Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.09 KB, 23 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI
CHÍNH
1.1 CÔNG TY TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG KINH TẾ VIỆT
NAM
1.1.1 Khái niệm về công ty tài chính
Công ty tài chính là một loại hình doanh nghiệp với hoạt động chính là
kinh doanh vốn. Theo nghị định số 79/2002/NĐ-CP của Chính phủ, Công ty Tài
chính được định nghĩa “là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay,
đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số
dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh
toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.”

1.1.2 Các hình thức của Công ty Tài chính
Để tiện cho việc quản lý và điều tiết các hoạt động của Công ty Tài chính
trong thị trường tiền tệ, Công ty tài chính được chia ra thành các loại sau:
• Công ty Tài chính Nhà nước: là Công ty Tài chính do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh.
• Công ty Tài chính cổ phần: là Công ty Tài chính do các tổ chức và cá
nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình
thức Công ty cổ phần.
• Công ty Tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng: là Công ty Tài chính do
một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu
theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân.
• Công ty Tài chính liên doanh: là Công ty Tài chính được thành lập bằng
vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh
nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín
dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
• Công ty Tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty Tài chính được
thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài


theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN
1.2.1 Khái niệm
Tư bản (hay vốn) trong Kinh tế học là khái niệm để chỉ những vật thể có
giá trị, có khả năng đo lường được sự giàu có của người sở hữu chúng. Tư bản
là sở hữu về vật chất thuộc về cá nhân hay được tạo ra bởi xã hội. Tuy nhiên tư
bản có nhiều định nghĩa khác nhau dưới khía cạnh kinh tế, xã hội, hay triết học.
• Trong kinh tế học cổ điển, tư bản được định nghĩa là những hàng hóa sẵn
có để sử dụng làm yếu tố sản xuất. Với vai trò là yếu tố sản xuất, tư bản
có thể là mọi thứ như tiền bạc, máy móc, công cụ lao động, nhà cửa, bản
quyền, bí quyết, v.v.. nhưng không bao gồm đất đai và lao động.
• Trong Kinh tế học Tân cổ điển, tư bản (vốn) là một trong bốn yếu tố sản
xuất. Ba yếu tố còn lại là đất đai, lao động và doanh nghiệp.
• Trong học thuyết kinh tế chính trị của Marx, tư bản lưu động là khoản
đầu tư của nhà tư bản vào lực lượng sản xuất, là nguồn tạo ra giá trị thặng
dư. Nó được coi là “lưu động” vì lượng giá trị mà nó tạo ra khác với
lượng giá trị nó tiêu dụng, có nghĩa là tạo ra giá trị mới. Tư bản cố định là
khoản đầu tư vào yếu tố sản xuất không phải con người như máy móc,
nhà xưởng - những tư bản mà theo Marx, chỉ tạo ra lượng giá trị để thay
thế chính bản thân chúng. Nó được coi là cố định theo nghĩa giá trị đầu tư
ban đầu và giá trị thu hồi ở dạng các hàng hóa do chúng tạo ra là không
đổi.
Trong nền kinh tế thị trường, Doanh nghiệp là những tổ chức được hình
thành nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện một hoặc một số các công đoạn của quá trình
đầu tư từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ ngoài thị trường nhằm
mục tiêu cuối cùng là mang lại lợi nhuận. Để tiến hành được các hoạt động sản
xuất kinh doanh nói trên doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động (máy móc,
nhà xưởng...) và đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành
phẩm…), và sức lao động. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một

lượng vốn nhất định để mua vật tư, máy móc, thuê lao động…Do vậy vốn được
coi là một điều kiện tiên quyết cho bất kì hoạt động nào của doanh nghiệp. Một
cách tổng quan, “Vốn là toàn bộ giá trị tài sản được dùng vào sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. ”

1.2.2 Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp
muốn đạt được hiệu quả trong hoạt động cần phải có những sản phẩm tốt về
chất lượng, mẫu mã, giá cả cạnh tranh, đồng thời doanh nghiệp cũng phải nắm
bắt được nhu cầu luôn biến động của thị trường tiêu dùng để có những sản phẩm
đáp ứng được nhu cầu đó. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có các nguồn lực
tốt để tiến hành và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong các nguồn lực
cần thiết thì vốn được coi là nguồn lực quan trọng nhất. Bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng cần có vốn để tiến hành sản xuất, vốn là điều kiện tiên quyết,
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các quyết định của các nhà quản lý. Thực
tiễn cho thấy những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn sẽ áp dụng được Khoa
học Công nghệ (KHCN), mua sắm máy móc, xây nhà xưởng mới, tăng cường
hoạt động Marketing....do đó năng suất lao động tăng lên, chất lượng hàng hoá
được cải thiện ngày một tốt hơn, từ đó tăng cường được khả năng cạnh tranh và
tồn tại của doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp nào có lượng
vốn càng lớn thì càng có thế chủ động trong kinh doanh và có lợi thế rất lớn
trong môi trường cạnh tranh đầy biến động của thị trường hiện nay. Do vậy, vốn
xét trên phương diện hình thái hiện vật và hình thái giá trị, là yếu tố quan trọng
nhất trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.

