Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Download Một số kiến thức về Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.18 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác
phẩm có giá trị lớn.Nếu như “Bình Ngơ đại cáo” của ơng mang đầy nhiệt huyết, lịng tự tơn dân tộc thì bài thơ
“Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.


Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hẻ” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường


Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”


Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua khơng cịn trọng dụng
tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh
của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa
quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Khơng chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả cịn cảm
nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng
chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi
vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với
những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “ lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể
hiện những điều trong lịng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như
muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy
phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống
hằng ngày.


Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ :
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng


Dân giàu đủ khắp địi phương”



Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo
lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân
dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho
nước. Chính vì vậy, ơng ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang
tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.


Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy
vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục : Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ
mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ cịn có hình ảnh
hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:


“ Đầu tường hoa lựu lập lịe đơm bơng”


Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt
huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ơng là một người vừa có tài,
vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ơng muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân
dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về
lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.


Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắp tâm hồn ta
từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trong đầm, gần gũi,
quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng, như cánh cị bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những
ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ, giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình n nơi thơn q, nỗi nhọc nhằn
cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao khang của những
con người quê chân chất, mộc mạc.


Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ xưa – đau khổ, cay đắng đến cùng cực
nhưng cũng đẹp đẽ, cao quý đến vơ ngần. Có thể nói, ca dao đã làm trịn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những


nỗi lịng của người phụ nữ bình dân xưa và mang đến cho ta cái nhìn tồn diện về họ, trong khổ đau cũng như
những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.


Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành mọi ưu
tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi
niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao than thân:


- “Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
- “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
- “Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân


Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”


Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì
dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi
khổ của thân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vật hoá”, được định giá theo giá
trị sử dụng. Thân phận họ chỉ được ví với “hạy mưa sa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của
người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp và phẩm giá đáng q
của mình. Họ ln ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nước trong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội ,
người đời biết đến và coi trọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất
hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc
Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thơi”.


Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi
nhục”. Qng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn


nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:


- “Cô kia cắt cỏ đồng màu


Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bày chia ba


Phận cơ là gái được là bao nhiêu”
- “Em như quả bí trên cây


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng”
đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:
- “Chiều chiều ra đứng bờ sơng


Muốn về với mẹ mà khơng có đị”
- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trơng về q mẹ ruột đau chín chiều”
- “Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”


Nhớ nhà nhớ mẹ mà khơng được về, những người đi làm dâu cịn phải chịu sự đày đoạ của gia đình nhà chồng, đặc
biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những người mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu
vì xã hội phog kiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người lànm
không cơng, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồng trước đây phải gánh chịu:


- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”
- “Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu


Đừng đem thử lửa mà đau lịng vàng”


Trong hồn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưng cũng có trường hợp, người con
dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cơ “đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị khơng
ít tiếng thị phi, cay độc vì trong xã hội xưa cịn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:


“Cơ kia đội nón đi đâu


Tơi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”


Sở dĩ họ phải phản kháng là do khơng cịn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đã vậy, lại cịn chịu thêm nỗi khổ
của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chun chỉ có một
chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng. Nhân dân hướng về những người vợ lẽ - những người chịu nhiều thua thiệt hơn
cả để cảm thông, để lắng nghe những tiếng giãi bày xót xa, cay đắng:


- “Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng


Chị cho manh chiếu, nằm khơng chuồng bị
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”
- “Thân em làm lẽ chẳng nề


Có như chính thất, ngồi lê giữa đường”



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:
- “Đói lịng ăn nắm lá sung


Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”
- “Chồng con là cái nợ nần


Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.


Nhưng dù sống trong bất hạnh, tâm hồn người phụ nữ vẫn sáng lên lấp lánh ánh sáng của trái tim đôn hậu, cao
thượng, vị tha. Từ trong khổ đau, bất hạnh, từ trong tiếng hát than thân đầy tủi cực, tâm hồn trung hậu, đẹp đẽ,
thuỷ chung của người phụ nữ vẫn vươn lên, toả sáng khiến cho tiếng hát than thân kia không mang vẻ bi luỵ mà vẫn
toả sáng, ấm áp tình đời, tình người. Ca dao đã phản ánh đầy đủ những vẻ đẹp đó của họ - những con người thuỷ
chung son sắt, giàu nghĩa tình.


Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây
sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:


- “Gió sao gió mát sau lưng


Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
- “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi


Như đứng đống lửa như ngồi đống than”


Có cơ gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ khơng q câu nệ như các cơ gái kh phịng:
“Ước gì sơng rộng một gang


Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”
Cũng có khi thật tế nhị, ý ứ, nết na:
“Sáng ngày tôi đi hái dâu



Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han


Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn


Làm thân con gái chớ ăn trầungười”


Họ biết đề cao tình yêu thương, lịng chung thuỷ:
- “Trăng trịn chỉ một đêm rằm


Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”
- “Muối ba năm muối đang cịn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay


Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”


Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút lạ
thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:


- “Chồng em áo rách em thương


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- “Râu tôm nấu với ruột bầu


Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”



Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ
trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hồn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình
đầm ấm yên vui.


Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là
sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những viên
ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.


Văn học, nghệ thuật ngày nay cũng rất chú ý đến việc lưu giữ những vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng những làn
điệu dân ca từ thuở sơ khai vẫn chính là kho tàng vơ giá lưu giữ trọn vẹn nhất về những con người kì lạ ấy: càng
trong đau khổ lại càng ngời sáng, thanh cao. Sẽ còn mãi lắng đọng trong tâm hồn những người dân đất Việt hình ảnh
những người phụ nữ sáng lấp lánh trong những câu ca dao tự ngàn xưa.


<b>I. Mở bài :</b>


- Nhắc đến Phạm Ngũ Lão,chúng ta liền nhớ đến người anh hùng xuất thân ở tầng lớp bình dân,ngồi đa sọt mà lo
việc nước.Về sau,chàng trai làng PHù Ủng ấy đã trở thành nhân vật lịch sử từng có cơng lớn trong kháng chiến chống
qn Nguyên-Mông,giữ địa vị cao ở đời Trần.


- Phạm Ngũ Lão là người văn võ song tồn.Văn thơ của ơng để lại khơng nhiều,nhưng Thuật hồi là bài thơ nổi tiếng
hừng hực hào khí Đơng A của lịch sử giai đoạn thế kỷ X đến XV.


<b>II. Thân bài :</b>


<b>2.1. Hoàn cảnh sáng tác :</b>


Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1282 quân Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành,nhưng thực ra định xâm
lược nước ta.Trước tình hình ấy,vua Trần mở hội nghị Bình Than bàn kế hoạch đánh giặc.Sau đó,Phạm Ngũ Lão và
một số vị tướng được cử lên biên ải phía Bắc đẻ trấn giữ đất nước.Hoàn cảnh lịch sử chắc chắn đã ảnh hưởng nhiều
đến hào khí trong bài thơ.



<b>2.2 Tựa đề:</b>


- Thuật có nghĩa là bầy tỏ , hồi là mang trong lịng .Thuật hoài nghĩa là bầy tỏ khát vọng , hoài bão. Đây là đề tài
quen thuộc trong thơ cổ. Điều đáng chú ý của baìo thơ này ở chỗ người tỏ lòng là một vị tướng đang giữ trọng trách
nặng nề nơi biên ải.


<b>2.3 Hai câu đầu:</b>


- Câu 1 khắc hoạ hình ảnh người tráng sĩ qua tư thế và hành động .Hồnh sóc nghĩa là cặp ngang ngọn giáo .Người
trai càm giáo đã mấy thu sẵn sàng bảo vệ non sông đất nước . Tư thế ấy lại đặt trong không gian kỳ vĩ của giang
san.Tất cả những chi tiết trên đã dựng lên bức chân dung oai phong lẫm liệt của người trai thời loạn.


