và mức độ Stress:
H.Selye, một nhà nghiên cứu người Canada, phân ra stress tích cực (eustress)
và stress tiêu cực (distress). Stress tích cực (eustress): Là stress mà con người có thể
đối phó được. Đó là phản ứng stress thích nghi, loại stress này khơng thể thiếu được
trong cuộc sống của con người, khơng có stress này cơ thể sẽ chết. Stress tiêu cực
(distress): Xuất hiện khi cơ thể khơng cịn khả năng đối phó với tình huống đe dọa,
cơ thể đã mất khả năng bù trừ để lấy lại cân bằng, hay nói cách khác, khả năng thích
nghi bị rối loạn.[27]
Tác giả Nguyễn Thành Khải chia stress tâm lý làm 3 mức độ sau:
+ Mức độ 1: Rất căng thẳng. Ở mức độ này cơ thể cảm nhận rất căng thẳng về
mặt tâm lý, đây là trạng thái khó chịu con người cảm nhận được và có nhu cầu được
thốt khỏi nó. Do con người rơi vào tình huống khó khăn chưa có phương án giải


8

quyết, do quá tải về công việc, quá tải về thông tin, hoặc rơi vào trạng thái căng thẳng
kéo dài. Về mặt cảm xúc có thể có biểu hiện giận dữ, nóng nảy thường xun, mà đơi
khi vơ cớ hoặc lo âu, thất vọng chán chường trí nhớ giảm sút rõ rệt, tư duy kém sắc
bén, khối lượng trí nhớ thu hẹp và chất lượng hoạt động giảm sút rõ rệt.
+ Mức độ 2: Căng thẳng. Ở mức độ này con người cảm thấy có sự căng thẳng
cảm xúc, sự tập trung chú ý cao hơn, trí nhớ, tư duy nhanh nhạy hơn,... các thông số
hoạt động sinh lý cũng tăng mạnh, nhưng trạng thái này nếu kéo dài cơ thể sẽ
chuyển sang trạng thái rất căng thẳng. Độ bền vững của mức độ stress này tùy thuộc
vào đặc điểm tâm sinh lý cá nhân.
+ Mức độ 3: Ít căng thẳng. Là trạng thái con người cảm nhận bình thường
hoặc có yếu tố căng thẳng nhẹ. Ở mức này mọi hoạt động diễn ra bình thường, cơ
thể huy động năng lượng với mức vừa phải, các hoạt động chú ý, trí nhớ, tư duy
hoạt động bình thường, hoặc có thay đổi nhưng không đáng kể [27].

- Nguyên nhân gây stress
Giáo sư Vũ Đức, Tiến sĩ dưỡng sinh Hoa Kỳ đã đưa ra những ý kiến của mình
về nguyên nhân gây ra stress như sau:
Stress được gây nên bởi 5 tác nhân chính yếu (stressor) như sau:
* Những chuyển biến sinh lý: Những chuyển biến sinh lý trong cơ thể gây ảnh
hưởng đến đời sống bình thường của chúng ta như: Bệnh tật, sự giới hạn cử động
của cơ thể, sự biến đổi sinh lý tùy lứa tuổi như thiếu niên, thanh niên, trung niên và
cao niên đều là những nguyên nhân tạo nên stress.
* Những biến cố bất lợi trong cuộc sống: Là những thay đổi, mất mát về hoàn
cảnh, gia đình, việc làm và tài chính đều là những tác nhân đưa đến stress. Ví dụ, sự
qua đời của thân nhân và bạn hữu, thay đổi điều kiện sống và nơi cư trú, vi phạm
pháp luật, sự bất hạnh với thân nhân, mất việc làm, điều kiện bất ổn tại nơi làm việc
tình trạng tài chính bị thay đổi, đối đầu với các món nợ phải trả...
* Sự kiện môi sinh: Những sự kiện môi sinh là những nguồn lực đến từ thiên
nhiên, địa lý và nhân sinh gây ảnh hưởng đến vùng sinh sống của chúng ta đều tạo nên


