Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Giám sát sự lưu hành của virus cúm type A/H5N1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.95 KB, 67 trang )

Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi là ngành không thể thiếu được trong nền nông nghiệp của
nước ta. Trong nhiều năm qua, ngành chăn nuôi đã phát triển rất đa dạng với
nhiều hình thức chăn nuôi và loài chăn nuôi khác nhau góp phần tăng thu nhập
cho bà con nông dân. Một trong số đó không thể không nhắc tới chăn nuôi gia
cầm. Hằng năm ngành chăn nuôi gia cầm của nước ta đã cung cấp khối lượng
thực phẩm đứng thứ hai sau chăn nuôi lợn, chiếm 17% tổng thịt hơi các loại.
Theo số liệu thống kê năm 2008 nước ta có tới 247,3 triệu con gia cầm so với
năm 2007 tăng 21,3 triệu con, với năm 2006 tăng 32,7 triệu con.(Tổng cục
thống kê. 24/4/2010).
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn
nuôi gia cầm nói riêng đã gặp không ít khó khăn. Nhiều dịch bệnh đã xảy ra
buộc phải tiêu hủy toàn đàn gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi và nền kinh
tế nước nhà. Nhiều dịch bệnh không chỉ xảy ra trên vật nuôi mà còn lây sang
con người gây tử vong. Một trong số đó là bệnh Cúm gia cầm.
Khi mới xuất hiện ở Việt Nam vào năm 2003, bệnh đã thể hiện là một căn
bệnh có tính lây lan nhanh và gây hậu quả nghiêm trọng. Thời gian đầu của
dịch bệnh từ ngày 27/12/2003 đến 30/04/2004, chỉ trong vòng hơn 4 tháng dịch
đã làm cho 2574 xã/phường thuộc 381 huyện/thị trấn của 57 tỉnh/thành phố mắc
bệnh. Tổng số gia cầm bị chết do bệnh và tiêu hủy lên tới 43,9 triệu con. Trong
thời gian gần đây, mặc dầu chúng ta đã có nhiều biện pháp phòng chống dịch
nhưng bệnh vẫn đang xảy ra trên phạm vi rộng và ngày càng nguy hiểm hơn,
đặc biệt là số lượng người mắc và tử vong ngày càng tăng. Năm 2003 ở Việt
1
Nam chỉ có 3 người nhiễm và cả 3 người đều tử vong, trên thế giới có 4 người
nhiễm và cả 4 người đều tử vong. Nhưng đến năm 2009, ở Việt Nam có tới 111
người nhiễm trong đó có 56 người tử vong, trên thế giới có 423 người nhiễm
trong đó có 258 người tử vong. Với đặc điểm của căn bệnh là có nhiều subtype
khác nhau và khả năng tổ hợp biến chủng đã làm cho căn bệnh ngày càng trở


nên nguy hiểm hơn gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi, đe dọa tính mạng
con người đồng thời gây không ít khó khăn cho việc khống chế dịch bệnh cho
ngành thú y.
Trước tình hình trên đặt ra cho chúng ta câu hỏi là: làm thề nào để có thể
chủ động biết được nơi đang lưu hành dịch, tỷ lệ lưu hành và nơi đó đang lưu
hành chủng gây bệnh nào đồng thời phát hiện thêm các chủng mới một cách
chính xác nhất. Chính vì thế mà chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Giám sát
sự lưu hành của virus cúm type A/H5N1 trên đàn gia cầm tại các chợ của 3
tỉnh Bắc Trung Bộ thuộc dự án VAHIP bằng phương pháp PCR (Real time
RT – PCR)”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Góp phần xác định sự lưu hành của virus cúm type A/H5N1 trên 3 tỉnh
thuộc dự án VAHIP: Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế.
2
Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH CÚM GIA CẦM
Cúm gia cầm có tên khoa học là Avian influanza, là một bệnh truyền nhiễm
cấp tính gây ra bởi virus cúm type A thuộc họ Orthomyxovirideae. Đây là tác
nhân gây bệnh nguy hiểm và nghiêm trọng trên gia cầm, dã cầm, động vật có vú
khắp thế giới và có thể lây sang cho người gây thiệt hại lớn cho ngành chăn
nuôi nói riêng và kinh tế mỗi quốc gia nói chung. Bệnh cúm gà đặc trưng với tỷ
lệ ốm và chết nhanh, cao với các triệu chứng sốt cao và những biểu hiện bệnh lí
ở các cơ quan.
Trước đây, bệnh được gọi là bệnh dịch tả gà, nhưng từ Hội nghị quốc tế lần thứ
nhất về bệnh cúm gia cầm tại Beltsville (Mỹ) năm 1981 đã thay thế tên này bằng tên
Highly pathogenic avian influenza – HPAI. Tên này dùng để chỉ các virus cúm type
A có độc lực mạnh, lây lan nhanh và có tỷ lệ tử vong cao. Tổ chức OIE (2003) đã xếp
HPAI thuộc danh mục A, là 1 trong 15 bệnh nguy hiểm ở động vật.
2.2. TÌNH HÌNH BỆNH CÚM GIA CẦM TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

2.2.1. Tình hình thế giới
Bệnh đã được mô tả đầu tiên ở Italya vào năm 1878 và nó được nhìn nhận
là một bệnh quan trọng và nguy hiểm. Năm 1955 virus gây bệnh mới được xác
định thuộc type A thông qua kháng nguyên bề mặt H7N1

và H7N7 gây chết
nhiều gà, gà tây và các loại chim khác.
Vào năm 1971 bệnh đã được mô tả kỹ qua đợt dịch cúm khá lớn trên gà tây
ở Mỹ. Các năm tiếp theo bệnh được phát hiện ở Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Nam Phi.
Đặc biệt năm 1983 – 1984 ở Mỹ, dịch cúm gia cầm do chủng H5N2 ở bang
Pensylvania, Virginia, Newtersey làm chết và tiêu hủy hơn 19 triệu con gà.
Cũng trong thời gian này tại Irelan người ta phải tiêu hủy 270000 con vịt, tuy
3
không có triệu chứng lâm sàng nhưng đã phân lập được virus H5N8 và bệnh đã
được loại trừ một cách nhanh chóng.
Đến năm 2004, bệnh Cúm gia cầm đã xảy với quy mô lớn và với tốc độ
bùng phát nhanh ở các nước châu Á với tổng số 11 quốc gia. Dịch xuất hiện đầu
tiên ở Hàn Quốc từ đầu tháng 12/2003, sau đó dịch xảy ra nhiều nước khác với
diễn biến khá phức tạp. Đến cuối tháng 2/2004 đã có 10 nước công bố dịch là
Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc,
Hồng Kông, Đài Loan và Pakistan. Chủng virus độc lực cao đã được phân lập
và định type là H5N1 đây là type chủ yếu, bên cạnh đó còn có H5N2 ở Đài
Loan và H7N3, H9N2 ở Pakistan. Ngoài ra, tại một số nước khác đã phân lập
được một số chủng khác như H6 ở Nam Phi, chủng H10N7 ở Ai Cập, H7N3 ở
Canada, H7N2 ở Hoa Kì. Trong đợt dịch này khoảng 120 triệu gia cầm gồm:
gà, gà tây, gà sao, gà lôi, vịt, ngan, ngỗng, chim cút, bồ câu và một số chim
hoang dã đã bị nhiễm bệnh và nằm trong vùng dịch phải tiêu hủy. Cùng với
diễn biến bệnh trên gia cầm, hàng trăm người cũng đã bị lây nhiễm, trong đó có
trên 20 người bị chết (Hội nghị cúm gia cấm tại thành phố Hồ Chí Minh).
Dịch cúm gia cầm ngày càng lan rộng. Tại Thái Lan, đợt dịch thứ nhất