- Câu 2 là hình ảnh ba quân.Ngày xưa ,quân lính thường chia làm ba đội gọi là tiền quân , trung quan ,hậu quan.Vì
thế , câu thơ nói đến ba quân là ca ngợi sức mạnh của toàn dân tộc . Tam qn tì hổ khí thơn Ngưu ,câu thơ có thể
hiểu theo hai cách.Khí thơn Ngưu là khí thế nuốt được cả con trâu (chú giải của sách giáo khoa),cũng có thể hiểu là
nuốt cả con ngưu.Cả hai cách hiểu đều nói đến khí thế mạnh mẽ của dân tộc . Đây là hình ảnh ước lệ quen thuộc
thường gặp trong thơ cổ nhưng đặt trong hồn cảnh sáng tác của tác phẩm ,hình ảnh này lại gợi lên những cảm xúc
chân thực vì phản ảnh hào khí của thời đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

của mình , về con người và thời đại của mình.Tác giả nói về chính mình vừa nói tiếng nói cho cả thế hệ.
<b>2.4 Hai câu sau:</b>


- Đến đây bài thơ mới bầy tỏ hoài bão của nhân vật trữ tình . Đó là lập cơng danh nam tử, tức là công danh của đấng
làm trai theo lý tưởng phong kiến .Người xưa quan niệm ,làm trai là phải có sự nghiệp và danh tiếng để lại mn
đời .Chí làm trai được coi là món nợ phải trả của đấng nam nhi .Phạm Ngũ Lão đã bầy tỏ khát vọng được đóng góp
cho đất nước , xứng đáng là kẻ làm trai .Khát vọng thật đẹp và cao cả.


- Nhưng thật bất ngờ , câu kết bài thơ lại là nỗi thẹn:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu



(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)


Vũ Hầu là Gia Cát Lượng , quân sư nổi tiếng đã giúp Lưu Bị khơi phục nhà Hán.Phạm Ngũ Lão thẹn vì thấy mình tài
giỏi như Vũ Hầu để lập công giúp nước . Đây là nỗi thẹn cao cả , cái thẹn làm nên nhân cách .Vì sao? Phạm Ngũ Lão
là người có cơng lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước , đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Ngun –
Mơng.Vậy mà ơng vẫn cịn cảm thấy mình vương nợ với đời , còn phải thẹn lhi nghe thuyết Vũ Hầu . Điều đó nói nên
khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.


- Nếu hai câu đầu của bài thơ khắc hoạ chân dung người trai Đại Việt với vẻ đẹp oai phong bao năm bền bỉ bảo vệ
đất nước thì hai cau sau bộc lộ chí lớn và cái tâm cao cả của người tráng sĩ.


<b>III. Kết luận:</b>


- Bài thơ súc tích , ít lời nhưng đã nói nên lí tưởng nhân sinh của kẻ làm trai: lập công danh không phải chỉ để vinh
thân vì phì gia,mà vì đan tộc ;khi đã có cơng danh , cịn phải phấn đấu vươn lên khơng ngừng.


- Bài thơ súc tích , lời ít , chi tiết có sức gợi , tiêu biểu quy luật kết tinh nghệ thuật của văn học trung đại
ST


BI KICH CUANGUOI PHU NU
1. Khi nói về số phận nàng Kiều, Nguyễn Du đau xót viết rằng:


Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung


Tư tưởng có vẻ thật bi quan, nhưng thực tế là như vậy. Dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, họ là
nạn nhân của một số tư tưởng phong kiến. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bi kịch số phận
của phụ nữ. Nưgời phụ nữ không được quyền quyết định số phận mình, khơng được học hành, họ phải chấp nhận sống phụ
thuộc. Cảm thông và thấu hiểu nỗi đau đớn của thân phận đàn bà trong xã hội cũ, các thi nhân xưa đã ghi lại những bi kịch ấy


qua số phận của một số người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Mỗi con nưgời một nỗi đau riêng nhưng nỗi đau chung nhất
vẫn là những bất hạnh trong cuộc sống tình duyên.