9

những stress, ví dụ như: Thiên tai, động đất, bão lụt, cầu cống hư hỏng, đường xá chật
hẹp lưu thông đình trệ, dân cư đơng đúc và nghèo đói, tiếng ồn ào của xe cộ...
* Thói quen xấu trong cách sống: Thói quen được thể hiện trong cách sinh sống
hàng ngày là động lực gây nên stress. Ví dụ: Thói quen hút thuốc lá, nghiện rượu, tham
ăn hoặc lười biếng ăn uống, không giữ đúng giờ giấc (quá trễ hoặc quá sớm)...
* Sinh hoạt trí thức và tinh thần: Những sinh hoạt sử dụng trí não để suy nghĩ
đều gây nên stress ví dụ: việc thi trắc nghiệm, ơn thi mãn khóa, đọc sách, viết văn,
làm báo chí, xem tivi hoặc phim ảnh video nhiều giờ….
1.1.3.2. Các biểu hiện của Stress
Stress biểu hiện qua nhiều cách, tùy từng người mà có những biểu hiện khác nhau:
- Những biểu hiện thể chất:

▪ Mệt mỏi, uể oải.
▪ Nhịp tim nhanh, huyết áp tăng.
▪ Thở nhanh.
▪ Nhức đầu, mệt mỏi, suy nghĩ miên man.
▪ Miệng khô, chán ăn, ăn không ngon.
▪ Đau các khớp.
▪ Đi tiểu nhiều lần......
- Những biểu hiện về tâm lý:
▪ Tính tình thay đổi, dễ nóng nảy, giận dữ, thiếu bình tĩnh.
▪ Lo lắng, chán nản, buồn rầu.
▪ Hay cáu giận, khó tính.
▪ Gây gỗ, gây sự, hung hãn.
▪ Sống khép mình, khơng thích tiếp xúc với mọi người xung quanh.
▪ Hút thuốc, uống rượu nhiều hơn ... [14]
1.2. Hội chứng tự kỷ
1.2.1. Khái niệm tự kỷ:
Tự kỷ xuất phát từ chữ Hy lạp: Autism, nghĩa là tự động, tự thân trong tâm
thần học, được Bleuler sử dụng lần đầu tiên để chỉ một triệu chứng cơ bản của bệnh


10

tâm thần phân liệt. Triệu chứng tự kỷ là nét cơ bản của các triệu chứng âm tính
trong tâm thần phân liệt. Người bệnh mất đi phần lớn các chức năng giao tiếp và
tương tác với môi trường xã hội. Biểu hiện như là thu kín vào bên trong, khó giao
tiếp và tương tác.
Tự kỷ là một rối loạn phát triển tâm thần đặc trưng bởi sự thiếu hụt về kỹ năng
giao tiếp và ngôn ngữ, kỹ năng xã hội và có hành vi lặp lại (12)
1.2.2. Chẩn đốn Hội chứng tự kỷ:
Theo tiêu chuẩn Chẩn đoán các rối loạn tâm thần (DSM-IV) của Hội tâm thần

học Hoa Kỳ, để chẩn đốn trẻ mắc Hội chứng tự kỷ, cần có các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn 1: Có ít nhất 6 dấu hiệu từ các mục (1), (2), (3) dưới đây, trong đó ít
nhất có 2 dấu hiệu từ mục (1); 1 dấu hiệu từ mục (2) và 1 dấu hiệu từ mục (3).
(1) Khiếm khuyết về chất lượng quan hệ xã hội: Có ít nhất 2 dấu hiệu/tổng số
20 biểu hiện được liệt kê thuộc 4 nhóm là:
a. Khiếm khuyết sử dụng hành vi không lời.
b. Kém phát triển mối quan hệ bạn hữu tương ứng với lứa tuổi.
c. Thiếu chia sẻ quan tâm thích thú.
d. Thiếu quan hệ xã hội hoặc thể hiện tình cảm.
(2) Khiếm khuyết chất lượng giao tiếp: có ít nhất 1 dấu hiệu/tổng số 17 biểu
hiện thuộc 4 nhóm sau:
a. Chậm/ khơng phát triển về kỹ năng nói so với tuổi.
b. Nếu trẻ nói được thì có khiếm khuyết về khởi xướng và duy trì hội thoại.
c. Sử dụng ngôn ngữ trùng lặp, rập khuôn hoặc ngôn ngữ lập dị.
d. Thiếu kỹ năng chơi đa dạng, giả vờ, bắt chước mang tính xã hội phù hợp
với tuổi.
(3) Mối quan tâm gị bó, định hình, trùng lặp và hành vi bất thường:
Có ít nhất 1 dấu hiệu/ tổng số 12 biểu hiện thuộc 4 nhóm sau:
a. Bận tâm bao trùm, thích thú mang tính định hình bất thường cả về cường độ
và độ tập trung.
b. Bị cuốn hút không cưỡng lại được bằng các cử động, nghi thức.


