Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.17 KB, 24 trang )

Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh
tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
I - Sự tồn tại khách quan của lĩnh vực kinh tế ngoài
quốc doanh
1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Đổi mới và cải tổ là xu thế chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Từ
đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với nhịp độ tăng trởng từ 2 đến 3%/năm, kinh tế
thế giới đi vào thời kỳ trì trệ. Để tìm ra lối thoát cho nền kinh tế, mỗi quốc gia có
những chiến lợc và sách lợc riêng, nhng nhìn chung đều sử dụng 3 phơng pháp vĩ
mô chủ yếu, đó là:
1- Đổi mới cơ cấu kinh tế.
2- Vận dụng tiến bộ của khoa học công nghệ.
3- Tham gia vào phân công lao động quốc tế.
ở Việt Nam, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khẳng
định đờng lối chính cho phát triển kinh tế - đổi mới cơ cấu kinh tế, cụ thể là:
"Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý vĩ mô của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa". Đờng lối
này tiếp tục đợc khẳng định và làm rõ thêm ở các Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII
và IX. Cho đến nay, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam bao gồm các thành phần
kinh tế sau: kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể, kinh tế t bản t nhân, kinh tế hộ gia
đình, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Các thành phần kinh tế
này đợc chia thành 2 khu vực lớn: khu vực kinh tế nhà nớc và khu vực kinh tế
ngoài nhà nớc (ngoài quốc doanh, t nhân). Khu vực kinh tế nhà nớc bao gồm toàn
bộ các hoạt động kinh tế do nhà nớc trực tiếp quản lý từ trung ơng tới địa phơng.
Đây đợc coi là thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh (NQD) bao gồm các thành phần kinh tế còn lại, hoạt động bên
cạnh các doanh nghiệp nhà nớc (DNNN) trong nền kinh tế thị trờng đã góp phần
quan trọng vào việc mở rộng giao lu hàng hoá khai thác đợc tiềm năng sẵn có của
các vùng trong cả nớc, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
1.1. Đặc điểm hình thức tổ chức
Khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam bao gồm nông dân, doanh nghiệp hộ gia


đình, các doanh nghiệp t nhân vừa và nhỏ (SMEs) và các doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài tơng đối lớn, tổ chức theo các loại hình: doanh nghiệp t nhân, hợp tác
xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Năm
2000, cả nớc có 9793878 hộ kinh doanh cá thể. Trong đó, hộ kinh doanh phi nông
nghiệp chiếm 21,83%, kinh doanh nông nghiệp chiếm 78,17%. Số lợng doanh
nghiệp t nhân tăng rất nhanh, đặc biệt là từ khi thực hiện luật Doanh nghiệp. Tính
đến 31/12/2001, trên địa bàn cả nớc có 66780 DĐN ăng ký kinh doanh. Trong đó,
DN t nhân chiếm 58,76%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%,công ty cổ
phần chiếm 2,55%, công ty hợp danh chiếm 0.01% (Theo Bộ Kế hoạch và đầu t)
Nh vậy các chủ thể kinh tế thuộc khu vực NQD đợc tổ chức và hoạt động
theo sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp năm 1999, luật hợp tác xã và luật đầu t
nớc ngoài tại Việt Nam, luật khuyến khích đầu t trong nớc.
1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh
Khu vực kinh tế t nhân - NQD hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân trừ một số lĩnh vực độc quyền nhà nớc: an ninh quốc phòng,
quản lý nhà nớc. Ngoài ra theo nguồn số liệu niên giám thống kê 2001 thì cha có
chủ thể kinh tế thuộc khu vực kinh tế t nhân tham gia vào lĩnh vực khoa học công
nghệ, một số ít tham gia vào hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Phần lớn các thành
phần kinh tế thuộc khu vực NQD hoạt động ở các ngành thuộc khu vực I (nông -
lâm - thuỷ sản) và khu vực III (kinh doanh dịch vụ) là những ngành nghề có tốc
độ quay vòng vốn tơng đối nhanh và để sinh lời. Qua thực tế thống kê 33720
doanh nghiệp năm 2000, số doanh nghiệp kinh doanh thơng mại, dịch vụ chiếm
tỷ lệ lớn nhất 51,9%, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm 20,8%, xây dựng
chiếm 8,35%,giao thông vận tải chiếm 2,5%, các hoạt động phi nông nghiệp khác
chiếm 4,1%, lâm ngh nghiệp chiếm 12,4% trong tổng số doanh nghiệp.
Hiện nay khu vực kinh tế t nhân tạo ra gần một nửa GDP (Gross domestic
products) trong các ngành chế tạo, song tỷ trọng này đang ngày càng gia tăng và
khu vực t nhân trong nớc đang chiếm tỷ trọng chi phối. Các doanh nghiệp gia đình
và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) chiếm 28% GDP của các ngành chế tạo
(nguồn: Ngân hàng Thế giới).