kéo dài từ ngày 23/01/2004 đến giữa tháng 3/2004 đã phải tiêu hủy 30 triệu
con. Vừa chấm dứt thì đợt dịch thứ hai xuất hiện kéo dài từ ngày 03/07/2004
đến 14/02/2005. Ở Indonesia dịch xuất hiện đợt dịch thứ hai vào ngày
23/03/2005. Trong tháng 02/2004 một số nước đã tuyên bố khống chế được
dịch song có một số nước dịch lại tái phát lần 2 như Thái Lan, Campuchia, Hàn
Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử bệnh
Cúm gia cầm xảy ra nhanh trên diện rộng với diễn biến khá phức tạp. Ngoài
thiệt hại về kinh tế tính đến năm 2009 đã có 423 người nhiễm và 258 người tử
vong (Ivan Larondelle. “ Cúm gia cầm”, Bách khoa toàn thư mở
wikipedia.5/2/2010)
4
Bảng 2.1. Số lượng các ca nhiễm cúm gia cầm trên người

2.2.2. Tình hình dịch Cúm ở Việt Nam
Dịch Cúm gia cầm xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam vào cuối tháng
12/2003 tại trại giống của công ty CP ( Thái Lan) làm 8000 gà ốm chết trong 4
ngày. Từ đó đến nay đã xảy ra các đợt dịch chính như sau:
Đ ợt dịch thứ nhất: từ tháng 12/2003 đến 30/3/2004
Trong thời gian này dịch bệnh đầu tiên được báo cáo xảy ra vào cuối tháng
12/2003 ở một xã thuộc Hà Tây. Cùng thời điểm đó, các ổ bệnh cũng xảy ra tại các
tỉnh Tiền Giang và Long An. Sau thời điểm này, bệnh đã lây lan nhanh từ tỉnh này
sang tỉnh khác thuộc miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh phía Bắc.
Đây là đợt dịch đầu tiên xảy ra tại Viêt Nam nên ngành thú y gặp nhiều
khó khăn trong công tác khống chế bệnh. Đồng thời dịch lây lan một cách nhanh
chóng với nhiều ổ bệnh xuất hiện cùng một lúc ở nhiều địa phương khác nhau
đã gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Chính vì thế, chỉ trong 2 tháng đợt
5
dịch đã làm cho gia cầm của 2574 xã/phường thuộc 381 huyện/thị trấn của 51
tỉnh/thành phố của Việt Nam bị mắc bệnh. Tổng số gia cầm bị chết do bệnh và
bị tiêu hủy hơn 43,9 triệu con và thủy cầm là 13,5 triệu con. Ngoài ra còn có

14,76 triệu con chim cút và các loại chim khác bị chết và tiêu hủy (Nguyễn Tuấn
Anh, 2006).
Đến đầu tháng 2/2004, bệnh Cúm gia cầm đã lan ra hầu như khắp cả nước
với diễn biến phức tạp. Trung bình 1 ngày có khoảng 13 – 230 xã, 15 – 20
huyện phát sinh ổ dịch mới trong cả nước. Số gia cầm phải tiêu hủy lên tới 2 – 3
triệu con/ngày, ngày cao điểm lên tới 4 triệu con. Số lượng các ổ dịch cao nhất
vào ngày 6/2/2004. Sau ngày 29/2/2004 không có thông báo về các ổ dịch mới,
không còn gia cầm bị tiêu hủy và ngày 30/3/2004 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã công bố hết dịch cúm gia cầm trên toàn quốc.
Như vây, trong đợt dịch đầu tiên này có 57/61 tỉnh/thành trong cả nước có
dịch. Có 4 tỉnh không có dịch là Tuyên Quang, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình
Thuận. Hầu hết ở các tỉnh có dịch đều có trên 10% số xã có dịch. Theo thống kê
cho đến đợt dịch cuối, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là
những khu vực có tỷ lệ gia cầm mắc bệnh cao nhất.
Đ ợt dịch thứ 2: từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2004
Các ổ dịch Cúm gia cầm thể độc lực cao đã tái xuất hiện vào giữa tháng
4/2004 ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Trong đợt dịch tái lại này, bệnh xuất hiện chủ yếu ở các hộ chăn nuôi nhỏ
lẻ và hầu như không có trại chăn nuôi quy mô lớn nào bị nhiễm bệnh. Như vậy
ta thấy dịch có khuynh hướng xuất hiện ở những vùng chăn nuôi nhiều thủy cầm
và dịch đã xuất hiện ở 46 phường/xã tại 32 quận/huyện thuộc 17 tỉnh/thành.
Thời gian cao điểm nhất là tháng 7 sau đó giảm dần, đến tháng 11 cả nước chỉ
có 1 điểm phát dịch. Tổng số gia cầm bị tiêu hủy trong đợt này là 84000 con,
trong đó có gần 56000 gà, hơn 8000 vịt và gần 20000 chim cút (Nguyễn Lan
Anh, ‘Hội nghị quốc tế lần thứ hai về cúm gia cầm ở Châu Á’.12/4/2005.)
6
Đợt dịch thứ 3: từ tháng 12/2004 đến tháng 5/2005
Trong đợt này bệnh Cúm gia cầm thể độc lực cao đã xuất hiện ở 670 xã
tại 182 huyện thuộc 36 tỉnh/thành phố trong đó có 15 tỉnh phía Bắc và 21 tỉnh
phía Nam. Thời điểm xuất hiện nhiều ổ dịch nhất là vào tháng 1/2005 với 143 ổ