11

c. Cử động chân tay lặp lại hoặc rập khuôn.
d. Bận tâm dai dẳng với những chi tiết của vật.
Tiêu chuẩn 2: Chậm hoặc có rối loạn ở 1 trong các lĩnh vực sau trước 3 tuổi:
 Quan hệ xã hội.
 Ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp xã hội.

 Chơi mang tính biểu tượng hoặc tưởng tượng.
1.2.3. Điều trị và chăm sóc trẻ bị chứng tự kỷ.
Hiện nay, trẻ khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng có thể được khám,
phát hiện và chăm sóc tư vấn nhờ các chuyên gia phục hồi chức năng, các bác sỹ
tâm - thần kinh nhi hoặc các giáo viên dạy trẻ khuyết tật. Các khoa phục hồi chức
năng, khoa tâm thần kinh của bệnh viện tỉnh hoặc trung ương hoặc các trung tâm
nuôi dưỡng - PHCN trẻ khuyết tật là những cơ sở chăm sóc trẻ. Tuy nhiên có
khoảng trên 80% trẻ tự kỷ thuộc mức độ nhẹ và vừa, có thể giáo dục hịa nhập
được. Những trẻ này vẫn đi học được các lớp mầm non bình thường, chỉ cần được
hỗ trợ thêm những giờ học chuyên biệt với các chuyên gia ngôn ngữ trị liệu với các
chuyên gia tâm lý. Với hình thức can thiệp hịa nhập này, trẻ vẫn có mơi trường
phát triển và giáo dục bình thường, trong khi vẫn được hỗ trợ thêm những kỹ năng
mà trẻ chưa phát triển đầy đủ. Số trẻ bị tự kỷ nặng, thường kém theo chậm phát
triển trí tuệ và rối loạn hành vi nặng nên được can thiệp tại các lớp học phục hồi
chức năng, hoặc các trung tâm phục hồi chức năng. Đó là kiểu học bán trú cả ngày.
Ở đó trẻ được học nhiều kỹ năng: tự chăm sóc bản thân, học giao tiếp, vui chơi....
Do khuyết tật nặng nên những hoạt động này của trẻ được hỗ trợ nhiều hơn, dành
thời gian được can thiệp cá nhân nhiều hơn so với các lớp học hòa nhập. [25]
1.3. Một số nghiên cứu về sức khỏe tâm lý của cha mẹ có con mắc hội chứng tự
kỷ trong nước và trên thế giới.
1.3.1. Những cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng 90% trẻ khuyết tật sinh ra trong gia
đình có bố mẹ là những người bình thường... Khi phát hiện con mình bị khuyết tật,
họ khơng những sẽ thất vọng, chán nản, mất tự tin mà còn lúng túng không biết phải


12

xử lý như thế nào, làm thế nào để giúp trẻ. Thậm chí, họ e ngại khi nói ra sự thật về
con của mình. Họ cho rằng chỉ có những chun gia mới có thể can thiệp được...Vì

vậy, để cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ đạt hiệu quả tốt hơn, trước tiên chúng ta
phải giải quyết những vấn đề về tâm lý của cha mẹ trẻ, của các thành viên trong gia
đình. Đây là một trong những cơng việc đầu tiên để quá trình can thiệp được liên
tục và đạt hiệu quả. [12]
Cha mẹ có con mắc Hội chứng tự kỷ phải trải qua “cú sốc tâm lý”. Điều này
thường diễn ra qua 5 giai đoạn. [12]