Phụ nữ vốn là những người nhạy cảm. Chỉ riêng điều ấy thôi cũng đủ để họ phải chịu nhiều bất hạnh hơn đàn ông. Mềm yếu, đa
sầu, đa cảm và cả đa đoan đã khiến người phụ nữ luôn rất nhạy cảm với những bất hạnh của mình dù họ sống trong xã hội nào.
Trong xã hội cũ, khi người đàn ơng có quyền được lấy “năm thê bảy thiếp”, thì những bất hạnh mà người phụ nữ phải ghánh chịu
lại càng lớn hơn. Người phụ nữ phải sống trong cảnh “Chồng chung đâu dễ ai nhường cho ai”, họ phải chịu những nỗi niềm cay
đắng xót xa. Những khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn luôn day dứt họ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hơng - người phụ nữ đầy bản lĩnh - đã
phải thốt lên đầy uất ức khi phải sống trong nỗi tủi hờn ấy:


“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cho cái kiếp lấy chồng chung”


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm


Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu thanh kí của Nguyễn Du và người cung nữ trong Cung oán ngâm cũng chịu chung nỗi đau như
thế. Nhưng tấm bi kịch của họ xót xa hơn nhiều. Nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn lại đa sầu đa cảm phải lấy lẽ người đàn ông họ
Phùng, nàng bị người vợ cả của chồng hành hạ đến phải chết trong cảnh cơ đơn. Cịn những ngời cung nữ vốn là những trang
quốc sắc thiên hương thì phải sống mỏi mịn trong cảnh cơ đơn buồn tủi vì bị vua chúa bỏ quên giữa chốn thâm cung. Họ đều là
nạn nhân của chế độ đa thê.


May mắn hơn nàng Tiểu Thanh và người cung nữ, người chinh phụ được sống những năm tháng hạnh phúc lứa đôi mặn nồng.
Nhưng bi kịch của nàng lại bắt đầu từ chiến tranh. Nàng tiễn chồng ra đi với mong muốn chồng lập công để lấy ấn phong hầu.
Người chinh phụ phải chờ chồng trong cảnh cô đơn. Phong hầu đâu chưa thấy, nàng phải chờ đợi mỏi mòn trong cơ độc, lặng lẽ
nhìn tuổi xn của mình trơi đi trong vô vọng. Niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi và sự cô đơn đã khiến người chinh phụ nhân ra
rằng ấn phong hầu, công danh là phù phiếm và vô nghĩa. Trong cảnh cô đơn, người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng
Trần Côn cũng có tâm trạng giống như người chinh phụ trong Khuê oán của ]Vương Xương Linh:


“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc


Hối giao phu tế mịch phong hầu”
(Chợt thấy màu dương liễu đầu đường


Hối hận đã để chồng đi tòng quân để tìm kiếm ấn phong hầu)


Tấn bi kịch chung nhất của nàng Tiểu Thanh, người cung nữ và người chinh phụ cũng chính là bi kịch của đa số phụ nữ trong xã
hội cũ. Đó là tấn bi kịch hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn. Khi người phụ nữ khơnh được quyền quyết định hạnh phúc của mình
thì họ khơng thể có được hạnh phúc, nếu có thì cũng rất mong manh. Hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ phụ thuộc vào
sự may mắn mà thôi:


Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày


Bi kịch của nàng Tiểu Thanh là tấn bi kịch của phận lẽ mọn. Trong chế độ đa thê, ngời vợ cả có quyền hành hơn cả, nếu người
chồng nhu nhược, thì quyền sinh quyền sát sẽ thuộc về bà cả hoặc một người đàn bà ghê gớm nhất trong số các bà vợ. Và những
người vợ khác chỉ còn biết sống trong đắn cay tủi hờn. Nàng Tiểu Thanh tài sắc như thế nhưng đã chết yểu bởi sự hành hạ trong
ghen tuông của người vợ cả. Bi kịch thảm thương của nàng đã khiến bao người phải rơi nước mắt cùng Tố Như:


Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư


Những người phụ nữ như Tiểu Thanh thường nhạy cảm, đa sầu. Chồng chung đã khổ lại còn bị hành hạ thì cịn có bi kịch nào đau
đớn hơn. Và kể cả khi đã chết đi, những tâm sự tủi hờn gửi gắm trong những trang thơ văn cũng bị hành hạ, bị đốt bỏ. Bi kịch
của Tiểu Thanh là tấn bi kịch chung của nhiều người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ không được hởng trọn hạnh phúc lứa đơi mà cịn
phải sống trong cơ đơn ê chề nhục nhã.