dịch xảy ra trên 31 tỉnh/thành. Tổng số gia cầm tiêu hủy của đợt dịch này là
460320 con gà, hơn 825000 vịt ngan và 551000 chim cút đã chết và bị tiêu hủy.
(Báo cáo về dịch cúm gia cầm - Hội nghị dịch Cúm gia cầm)
Đợt dịch thứ 4: từ 01/10/2005 đến 5/2005
Từ đầu tháng 10/2005 đến 15/12/2005 dịch đã tái phát ở 285 phường/xã,
thị trấn thuộc 100 quận/huyện của 24 tỉnh/thành phố. Số gia cầm ốm, chết và
tiêu hủy là 3735620 con, trong đó có 1245282 con gà, 2005557 con vịt, 484781
chim cút, bồ câu, chim cảnh (Nguyễn Tuấn Anh, 2006).
Đây là đợt dịch có diễn biến khá phức tạp nên buộc các địa phương phải
áp dụng các biện pháp quyết liệt như diệt toàn bộ gia cầm thả rông, đóng cửa
rừng, đóng cửa các vườn chim, không nuôi gia cầm chim cảnh trong nội thành.
Với những biện pháp trên với mục đích là đến năm 2006 không còn dịch Cúm
gia cầm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành lệnh cấm ấp mới
thủy cầm đến hết tháng 2/2007.
Đợt dịch th ứ 5: từ ngày 06/12/2006 đến ngày 04/03/2007
Ở những tháng đầu của năm 2007 dịch bệnh đã xảy ra tại 83 xã/phường
thị trấn, 33 huyện/quận của 11 tỉnh/thành phố; nơi đầu tiên xảy ra dịch là Cà
Mau sau đó lan ra ở các vùng lân cận. Tổng số gia cầm bị bệnh là 99040 trong
đó có 11950 con gà, 87090 vịt và ngan. Sau thời gian trên dịch bệnh vẫn tiếp tục
diễn ra trên nhiều điạ phương khác. Và theo số liệu thống kê trong năm 2007
dịch bệnh đã xảy ra trên 283 phường/xã thuộc 115 huyện/quận của 33 tỉnh/thành
phố. Tổng số gia cầm mắc bệnh là 62207 con, số gia cầm chết và tiêu hủy là
314268 con.
Như vậy, so với các năm trước thì dịch bệnh đã có xu hướng giảm xuống
7
về phạm vi mắc bệnh cũng như số lượng mắc bệnh.
Dịch bệnh năm 2008
Đầu năm 2008 dịch cúm gia cầm mới chỉ xảy ra trên tỉnh Trà Vinh sau đó
dịch đã xảy ra trên các tỉnh khác như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Bình,
Hải Dương, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh và nhiều tỉnh khác. Trong năm 2008

dịch đã xảy ra trên 80 phường/xã thuộc 57 huyện/thị trấn của 27 tỉnh. Tổng số
gia cầm mắc bệnh là 13007 con và tổng số gia cầm tiêu hủy là 106058 con
(Phòng dịch tễ,’ Báo cáo tổng kết công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia
cầm năm 2009 và phương hướng năm 2010’, Cục thú y, trang 1 – 4).
Dịch bệnh năm 2009
Tính từ đầu năm 2009 đến ngày 22/12/2009 cả nước đã có 129 ổ dịch tại
71 xã/phường của 35 huyện/thị xã thuộc 17 tỉnh/thành phố phát dịch cúm gia
cầm là: Bạc Liêu, Bắc Ninh, Cà Mau, Điện Biên, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Khánh Hòa, Nghệ An và một số tỉnh khác. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và
tiêu huỷ là 105.601 con, trong đó gà 23733 con (chiếm 22,51 %), vịt 79138 con
(chiếm 74,94 %) và ngan 2690 con (chiếm 2,55 %). Trong năm 2009 dịch bệnh
đã diễn ra trên 72 xã/phường thuộc 18 huyện/thị trấn của 18 tỉnh. Tổng số gia
cầm mắc bệnh 68463 con, tổng số gia cầm chết và tiêu hủy là 105601 con
((Phòng dịch tễ,’ Báo cáo tổng kết công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia
cầm năm 2009 và phương hướng năm 2010’, Cục thú y, trang 1 – 4).
Qua những số liệu trên ta thấy năm 2009 dịch bệnh đã giảm về phạm vi
(số phường, xã) tuy nhiên số lượng gia cầm chết và tiêu hủy năm 2009 tương
đương năm 2008 và bằng 1/3 so với năm 2007. Tình hình dịch cúm gia cầm
trong 3 năm 2007, 2008, 2009 được thể hiện ở bảng 2.2.
8
Bảng 2.2. Tình hình dịch cúm gia cầm trong 3 năm (2007 – 2009)
Giai đoạn Số tỉnh
Số huyện
có dịch
Số
xã/phường
có dịch
Số gia cầm
mắc bệnh
(con)

Số gia cầm chết,
tiêu hủy (con)
Năm 2007 33 115 283 69207 314268
Năm 2008 27 54 80 13007 106058
Năm 2009 18 36 72 68463 105601
Dịch bệnh năm 2010
Trong những tháng đầu năm 2010 dịch cúm gia cầm đã xảy ra ở nhiều tỉnh
trên toàn quốc. Dịch xảy ra đầu tiên ở Cà Mau, sau đó dịch lan ra ở một số
huyện ở Sóc Trăng. Tiếp đó dịch xảy ra ở Kon Tum, Quảng Trị, Nghệ An, Nam
Định, Khánh Hòa và một số tỉnh khác. Trong gian đó, ở vùng Bắc Trung Bộ
dịch xảy ra cũng khá phức tạp. Ở Hà Tĩnh dịch đã xảy ra ở huyện Cẩm Xuyên,
Thành phố Hà Tĩnh, huyện Thạch Hà. Tổng số gia cầm ốm là 3527 con và tổng
số tiêu hủy là 5726 con. Dịch cũng đã xảy ra ở một số huyện ở tỉnh Nghệ An
như Huyện Nam Đàn, Huyện Nghi Lộc, Thành phố Vinh làm cho 370 con bị
ốm và 1139 con tiêu hủy. Ở Quảng Trị, dịch mới chỉ xảy ra ở huyện Triệu
Phong đã làm cho 495 gia cầm bị ốm và 1440 con gia cầm tiêu hủy.
Có thể nói rằng dịch cúm gia cầm ngày càng diễn ra phức tạp trên phạm vi
toàn quốc. Do vậy công tác phòng chống dịch ngày càng phải chặt chẽ hơn, ý
thức người dân cũng phải nâng cao hơn.
9
2.3. VIRUS HỌC BỆNH CÚM GIA CẦM TYPE A
2.3.1. Cấu trúc chung của virus cúm
Virus cúm gia cầm type A là thành viên của họ Orthomyxoviridae.
Virus có vỏ ngoài với bộ gen là ARN cực âm một sợi. Hạt virus (virion) có
dạng hình khối tròn, hình trứng hoặc hình khối kéo dài có đường kính 80 – 120
nm. Đôi khi virus có hình sợi kéo dài đến vài µm. Phân tử lượng của hạt virus
khoảng 4.6 – 6.4 Dalton. Virus được bọc bên ngoài bằng các Protein và có
màng Lipit ở ngoài cùng. Bề mặt ngoài phủ bằng hệ thống Protein bao gồm
Protein có phản ứng ngưng kết hồng cầu HA (hemagglutinin), Protein enzym
cắt thụ thể NA (neurominidase).