Sốc, không tin, phủ nhận sự thật

Tức giận, tự trách mình

Tự lý giải, mặc cả

Suy sụp, buồn nản

Chấp nhận

Sơ đồ 1: Mơ hình kiểu truyền thống


13

Sơ đồ 2. Mơ hình hiện đại
Tóm lại, việc làm cha, làm mẹ của một đứa con mắc hội chứng tự kỷ không
phải là một công việc dễ dàng, đơn giản. Cha mẹ có thể phải chịu đựng rất nhiều
những trạng thái cảm xúc phức tạp, thường được gọi là “những trận bão cảm xúc”
và nó có thể kéo dài trong nhiều năm, tồn tại và ảnh hưởng rất nhiều đến thể xác
cũng như tinh thần của những người làm cha, làm mẹ.
1.3.2. Những cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
Với đề tài “Nghiên cứu stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ” (2010)

của mình, tác giả Nguyễn Thị Mai Hương đã chỉ ra rằng: Trong cuộc sống, các bậc
cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ thường xuyên bị stress. Mức độ stress ở các cha
mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ là mức: căng thẳng có tỉ lệ cao nhất, mức độ rất
căng thẳng chiếm vị trí thứ hai và ít căng thẳng chiếm vị trí thứ 3. Trong khi các gia
đình bình thường khác có thể dành thời gian, tiền của để hưởng thụ những tiện ích
của cuộc sống thì các cha mẹ có con bị tự kỷ hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt với
căn bệnh hiểm nghèo của con mà khơng có thuốc nào chữa được. Khơng chỉ thế họ
vẫn phải lo toan, làm tốt nghĩa vụ, phận sự của vai trò làm con, làm vợ (chồng), làm
mẹ, ... trong các mối quan hệ. Stress ở các bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ
được biểu hiện ở những dấu hiệu của thể chất và tâm lý được đánh giá qua dấu hiệu
bên ngoài và sự cảm nhận của mỗi người. Các biểu hiện về thể chất và tâm lý có sự


14

thay đổi khi gặp các hoàn cảnh và mức độ stress khác nhau như: Hơi thở dồn dập;
khó thở; mệt mỏi uể oải; mất ngủ, khó ngủ đau đầu; dễ nóng nảy, giận dữ, thiếu
bình tĩnh; khó tính, khắt khe hơn; ít nói hoặc nói q nhiều.Stress ở các cha me có
con mắc hội chứng tự kỷ có nguyên nhân chính là bệnh tình của con. Từ đó kéo
theo hàng loạt các nguyên nhân khác liên quan sự phát triển chậm chạp của con, tủi
thân vì thấy con mình thiệt thịi, lo lắng kiệt sức vì lo cho con... Stress để lại hậu
quả rõ rệt đối với các cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ: Cơ thể mệt mỏi, tâm
trạng chán nản, khó ăn, mất ngủ mắc các bệnh thực thể khác như dạ dày, hô hấp,
đặc biệt là ảnh hưởng đến q trình ni dạy con...Hiện nay, các cha mẹ có con mắc
hội chứng tự kỷ có dùng nhiều biện pháp khác nhau để giảm stress, trong đó “tự
điều chỉnh bản thân”, “cho phép mình nghỉ ngơi” là những phương pháp được sử
dụng nhiều nhất, tuy nhiên chỉ mang tính chất tạm thời, khơng mang tính chất lâu
dài, triệt để. Kết quả thực nghiệm phương pháp tự điều chỉnh bản thân và Thiền có
tác dụng giảm stress rõ rệt đối với cuộc sống của các bậc cha mẹ có con mắc hội
chứng tự kỷ. [12]

Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mẫn (2010) “Giao tiếp giữa cha mẹ
và trẻ mắc chứng tự kỷ trong gia đình tại Hà Nội”, việc giao tiếp giữa cha mẹ với
trẻ tự kỷ vẫn còn hạn chế cả về thời gian, về nội dung giao tiếp và hình thức giao
tiếp. Khi nói chuyện với trẻ, cha mẹ đều nhằm mục đích hướng vào đứa trẻ như để
hy vọng vào một sự thay đổi của trẻ hay để giúp con hiểu những gì đang diễn ra
trong cuộc sống. Tuy nhiên, mục đích giao tiếp của người cha khác so với mục đích
giao tiếp của người mẹ. Người mẹ tập trung vào đứa trẻ nhiều hơn, để giúp con hiểu
những gì đang diễn ra trong cuộc sống và để hy vọng vào một sự thay đổi nào đó
của trẻ. Trong khi đó, người cha không chỉ tập trung vào đứa trẻ mà việc chia sẻ
tình cảm, giải tỏa những suy nghĩ của bản thân cũng rất quan trọng. Đề tài này đã
chỉ ra những vất vả của cha mẹ trẻ tự kỷ hơn so với những trẻ khơng bị tự kỷ vì thời
gian và công sức dành cho trẻ tự kỷ cần hơn rất nhiều. Đặc trưng của trẻ tự kỷ là
hạn chế về giao tiếp, vì thế để góp phần cải thiện giao tiếp cho trẻ, các cha mẹ của
trẻ cần đặc biệt chú ý tới cả thời gian, hình thức và nội dung khi giao tiếp với trẻ.


15

Tuy nhiên, do những khó khăn trong cuộc sống và nhận thức của từng cha mẹ trẻ tự
kỷ, số thời gian hạn chế mà họ dành để giao tiếp với trẻ sẽ khó có thể giúp trẻ tiến
bộ. Hơn nữa, điểm yếu của những cha mẹ này là họ sử dụng rất hạn chế các hình
thức để giao tiếp với trẻ, vì thế khả năng đón nhận nội dung giao tiếp của trẻ cũng
rất khó khăn.[11]
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Quyên (2013) “Tâm trạng của cha mẹ có
con tự kỷ”. Kết quả cho thấy: Tâm trạng của cha mẹ có con tự kỷ được biểu hiện ở
cả ba khía cạnh tâm trạng về bản thân, tâm trạng về gia đình và tâm trạng về xã
hội, trong đó có sự đan xen giữa tâm trạng tích cực và tâm trạng tiêu cực. Tâm
trạng về gia đình của cha mẹ có con tự kỷ có xu hướng tích cực, trong khi đó, tâm
trạng về bản thân và về xã hội của họ có xu hướng tiêu cực. So sánh tâm trạng giữa
các nhóm cha mẹ có con tự kỷ về giới tính, chức vụ và tình trạng hơn nhân cho

thấy có sự khác nhau nhất định. Trong đó, nam giới có xu hướng có tâm trạng tích
cực hơn so với nữ giới; Người có chức vụ cao và khơng có chức vụ có tâm trạng
tiêu cực hơn so với người có chức vụ thấp; Người sống trong hồn cảnh gia đình có
nhiều thành phần, nhiều thế hệ có tâm trạng tiêu cực hơn người sống tương đối độc
lập. Trong các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng của cha mẹ có con tự kỷ, chúng tơi
phân tích tương quan giữa các yếu tố: Kinh tế của gia đình (thu nhập), địa vị xã hội
(chức vụ) và mối quan hệ trong gia đình với các biểu hiện tâm trạng của họ. Trong
đó, yếu tố kinh tế có ảnh hưởng tương đối mạnh; Yếu tố mối quan hệ trong gia
đình có ảnh hưởng ở mức trung bình, yếu tố địa vị xã hội ảnh hưởng không đáng
kể đến tâm trạng của cha mẹ có con tự kỷ. Tuy nhiên, tổng hợp cả ba yếu tố trên
tạo thành yếu tố tổng hợp có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự thay đổi tâm trạng của
cha mẹ có con tự kỷ.[9]
Tác giả Nguyễn Thị Như Mai (2010) với nghiên cứu “Có thể phát hiện sớm
những dấu hiệu của bệnh tự kỷ ở trẻ em” đã trình bày những nét đặc trưng của bệnh
tự kỷ ở trẻ em và những dấu hiệu, biểu hiện thường thấy ở trẻ nhỏ có nguy cơ mắc
bệnh tự kỷ. Theo những nghiên cứu mới đây của những nhà tâm lý học, trẻ em ở
những giai đoạn khác nhau: 0 – 6 tháng, 6 - 12 tháng, 12 – 24/ 30 tháng được can


×