Bi kịch của người cung nữ chốn thâm cung cũng vậy. Phải có tuổi trẻ, có nhan sắc họ mới được tuyển vào cung để hầu hạ nhà
vua. Vào chốn thâm cung, hàng ngàn cung tần mỹ nữ chỉ có duy nhất một người để ngóng trơng, đó là nhà vua. Họ phải sống
trong hi vọng, trong mỏi mòn chờ đợi. Nhưng tất cả đều rất mong manh. Có những người cung nữ cả đời bị chôn vùi trong chốn
thâm cung, cả cuộc đời khơng một lần được nhìn thấy mặt vua. Khi tóc đã ngả màu hoặc khi được về quê họ vẫn là một cơ gái. Có


người may mắn được một đơi lần nhà vua ngó ngàng tới thì cũng chẳng hơn gì. Sau đó lại là chuỗi ngày sống trong đau khổ,
trong mỏi mòn chờ đợi, để rồi bị những nỗi khao khát hạnh phúc vò xé cõi lòng. Sống cuộc đời cung nữ, không chỉ cô đơn, tủi hờn
mà họ còn phải tranh giành nhau bằng tiền, bằng thế lực và bằng thủ đoạn để có thể được gần vua. Khi bị thất sủng, trong chốn
thâm cung, họ chỉ cịn biết sống trong vơ vọng, sống trong cơ độc, buồn tủi. Thật chua xót khi người con gái trẻ tuổi tràn đầy sức
sống và khát vọng ngày nào nay đã trở thành ngời phụ nữ cô độc, để rồi họ phải cất lên lời than đầy uất ức:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Bi kịch của người cung nữ đã chứng tỏ rằng chế độ cung tần là nơi thể hiện rõ nhất bản chất vô nhân đạo của chế độ phong kiến.
Chế độ ấy đã cướp đi của người phụ nữ quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của một con người bình thường. Chốn thâm
cung là nấm mồ chôn sống bao người con gái tài sắc. Đó cũng là bãi chiến địa của những người đàn bà. Họ tranh giành, ghanh
đua để có được một chút hạnh phúc, một chút quan tâm của người chồng chung quyền quý.


Người cung nữ mỏi mòn trong cơ độc vì phận cung nữ chốn thâm cung cịn người chinh phụ lại mỏi mịn trơng đợi ngời chồng đi
chiến trận. Mong chồng mang ấn phong hầu trở về để rạng danh dịng họ nhưng sự trơng đợi của họ là vô vọng. Người chinh phụ
cô độc trong sự mỏi mòn. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đơi đã giày vị nàng. Bi kịch của nàg chính là nỗi cô đơn. Người chinh
phu ra đi không hẹn ngày trở lại. Những cuộc chiến tranh phong kiến đã cướp đi của nàng hạnh phúc và tuổi trẻ.


Mỗi người phụ nữ một số phận khác nhau những họ đều rơi vào bi kịch. Bi kịch chung nhất của họ là hạnh phúc lứa đôi bị dang
dở. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự dang dở ấy chính là tính chất phi nhân đạo của chế độ phong kiến. Đó là chế độ năm thê bảy
thiếp, là chiến tranh phi nghĩa, là mộng công hầu. Các thi nhân xưa với niềm cảm thơng sâu sắc của mình đã cất lên tiếng nói địi
quyền sống, quyền được hạnh phúc cho những người phụ nữ. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đơi là niềm khát khao chính đáng
của người phụ nữ nói riêng và của con người nói chung.


</div>

<!--links-->

×