Hình 2.1. Cấu trúc bên ngoài của virus cúm gia cầm
Capsid bên ngoài nhân của virus được cấu tạo từ Protein, cấu trúc đối xứng
xoắn, độ dài 130 – 150 nm, đường kính 9 – 15 nm tạo thành giới hạn vòm của
mỗi phân đoạn và liên kết với nhau một cách riêng biệt.
Cùng với virus cúm A thuộc họ Orthromyxoviridae còn có 3 nhóm khác là:
Virus cúm type B chỉ gây bệnh cho người
Virus cúm type C chỉ gây bệnh cho người và lợn
Virus nhóm Thogovirus
10
2.3.2. Nét đặc trưng về cấu trúc hệ gen
Hệ gen của virus cúm chứa duy nhất axit ribonucleic (RNA) một sợi. Sợi
RNA có độ dài 10.000 – 15.000 nucleotide tùy loại virus, chúng không được nối
với nhau tạo thành một sợi RNA hoàn chỉnh mà được chia thành 7 – 8 phân
đọan, mỗi một phân đoạn chịu trách nhiệm mã hóa cho các Protein khác nhau.
Các phân đoạn 1, 2 và 3 là những phân đoạn mã hóa tổng hợp các enzyme
trong phức hợp polymerase (RNA transcriptase) của virus, có độ dài ổn định và
có tính bảo tồn cao, bao gồm:
- Phân đoạn 1 (gen PB2) có kích thước 2431 bp, mã hóa tổng hợp protein
enzyme PB2, là tiểu đơn vị thành phần trong phức hợp enzyme polymerase của
virus, chịu trách nhiệm khởi đầu phiên mã RNA virus. Protein PB2 có khối
lượng phân tử theo tính toán khoảng 84000

Dalton
- Phân đoạn 2 (gen PB1) cũng có kích thước 2431 bp, mã hóa tổng hợp
enzyme PB1 - tiểu đơn vị xúc tác của phức hợp enzym polymerase trong quá
trình tổng hợp RNA virus, chịu trách nhiệm gắn mũ RNA.
- Phân đoạn 3 (gen PA) có kích thước 2233 bp, là phân đoạn gen bảo tồn
cao, mã hóa tổng hợp protein enzyme PA có khối lượng phân tử theo tính toán
khoảng 83000


Dalton. PA là một tiểu đơn vị của polymerase chịu trách nhiệm
kéo dài sự phiên mã RNA trong quá trình tổng hợp RNA của virus.
Hình 2.2. Cấu trúc hệ gen của virus cúm type A
11
Các phân đoạn 4 và 6 mã hóa cho các protein (HA và NA) bề mặt capsid của
virus, có tính kháng nguyên đặc trưng theo từng chủng virus cúm A, bao gồm:
- Phân đoạn 4 (gen HA) có độ dài thay đổi tuỳ theo từng chủng virus
cúm A (ở A/H1N1 là 1778 bp, ở H9N1 là 1714 bp, ở H5N1 là khoảng 1704 -
1707 bp). Đây là gen chịu trách nhiệm mã hóa tổng hợp protein HA - kháng
nguyên bề mặt virus cúm, gồm hai tiểu phần là HA
1
và HA
2
. HA
1
nối với HA
2
bằng một số amino acid mang tính kiềm được mã hóa bởi một chuỗi
oligonucleotide, đó là điểm cắt của enzym protease, và đây là vùng quyết định
độc lực của virus.
- Phân đoạn 6 (gen NA) là một gen kháng nguyên của virus, có chiều dài
thay đổi theo từng chủng virus cúm A (ở A/H6N2 là 1413 bp, ở A/H5N1 thay
đổi khoảng từ 1350 - 1410 bp). Đây là gen mã hóa tổng hợp protein NA, kháng
nguyên bề mặt capsid của virus, có khối lượng phân tử theo tính toán khoảng
50000

Dalton. Các nghiên cứu phân tử gen NA của virus cúm cho thấy phần
đầu 5’- của gen này (hay phần tận cùng N của polypeptide NA) có tính biến đổi
cao và phức tạp giữa các chủng virus cúm A, sự thay đổi này liên quan đến quá
trình thích ứng và gây bệnh của virus cúm trên nhiều đối tượng vật chủ khác

nhau. Đặc trưng biến đổi của gen NA trong virus cúm A là hiện tượng đột biến
trượt - xóa một đoạn gen là 57 nucleotide, rồi sau đó là 60 nucleotide, làm cho
độ dài vốn có trước đây của NA(N1) là 1410 bp còn 1350 bp.
Các phân đoạn gen M, NP và NS mã hóa tổng hợp các protein chức năng
khác nhau của virus, có độ dài tương đối ổn định giữa các chủng virus cúm A,
bao gồm:
- Phân đoạn 5 (gen NP) kích thước khoảng 1556 bp, mã hóa tổng hợp
nucleoprotein (NP) - thành phần của phức hệ phiên mã, chịu trách nhiệm vận
chuyển RNA giữa nhân và bào tương tế bào chủ.
- Phân đoạn 7 (gen M) có kích thước khoảng 1027 bp, mã hóa cho
protein đệm (matrix protein - M) của virus (gồm hai tiểu phần là M1 và M2
12
được tạo ra bởi những khung đọc mở khác nhau của cùng một phân đoạn
RNA), cùng với HA và NA có khoảng 3000 phân tử MP trên bề mặt capsid của
virus cúm A, có mối quan hệ tương tác bề mặt với hemagglutinin. Protein M1 là
một protein nền, là thành phần chính của virus có chức năng bao bọc RNA tạo
nên phức hợp RNP và tham gia vào quá trình “nảy chồi” của virus. Protein M2
là chuỗi polypeptide bé, có khối lượng phân tử theo tính toán là 11000

Dalton,
là protein chuyển màng - kênh ion (ion channel) cần thiết cho khả năng lây
nhiễm của virus, chịu trách nhiệm “cởi áo” virus trình diện hệ gen ở bào tương
tế bào chủ trong quá trình xâm nhiễm trên vật chủ.
- Phân đoạn 8 (gen NS), là gen mã hóa protein không cấu trúc, có độ dài
ổn định nhất trong hệ gen của virus cúm A, kích thước khoảng 890 bp, mã hóa
tổng hợp hai protein là NS1 và NS2 (còn gọi là NEP, nuclear export protein), có
vai trò bảo vệ hệ gen của virus nếu thiếu chúng virus sinh ra sẽ bị thiểu năng.
NS1 có khối lượng phân tử theo tính toán là 27000

Dalton chịu trách nhiệm vận

chuyển RNA thông tin của virus từ nhân ra bào tương tế bào nhiễm, và tác động
lên các RNA vận chuyển cũng như các quá trình cắt và dịch mã của tế bào chủ.
NEP hay NS2, là gen hình thành từ hai đoạn gen (30 bp và 336 bp) mã hóa loại
protein có khối lượng phân tử theo tính toán khoảng 14000