1.2.3 Phân loại Vốn:
Do có vai trò quan trọng và thiết yếu trong qua trình hoạt động của các
doanh nghiệp nên việc phân loại vốn theo các hình thức khác nhau sẽ giúp
doanh nghiệp đề ra được những giải pháp quản lý và sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả. Tuy có nhiều phương thức để phân loại nhưng cơ bản theo đặc điểm

luân chuyển của vốn người ta chia thành vốn đầu tư và vốn sản xuất.
1.2.3.1 Vốn đầu tư
Vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư tài sản cố định và vốn đầu tư tài
sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm vốn đầu tư cơ bản
(VĐTCB) và vốn đầu tư sửa chữa lớn (VĐTSCL).
VĐTCB làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù
đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang, còn
VĐTSCL không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản. Vai trò kinh tế của
VSCL tài sản cố định cũng giống như vốn đầu tư cơ bản, là nhằm đảm bảo thay
thế tài sản bị hư hỏng.

1.2.3.2 Vốn sản xuất
Khái niệm vốn sản xuất được bắt nguồn từ quan niệm về tài sản quốc gia.
Tài sản quốc gia có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp. Tài sản
quốc gia theo nghĩa rộng bao gồm
(1) tài nguyên thiên nhiên của đất nước
(2) các loại tài sản được sản xuất ra
(3) nguồn vốn con người.
Tài sản quốc gia theo nghĩa hẹp là toàn bộ của cải vật chất do lao động sáng tạo
của con người được tích lũy lại qua thời gian theo tiến trình lịch sử phát triển
của đất nước.
Theo cách phân loại của Liên hợp quốc (UN), tài sản được sản xuất ra lại
chia thành 9 loại:
(1) công xưởng, nhà máy;
(2) trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng;
(3) máy móc thiết bị, phương tiện vận tải;
(4) cơ sở hạ tầng;
(5) tồn kho của tất cả các loại hàng hóa;
(6) các công trình công cộng;
(7) các công trình kiến trúc;

(8) nhà ở
(9) các cơ sở quân sự.
Dựa vào chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, 9 loại tài
sản trên được chia thành hai nhóm:
• Nhóm thứ nhất bao gồm 5 loại đầu. Những tài sản này được sử dụng làm
phương tiện trực tiếp phục vụ quá trình sản xuất và được gọi là tài sản sản
xuất. Trong đó, 4 loại tài sản từ (1) đến (4) được gọi là tài sản cố định
(vốn cố định), còn lại tài sản (5) được gọi là tài sản lưu động (vốn lưu
động). Tuy nhiên, trên thực tế trong các loại hàng tồn kho, ngoài các loại
nguyên, nhiên vật liệu dự trữ cho sản xuất còn có cả những giá trị tài sản
cố định chưa lắp đặt và thành phẩm chưa tiêu thụ, vì vậy, cách hiểu ở đây
chỉ mang ý nghĩa tương đối. Sự khác nhau trên nguyên tắc về mặt kinh tế
giữa tài sản cố định và tài sản lưu động là tính chất sử dụng nhiều lần của
tài sản cố định và tính chất sử dụng được một lần của tài sản lưu động, từ
đó thời hạn phục vụ của tài sản cố định thường được quy định kéo dài
hơn một năm, còn thời gian phục vụ của tài sản lưu động là dưới một
năm.
• Nhóm thứ hai bao gồm 4 loại cuối, đều có tính chất chung là không tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, nên được gọi là tài sản phi sản xuất
(vốn phi sản xuất).
Vậy, vốn sản xuất là giá trị của những tài sản đựơc sử dụng làm
phương tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn
cố định và vốn lưu động.
a) Vốn cố định:
Để tiến hành hoạt động sản xuất các doanh nghiệp phải có đủ 3 yếu tố:
Sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động trong đó bộ phận chủ yếu
của các tư liệu lao động là các tài sản cố định (TSCĐ). Số lượng vốn tiền tệ nhất
định doanh nghiệp ứng ra để có được các tài sản cố định (TSCĐ) cần thiết cho
hoạt động kinh doanh được gọi là Vốn cố định (VCĐ). (Cũng có thể nói VCĐ là
bộ phận của Vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ). Có thể khái quát một số nét đặc