Dalton đóng vai trò
vận chuyển các RNP của virus ra khỏi nhân.
Trong các đoạn trên, đoạn RNA có trọng lượng nhỏ nhất mang mật mã
cho 2 loại Protein không cấu trúc là NS1 và NS2, chúng dễ dàng tách được ở
các tế bào bị nhiễm. Tất cả 8 đoạn của sợi RNA có thể tách và phân biệt dễ
dàng qua phương pháp điện di.
2.3.3. Kháng nguyên của virus
Dựa trên yếu tố ngưng kết hồng cầu (Haemagglutinin viết tắt là H ) và
trung hòa (Neuraminidase viết tắt là N) là những kháng nguyên có vai trò trong
miễn dịch bảo hộ và có tính đa dạng cao mà virus Cúm type A được phân type.
Đến nay, có tất cả 16 loại gen H (H1 – H16) và 9 loại gen N (N1 – N9), mỗi
một hợp gen H và N tạo nên 1 biến chủng gây bệnh.
13
Haemagglutinin(HA) một đặc tính kháng nguyên quan trọng của virus
cúm là khả năng gây ngưng kết hồng cầu của nhiều loại động vật mà thực chất
là sự kết hợp giữa mấu lồi kháng nguyên HA trên bề mặt virus với thụ thể có
trên bề mặt hồng cầu làm cho hồng cầu ngưng kết lại với nhau tạo mạng ngưng
kết qua cầu nối virus. Từ đặc tính kháng nguyên này có thể sử dụng các phản
ứng ngưng kết hồng cầu HA và ngăn trở ngưng kết hồng cầu HI trong việc chẩn
đoán bệnh. HA là một loại kháng nguyên vừa quyết định tính kháng nguyên
vừa quyết định tính độc lực của virus Cúm type A.
Neuraminidase (NA) là một enzyme có bản chất là glycoprotein mang
tính kháng nguyên trên bề mặt virus cúm. Có 9 gen N nhưng trong đó chỉ có N1
và N2 có liên quan đến các vụ dịch ở người. Neuraminidase có tác dụng hỗ trợ
giải phóng virus ra khỏi tế bào vật chủ. Neuraminidase cắt liên kết giữa gốc

sialic acid tận cùng khỏi phân tử carbonhydrate của tế bào và virus, từ đó ngăn
cản quá trình kết hợp của virus và cho phép giải phóng các hạt virus ra khỏi tế
bào bị nhiễm.
Nguy hiểm nhất về kháng nguyên virus cúm type A là chúng có khả năng
tổ hợp biến chủng dẫn đến sự biến đổi liên tục về tính kháng nguyên. Chúng có
hai khả năng đột biến:
- Đột biến điểm (còn gọi là đột biến ngẫu nhiên hoặc hiện tượng trôi trượt,
lệch lạc về kháng nguyên – antigenic drift). Đây là kiểu đột biến xảy ra thường
xuyên, đặc biệt là đối với kháng nguyên H và kháng nguyên N tạo ra những thay
đổi nhỏ về trình tự Nucleotide của gen mã hóa cho kháng nguyên H và kháng
nguyên N. Nếu quá trình dập tắt dịch không triệt để, virus vẫn còn tồn tại thì hiện
tượng đột biến này sẽ xảy ra. Kết quả là sẽ tạo ra type Cúm hoàn toàn mới.
- Đột biến do tái tổ hợp di truyền (còn gọi là đột biến thay đổi bản chất
kháng nguyên – antigenic shift). Đột biến này là sự tái tổ hợp di truyền xảy ra
định kỳ trong đó có sự sắp xếp lại các Nucleotide do sự trộn lẫn 2 bộ gen của
virus khác nhau. Điều này đã tạo nên những sai khác cơ bản về bộ gen của virus
đời con so với đời bố mẹ.
14
Chính khả năng tổ hợp biến chủng này đã gây ra nhiều tai họa không chỉ
trên gia cầm mà còn trên con người. Năm 1918 ở Tây Ban Nha do biến chủng
H1N1 làm chết 20 – 40 triệu người, năm 1957 ở châu Á do chủng H2N2, năm
1968 dịch cúm ở Hồng Kông do H3N2, dịch cúm năm 1977 ở Nga do H1N1.
Hầu như tất cả các biến chủng virus cúm type A gây ra đều là sản phẩm tái tổ
hợp của subtype có nguồn gốc từ động vật trước hết là chim và gia cầm. Do
trên người có một số chủng virus gây bệnh cúm thông thường, nó sẽ là một
nhân tố trong quá trình trao đổi gen giữa virus cúm thông thường trên người và
virus cúm trên gia cầm tạo nên tổ hợp biến chủng mới. Và tổ hợp biến chủng
này sẽ thích ứng trên người nên chúng rất nguy hiểm cho nhân loại.
2.3.4. Độc lực của virus
Để đánh giá độc lực của virus cúm người ta sử dụng phương pháp gây

bệnh cho gà 3 – 6 tuần tuổi bằng cách tiêm tĩnh mạch 0,2ml nước trứng đã gây
nhiễm virus với tỉ lệ pha loãng 1/10, sau đó đánh giá mức độ nhiễm của gà để
cho điểm (chỉ số IVPI: Intravenous Pathogenicity Index). Điểm tối đa là 3 đó là
virus có độ độc lực cao nhất. Theo quy định của Ủy ban châu Âu. Bất cứ virus
Cúm nào có chỉ số IVPI từ 1,2 trở lên thuộc loại LPAI - độc lực cao.
Trong thực tế, virus cúm gây bệnh ở loài chim được phân chia theo tính
gây bệnh với 2 mức độ độc lực khác nhau: Loại độc lực cao (HPAI - Highly
pathogenic avian influenza), và loại độc lực thấp (LPAI - Low pathogenic avian
influenza), cả hai loại đều cùng tồn tại trong tự nhiên.
- HPAI: là loại virus cúm A có khả năng gây tổn thương nhiều cơ quan
nội tạng trong cơ thể nhiễm, trên gia cầm chúng thường gây chết 100% số
gia cầm bị nhiễm trong vòng 48h sau nhiễm. Loại này rất nguy hiểm gây lo
ngại cho cộng đồng. Virus loại HPAI phát triển tốt trên tế bào phôi gà và tế
bào thận chó trong môi trường nuôi cấy không có trypsin.
- LPAI: là loại virus khi phát triển trong cơ thể nhiễm, có thể gây bệnh
cúm nhẹ không có triệu chứng lâm sàng điển hình và không làm chết vật chủ.
15
Đây là loại virus lây truyền rộng rãi và tạo nên các ổ bệnh trong tự nhiên của
virus cúm A, loại này có thể trao đổi gen với các chủng virus có độc lực cao
đồng nhiễm trên cùng một tế bào, và trở thành loại virus HPAI nguy hiểm.
Cho đến nay, hầu như các vụ dịch lớn đều do virus HPAI gây ra thường
là virus có kháng nguyên H5, H7, H9. Riêng H5 và H7 thông thường bắt nguồn
từ virus độc lực thấp, sau quá trình lây truyền trên gà và chim cút độc lực tăng
lên rất nhanh và gây ra các vụ dịch lớn.
2.3.5. Cơ chế xâm nhập, nhân lên và gây bệnh của virus
Virus cúm A/H5N1 có tính thích ứng lây nhiễm cao với biểu mô
đường hô hấp, hơn nữa đây là loại virus sống kí sinh nội bào bắt buộc nên
quá trình xâm nhiễm và nhân lên chủ yếu xảy ra ở đường hô hấp.
Quá trình xâm nhiễm của virus cúm A được mở đầu bằng sự kết hợp của
HA và thụ thể thích ứng của nó trên bề mặt các tế bào này, và cuối cùng là giải