thù về sự vận động và chu chuyển của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh
như sau:
Một là, VCĐ tham gia vào nhiều chu trình sản xuất kinh doanh sản phẩm,
đièu này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản
xuất quyết định.
Hai là, VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản
xuất. Khi tham gia vào quá trình đó một bộ phận của TSCĐ được luân chuyển
và cấu thành nên chi phí sản xuất của sản phẩm tương ứng với giá trị hao mòn
của TSCĐ.
Ba là, sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân
chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm tăng dần lên song phần vốn đầu tư vào TSCĐ lại giảm dần cho đến khi
TSCĐ hết thời hạn sử dụng thì giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị
của sản phẩm đã sản xuất. Khi đó, VCĐ hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm đó đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải luôn gắn với việc
quản lý hình thái hiện vật là các TSCĐ của doanh nghiệp.
TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm của chúng là có
giá trị lớn và thời gian sử dụng dài, được sử dụng trong quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc sắp xếp TSCĐ thành từng loại, từng nhóm theo những đặc điểm
nhất định để thuận tiện cho công tác quản lý và hạch toán tài sản cố định. Hiện
nay tài sản cố định thường được phân ra theo các đặc trưng sau:
• Theo hình thái biểu hiện: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
(1) TSCĐ hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể do
doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh. TSCĐ hữu hình bao
gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết
bị, dụng cụ quản lý. . . .
(2) TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác
định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng

khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn TSCĐ vô hình. TSCĐ vô hình chỉ
được thừa nhận khi xác định được giá trị của nó, thể hiện một lượng giá
trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh
doanh của doanh nghiệp, nó bao gồm quyền sử dụng đất, nhãn hiệu
hàng hoá, quyền phát hành, phần mềm máy tính, bản quyền sáng
chế. . . .
• Theo mục đích sử dụng: TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh và TSCĐ
dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng:
(1) Tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh là những TSCĐ đang
dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất
kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
(2) TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi…là những TSCĐ không mang tính
chất sản xuất do doanh nghiệp quản lý sử dụng cho các hoạt động phúc
lợi, sự nghiệp và các hoạt động đảm bảo an ninh quốc phòng
• Theo hình thái sử dụng: TSCĐ đang dùng, TSCĐ chưa cần dùng, TSCĐ
không cần dùng và chờ thanh lý.
• Theo quyền sở hữu: TSCĐ tự có và TSCĐ đi thuê.
Tuy nhiên trong thực tế doanh nghiệp có thể kết hợp nhiều phương pháp phân
loại TSCĐ tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng thời kỳ.

b) Vốn lưu động:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các TSCĐ, doanh nghiệp cũng
cần có các tài sản lưu động (TSLĐ). Lượng vốn tiền tệ nhất định đầu tư vào
TSLĐ được gọi là Vốn lưu động (VLĐ). (VLĐ là số vốn ứng ra để hình thành
TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh được thực hiện thường xuyên,
liên tục. VLĐ chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu hồi toàn
bộ.) VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất.
Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ tiền vốn
đầu tư vào các hình thái khác nhau của VLĐ, khiến cho các hình thái này có
được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau, tạo điều kiện cho quá trình

chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Ngoài
ra VLĐ còn là công cụ đánh giá, phản ánh quá trình vận động của vật tư. VLĐ
luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư tiết kiệm hay không,
thời gian sản xuất là hợp lý hay không.
Để quản lý VLĐ cần phải phân loại dựa theo các tiêu thức khác nhau. Có
thể phân loại VLĐ ra như sau:
• Dựa theo hình thái biểu hiện và khả năng hoán tệ của vốn có thể chia
VLĐ thành vốn bằng tiền và vốn về hàng tồn kho:
(1) Vốn bằng tiền gồm tiền mặt trong quỹ, tiền gửi tại NH và tiền đang
chuyển.
(2) Vốn về hàng tồn kho gồm vốn vật tư dự trữ, vốn sản phẩm dở dang, vốn
thành phẩm.
Việc phân loại vốn theo cách này tạo điều kiện thuận lợi để xem xét đánh
giá mức độ tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó thông qua cách phân loại này có thể tìm các biện pháp phát huy chức năng
các thành phần vốn và biết được kết cấu VLĐ để định hướng điều chỉnh hợp lý
và có hiệu quả.
• Dựa vào vai trò của VLĐ với quá trình sản xuất kinh doanh, VLĐ bao
gồm các loại sau
VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất:
(1) vốn nguyên vật liệu chính
(2) vốn vật liệu phụ
(3) vốn nhiên liệu
(4) vốn phụ tùng thay thế
(5) vốn vật đóng gói
(6) vốn công cụ dụng cụ nhỏ
VLĐ trong khâu trực tiếp sản xuất
(1) vốn sản phẩm đang chế tạo
(2) vốn về chi phí trả trước
VLĐ trong khâu lưu thông

(1) vốn thành phẩm
(2) vốn bằng tiền
Phương pháp này cho phép đánh giá kết cấu VLĐ theo vai trò, từ đó giúp
định hình đánh giá tình hình phân bổ VLĐ trong các khâu của quá trình luân
chuyển vốn, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm
tạo ra một kết cấu VLĐ hợp lý, tăng được tốc độ luân chuyển VLĐ.
• Dựa vào quan hệ sở hữu về vốn: TSLĐ được tài trợ bởi hai nguồn đó là
vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. (vốn chủ sở hữu chỉ tài trợ một phần
cho nguồn VLĐ của doanh nghiệp)

×