phóng hệ gen của virus vào trong bào tương của tế bào nhiễm (Hình 2.3).
Hình 2.3. Quá trình xâm nhập và nhân lên của virus trong tế bào vật chủ
16
- Quá trình nhân lên của RNA virus cúm A chỉ xảy ra trong nhân của tế
bào, đây là đặc điểm khác biệt so với các virus khác (quá trình này xảy ra trong
nguyên sinh chất), và cuối cùng là giải phóng các hạt virus ra khỏi tế bào nhiễm
nhờ vai trò của enzyme neuraminidase. Thời gian một chu trình xâm nhiễm và
giải phóng các hạt virus mới của virus cúm chỉ khoảng vài giờ (trung bình 6h).
Sự tạo thành các hạt virus mới không phá tan tế bào nhiễm, nhưng các tế bào
này bị rối loạn hệ thống tổng hợp các đại phân tử, và rơi vào quá trình chết theo
chương trình (apoptosis) làm tổn thương mô của cơ thể vật chủ.
- Sau khi được giải phóng vào trong bào tương tế bào nhiễm, hệ gen của virus
sử dụng bộ máy sinh học của tế bào tổng hợp các protein của virus và các RNA vận
chuyển phụ thuộc RNA (RNA-dependent RNA transcription). Phức hợp protein –
RNA của virus được vận chuyển vào trong nhân tế bào.
- Trong nhân tế bào các RNA hệ gen của virus tổng hợp nên các sợi
dương từ khuôn là sợi âm của hệ gen virus, từ các sợi dương này chúng tổng
hợp nên RNA hệ gen của virus mới nhờ RNA-polymerase. Các sợi này không
được Adenine hóa (gắn thêm các Adenine - gắn mũ) ở đầu 5’- và 3’-, chúng kết
hợp với nucleoprotein (NP) tạo thành phức hợp ribonucleoprotein (RNP) hoàn
chỉnh và được vận chuyển ra bào tương tế bào. Đồng thời, các RNA thông tin
của virus cũng sao chép nhờ hệ thống enzyme ở từng phân đoạn gen của virus,
và được enzyme PB2 gắn thêm 10 - 12 nucleotide Adenin ở đầu 5’-, sau đó
được vận chuyển ra bào tương và dịch mã tại lưới nội bào có hạt để tổng hợp
nên các protein của virus.
- Các phân tử NA và HA của virus sau khi tổng hợp được vận chuyển
gắn lên mặt ngoài của màng tế bào nhiễm nhờ bộ máy Golgi, gọi là hiện tượng
“nảy chồi” của virus. NP sau khi tổng hợp được vận chuyển trở lại nhân tế bào
để kết hợp với RNA thành RNP của virus. Sau cùng các RNP của virus được
hợp nhất với vùng “nảy chồi”, tạo thành các “chồi” virus gắn chặt vào màng tế

17
bào chủ bởi liên kết giữa HA với thụ thể chứa sialic acid. Các NA phân cắt các
liên kết này và giải phóng các hạt virus trưởng thành tiếp tục xâm nhiễm các tế
bào khác.
2.3.6. Sức đề kháng của virus
Virus cúm type A tương đối nhạy cảm với các hóa chất và các tác nhân
vật lí. Các hạt virus tồn tại thích hợp pH trong khoảng 6,5 – 7,9, ở pH quá kiềm
hay quá acid thì khả năng lây nhiễm của virus giảm. Lớp vỏ bên ngoài có bản
chất là lipid nên dễ bị phá hủy bởi các dung môi hòa tan lipid, các chất tẩy rửa
và các chất sát trùng: fomaldehyde, phenol, β- propiolacton, sodium
hypochloride, acid loãng và hydroxylamine.
Virus bất hoạt dưới ánh sáng trực tiếp sau 40h, tồn tại được 15 ngày ánh
sáng thường. Tia tử ngoại bất hoạt được virus mà không phá hủy được kháng
nguyên virus. Tuy nhiên, virus cúm A dễ bị tiêu diệt hoàn toàn ở 100
o
C và
60
o
C/30 phút. Trong phân gia cầm ở nhiệt độ thấp tồn tại ít nhất 3 tháng, trong
phủ tạng có thể tồn tại 24 – 39 ngày, nếu bảo quản ở nhiệt độ - 70
o
C thì có thể
tồn tại hàng năm.
2.4. TRUYỀN NHIỄM HỌC
2.4.1. Động vật cảm nhiễm
Tất cả các loại chim thuần dưỡng (gia cầm) hoặc hoang dã (đặc biệt là
loại thủy cầm di trú) đều mẫn cảm với virus cúm type A. Bệnh thường phát
hiện khi lây nhiễm cho gia cầm (gà, vịt, gà tây, chim cút). Phần lớn các loại
gia cầm non đều mẫn cảm với virus cúm type A. Ngoài ra, virus cúm type A
có thể gây bệnh cho các loài động vật có vú như lợn, ngựa, thú hoang dã và

cả con người.
Mỗi một loại kí chủ có vai trò khác nhau trong việc lưu trữ, phân tán và
lây bệnh. Có 3 loại kí chủ:
18
- Kí chủ lưu trữ hay mang mầm bệnh: đây là kí chủ thường nhiễm virus
nhưng không phát bệnh hoặc phát bệnh rất nhẹ hoặc con non mắc bệnh còn con
trưởng thành có thể tạo miễn dịch. Trong trường hợp này, các loại thủy cầm
được coi là kí chủ mắc bệnh tuy nhiên còn phụ thuộc vào độc lực của virus.
- Kí chủ hứng chịu: đây là loại kí chủ mẫn cảm với virus cúm và đào thải
virus ra môi trường ngoài. Loại kí chủ này khi bị nhiễm thường phát bệnh rất
nặng và các loại gà (gà, gà tây, gà lôi, đà điểu...) thường được coi là kí chủ
hứng chịu.
- Ký chủ lệch: là loại động vật hiếm khi bị nhiễm virus. Khi bị nhiễm
bệnh nặng thì không hoặc bài thải rất ít virus ra môi trường bên ngoài.
2.4.2. Sự truyền lây bệnh
Khi gia cầm bị nhiễm virus cúm, virus được nhân lên trong đường hô hấp
và đường tiêu hóa. Sự truyền lây bệnh được thực hiện theo hai phương thức
trực tiếp và gián tiếp.
- Lây trực tiếp do vật mẫn cảm tiếp xúc với con vật mắc bệnh thông qua
các hạt khí dung được bài tiết từ đường hô hấp hoặc qua phân, thức ăn, nước
uống bị nhiễm.
- Lây gián tiếp qua các hạt khí dung trong không khí với khoảng cách gần
hoặc những công cụ chứa virus do gia cầm mắc bệnh bài thải qua phân hoặc lây
qua chim thú, thức ăn, nước uống, lồng nhốt, quần áo, xe vận chuyển. Có thể
nói đây là phương thức lây truyền chủ yếu.
Như vậy virus cúm dễ lây truyền tới những vùng khác do con người,
phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi... Đối với các virus gây bệnh cúm
truyền nhiễm cao ở gia cầm thì sự lây truyền chủ yếu qua phân, đường miệng.
19
2.5. TRIỆU CHỨNG, BỆNH TÍCH

2.5.1. Triệu chứng
Thời gian nung bệnh từ vài giờ đến 3 ngày tùy thuộc vào số lượng, độc
lực của virus, đường nhiễm bệnh, loài cảm nhiễm virus gây bệnh. Một số
nghiên cứu cho thấy thời gian ủ bệnh trong nhiều trường hợp có thể dài hơn đến
7 ngày và lâu nhất là 14 ngày.
Biểu hiện triệu chứng lâm sàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chủng virus,
số lượng virus, loài nhiễm, tuổi, giới tính, điều kiện môi trường (nhiệt độ, ánh
sáng, thành phần không khí...) chế độ dinh dưỡng, tình trạng miễn dịch của vật
chủ trước khi nhiễm bệnh, sự bội nhiễm của VSV khác như: E.Coli, virus
Newcastle, virus gumboro...
Nhìn chung, khi mắc bệnh đàn gia cầm sẽ có triệu chứng:
 Toàn đàn suy sụp, ũ rủ, lông xù, xơ xác. Nếu nhiễm virus độc lực cao
thì gà chết đột ngột không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, tỷ lệ tử
vong cao có khi đạt đến 100% trong vài ngày.
 Có các biểu hiện về đường hô hấp thường xuất hiện đầu tiên và khá
điển hình như ho khẹc, hắt hơi, thở khò khè, vảy mỏ, chảy nhiều nước
mũi, nước mắt.
 Mi mắt bị viêm, mặt phù nề, sưng mọng và có chiều hướng lan xuống
cổ và ức do vậy gà bệnh có động tác vươn cổ ra để thở.
 Mào dày lên do thủy thũng, tím tía, có nhiều điểm xuất huyết. Thịt gà
bị bệnh thường thâm xám, dưới da vùng chân có điểm xuất huyết.
 Bên cạnh các triệu chứng về đường hô hấp, gia cầm bị bệnh còn có
triệu chứng thần kinh: đi lại không bình thường, run rẩy, mệt mỏi,
nằm lì bì tụ đống với nhau. Ngoài ra, gia cầm bị bệnh thường tiêu
chảy mạnh, phân loãng trắng xanh, sản lượng trứng giảm.
20
2.5.2. Bệnh tích
Bệnh tích bệnh cúm rất đa dạng. Nhìn chung sẽ có các bệnh tích đặc trưng:
 Mào, yếm sưng to, tím sẫm, phù mí mắt.
 Phù keo nhầy và xuất huyết cơ đùi (phần giáp đầu gối).

 Da chân xung huyết, đỏ sẫm.
 Dạ dày cơ xuất huyết, đôi khi xuất huyết dạ dày tuyến như ở Newcastle
 Niêm mạc khí quản, niêm mạc đường tiêu hóa viêm cata và viêm tơ huyết.
 Khí quản phù, chứa nhiều dịch nhầy. Dịch nhầy có thể đông đặc như
phomat.
 Các cơ quan nội tạng như màng bao tim, màng gan, màng ruột... viêm tơ
huyết.
 Ruột viêm cata và xuất huyết. Hạch ruột sưng.
 Lách, gan, thận, phổi sưng to, hoại tử màu vàng, màu xám.
 Mỡ vành tim xuất huyết. Với gà trống xuất huyết bên trong dịch hoàn.
 Gà mái đẻ viêm ống dẫn trứng, vỡ trứng non.
 Tuyến tụy xuất huyết và hoại tử. Tuyến tụy chuyển sang màu vàng có vết sẫm.
2.6. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN
Việc chẩn đoán cúm gia cầm do nhiễm virus cúm type A chủ yếu phải
phân lập và định danh virus kết hợp với chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm
sàng, bệnh tích đại thể, dịch tễ học và một số phản ứng huyết thanh.
2.6.1.Dựa vào dịch tễ.
• Bệnh cúm gia cầm có tính lây truyền nhanh và mạnh.
• Loài mắc bệnh thường là gia cầm và chim. Chim hoang dã là nguồn
truyền lây bệnh.
• Một số động vật có vú cũng có thể mắc bệnh: người, lợn, ngựa...
21
2.6.2. Dựa vào triệu chứng, bệnh tích
2.6.2.1. Dựa vào triệu chứng
• Gia cầm bị bệnh thường bị xù lông, ũ rũ, bỏ ăn, giảm đẻ.
• Đầu, mặt sưng, phù quanh mắt. Mào yếm sưng, xuất huyết.
• Mắt bị viêm kết mạc và có thể bị xuất huyết.
• Chân giữa vùng bàn và khuỷu bị xuất huyết.
• Có các triệu chứng ở đường hô hấp.
• Nếu virus có độc lực cao thì gà có thể chết nhanh, gà thường chết

trong vòng 24h – 48h sau khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên.
2.6.2.2. Bệnh tích
• Xuất huyết lan tràn ở các cơ quan nội tạng.
• Dưới da vùng đầu, cổ, ngực bị phù thũng.
• Miệng chứa nhiều dịch.
• Khí quản xuất huyết chứa nhiều dịch nhầy.
• Đường tiêu hóa xuất huyết.
• Gà đẻ buồng trứng xuất huyết hoặc bị viêm, có nhiều trứng non vỡ.
2.6.3. Phân lập và định danh virus
Đây là phương pháp chẩn đoán cơ bản có ý nghĩa quyết định.
Để phân lập virus thường sử dụng mẫu bệnh phẩm là phổi, khí quản,
não, lách. Sau khi xử lí bệnh phẩm ta tiêm vào phôi gà 9 – 11 ngày tuổi, ấp
37
o
C trong 7 ngày thì thu hoạch trứng. (Virus cũng có thể phân lập trên môi
trường tế bào).
Sau khi phân lập được virus từ môi trường tế bào hoặc trên phôi trứng thì
22
có thể giám định virus bằng các HI test để giám định subtyp H và N.
Gần đây, phương pháp real – time PCR (RT – PCR ) trực tiếp sử dụng
nguồn gen của virus cúm A và cúm A/H5N1 từ mẫu bệnh phẩm cũng được
đưa vào ứng dụng cho phép chẩn đoán chính xác, tin cậy cao và phân biệt sự
hiện diện của các chủng virus cúm A gây bệnh chỉ với một lượng nhỏ mẫu
bệnh phẩm.
Ngoài ra còn có các phương pháp chẩn đoán khác như: kỹ thuật ELISA,
kỹ thuật khuếch tán trên thạch, phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI)....
2.7. PHÒNG BỆNH
2.7.1 Phòng bệnh bằng vệ sinh
2.7.1.1. Các biện pháp vệ sinh tổng hợp
Do đặc điểm dịch tễ của bệnh cũng như đặc tính biến đổi kháng nguyên

bề mặt của virus khá phức tạp. Do vậy, để phòng bệnh và ngăn chặn bệnh xảy
ra thì các biện pháp vệ sinh thú y tổng hợp như: vệ sinh chuồng trại, khu vực
chăn nuôi, thiết bị cho ăn uống....phải được áp dụng định kỳ ở những vùng chưa
có dịch. Đối với những vùng nguy cơ có dịch, vùng có dịch thì phải được áp
dụng một cách thường xuyên và nghiêm ngặt.
2.7.1.2. Phòng bệnh đối với những địa phương chưa có dịch xảy ra hoặc nguy
cơ có dịch.
Trong thời gian xảy ra dịch ở các địa phương khác thì các trại chăn nuôi
gia cầm giống áp dụng các biện pháp an toàn sinh học nhằm ngăn cản mầm
bệnh đưa vào. Dụng cụ chăn nuôi, xe chuyên chở, dụng cụ bảo hộ lao động và
con người ra vào trại phải được vệ sinh, khử trùng. Thức ăn, nước uống, chất
độn chuồng phải đảm bảo không chứa mầm bệnh.
Trên các trục đường giao thông chính thành lập các chốt kiểm dịch tạm
thời nhằm ngăn chặn việc dịch chuyển gia cầm, sản phẩm gia cầm từ các địa
23
phương có dịch vào. Các phương tiện giao thông ra vào phải được tiêu độc.
Tăng cường kiểm tra, giám sát phát hiện bệnh và tiêu hủy tất cả gia cầm,
sản phẩm gia cầm có nguồn gốc từ các địa phương đang có dịch. Đồng thời tiến
hành tổ chức dập dịch nhanh chóng khi còn ở diện hẹp.
2.7.1.3. Khống chế dịch ở các địa phương đang có dịch xảy ra.
Là bệnh có tính lây lan nhanh, do vậy chúng ta cần tiến hành chẩn đoán
phát hiện bệnh một cách nhanh chóng và chính xác dựa trên triệu chứng, bệnh
tích điển hình. Đồng thời tiến hành lấy mẫu xét nghiệm.
Cúm gia cầm là một bệnh truyền nhiễm, do vậy sự bùng phát của bệnh
vẫn tuân theo những quy luật chung của quá trình sinh dịch. Do vậy khống chế
bệnh chính là tác động vào các khâu của quá trình sinh dịch nhằm phá vỡ vòng
truyền lây tác nhân gây bệnh, đó là 3 yếu tố: nguồn bệnh, động vật cảm thụ, yếu
tố truyền lây bệnh truyền nhiễm nói chung. Theo khuyến cáo của OIE thì đó là
các hoạt động:
• Loại trừ tác nhân gây bệnh: tiêu hủy gia cầm, sản phẩm gia cầm

nhiễm bệnh và tiến hành sát trùng, tiêu độc.
• Giảm tiếp xúc giữa tác nhân và vật chủ: sử dụng vacxin phòng bệnh,
tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng nhằm nâng cao sức đề kháng.
• Thay đổi môi trường sống: thực hiện các biện pháp an toàn sinh học,
ngăn chặn tác nhân gây bệnh xâm nhập vào môi trường bằng cách
cách ly triệt để toàn bộ khu vực có dịch.
Song song với những việc làm đó tiến hành tuyên truyền cho tất cả các
chủ vật nuôi gia cầm biết cách phát hiện và phòng bệnh cúm gia cầm.
2.7.2. Phòng bệnh bằng vacxin.
2.7.2.1. Các loại vacxin cúm đang được sử dụng.
24
Các chủng virus cường độc A/H5N1 sau năm 1996, qua thời gian tiến
hóa có xu hướng biến đổi nội gen nhằm tăng tính gây bệnh và thay đổi thành
phần nội gen kháng nguyên làm mất tương quan miễn dịch giữa chúng và các
chủng vacxin được tạo ra. Do vậy, vấn đề này phải được hết sức chú ý trong
chiến lược chế tạo vacxin.
Đối với bệnh truyền nhiễm, vacxin được coi là biện pháp có tính chiến
lược, nhằm ngăn chặn lây lan, tạo bảo hộ miễn dịch. Đối với dịch cúm
A/H5N1 ở gia cầm và dự phòng dịch cúm trên người, nghiên cứu phát triển
vacxin không những ngăn ngừa làm giảm được bệnh ở gia cầm, mà còn
khống chế nguồn truyền lây của loại virus nguy hiểm này sang người. Kháng
thể đặc hiệu có thể được cơ thể sinh ra do kích thích của kháng nguyên trong
vacxin, và đó là các kháng thể kháng HA, NA, MA và nhiều loại hình khác
của virus đương nhiễm, góp phần vô hiệu hóa virus cúm đúng đối tượng khi
chúng xâm nhập vào. Các vacxin phòng bệnh hiện nay dựa trên cơ sở hai loại
chính: vacxin truyền thống và vacxin thế hệ mới.
 Vacxin truyền thống.
Bao gồm vacxin vô hoạt đồng chủng và dị chủng.
Vacxin vô hoạt đồng chủng (homologous vaccine), đó là các loại
vacxin được sản xuất chứa cùng những chủng virus cúm gà giống như chủng

gây bệnh trên thực địa.
Vacxin vô hoạt dị chủng (heterologous vaccine) là vacxin sử dụng các
chủng virus có kháng nguyên HA giống chủng virus trên thực địa, nhưng có
kháng nguyên NA dị chủng.
 Vacxin thế hệ mới hay vacxin công nghệ gen: là loại vacxin được sản
xuất dựa trên sử dụng kỹ thuật gen loại bỏ các vùng “gen độc” đang
được nghiên cứu và đưa vào sử dụng phổ biến, bao gồm:
• Vacxin tái tổ hợp có vector đậu gia cầm dẫn truyền: sử dụng virus
25

×