Một đặc điểm nổi bật của khu vực kinh tế NQD là các SMEs và các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài hoạt động trong ngành chế tạo, đặc biệt là các
doanh nghiệp có quy mô tơng đối lớn, hoạt động theo định hớng xuất khẩu cao.
Theo kết quả điều tra 457 doanh nghiệp t nhân với hơn 100 công nhân làm việc
chính thức, hoạt động trong các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nh may mặc,
giầy dép, nhựa, chế biến thuỷ hải sản đợc thực hiện bởi Chơng trình phát triển khu
vực Mêkông MPDF (Mekong programme developement fund)-1999 thì các doanh
nghiệp này xuất khẩu khoảng 3/4 sản lợng.
Bảng 1: Các doanh nghiệp chế tạo t nhân có đăng ký
và định hớng xuất khẩu
STT Ngành Số lợng doanh Xuất
nghiệp
khẩu/sản l-
ợng (%)
1
1.
Dệt may
159 80,5
2
2.
Sản phẩm da
34 85,5
3
3.
Sản phẩm cao su và nhựa
22 75,0
4
4.
Thực phẩm và đồ uống
(Bao gồm cả hải sản)

71 63,2
5
5.
Các sản phẩm gỗ
65 75,1
6
6.
Các sản phẩm phi kim loại khác
39 73,2
7
7.
Kim loại cơ bản
9 Không có
8
8.
Hoá chất
9 20,0
9
9.
Các sản phẩm khác
49 74,4
1
10.
Tổng số
457 75,3
Nguồn: số liệu của MDPF (1999) và ớc tính của WB
Còn về các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài xuất khẩu khoảng 1/2
tổng sản phẩm của mình. Có thể nói, khu vực t nhân hoạt động có định hớng xuất
khẩu cao hơn khu vực nhà nớc.
1.3. Đặc điểm tài chính

Trong khu vực kinh tế t nhân, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài, nguồn tài chính ban đầu chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia đình, bạn bè.
Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn đợc huy động phần lớn từ các nguồn: lợi
nhuận gửi lại, vay của ngời thân, vay của khu vực thị trờng tín dụng không chính
thức, chỉ một phần nhỏ đợc tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Nguyên Tổng Bí th Ban
chấp hành Trung ơng Đảng Đỗ Mời đã có lần đề cập vấn đề mà Việt Nam phải đối
mặt trong phát triển kinh tế bằng 3 chữ: Vốn, vốn và vốn". Các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam cũng có chung quan điểm, họ cho rằng
trở ngại lớn nhất đó là vấn đề: "Tín dụng, tín dụng và tín dụng". Việc tiếp cận
nguồn tín dụng ngân hàng là rất khó khăn đối với khu vực kinh tế NQD, đặc biệt
là nguồn tín dụng trung dài hạn. Nguyên nhân chính là do các thể chế chính sách
liên quan đến vấn đề vốn nh: chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất
hoặc tài sản để vay vốn cha đợc hoàn chỉnh. Có thể nói vốn đang là vấn đề khó
khăn nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD trong việc
phát triển hơn nữa.
2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD
2.1. Phát triển khu vực kinh tế NQD giúp khai thác tối đa nguồn lực
đang có của đất nớc cho sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và tạo thêm
việc làm cho ngời dân.
Sự phát triển của khu vực kinh tế NQD trong thời gian vừa qua là kết quả
thực hiện đòng lối Đổi mới của Đảng và Nhà nớc, qua đó khơi dậy và khai thác
tiềm năng to lớn về tiền vốn, sức lao động, tài nguyên và các nguồn lực khác vào
phát triển kinh tế đất nớc. Các nguồn lực bên trong đóng vai trò chủ yếu nhng có
môt phần nguồn lực đợc thu hút từ bên ngoài (vốn, thị trờng,...). Trong nhng năm
qua, khu vực này đã đóng góp vào tổng số vốn đầu t toàn xã hội với một tỷ lệ tơng
đối lớn (năm 1998: 46%, năm 1999: 38,4%, năm 2000: 38,1% - Niên giám thống
kê 2001). Vốn sử dụng, vốn đầu t phát triểnvà vốn đăng ký kinh doanh (đối với
các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh) đều tăng.
Đóng góp nổi trội của kinh tế NQD trong thời gian qua là tạo thêm việc
làm, góp phần quan trọng thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là số đến tuổi

lao động cha có việc làm, giải quyết số dôi d từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà n-
ớc do tinh giảm biên chế, giải thể. Với đặc thù phần lớn là đầu t vào các ngành
nghề sử dụng nhiều lao động, khả năng thu hút lao động, tạo việc làm của khu vực
này là rất lớn. Tính theo tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu t thì kinh tế cá thể thu
hút 165 lao động/tỷ đồng vốn, doanh nghiệp t nhân thu hút 20 lao động/tỷ đồng
vốn, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài thu hút 1,7 lao động/tỷ đồng vốn, trong
khi đó DNNN chỉ thu hút khoảng 11,5 lao động/tỷ đồng vốn. Thực tế năm 2000,
lao động của khu vực kinh tế NQD chiếm 56,3 % lao động có việc làm thờng
xuyên trong cả nớc. Trong đó, lao động của hộ kinh doanh cá thể (chủ yếu là hộ
nông nghiệp ngoài hợp tác xã) chiếm số lợng lớn, lao động trong doanh nghiệp
(đặc biệt là phi nông nghiệp) có số lợng nhỏ nhng tăng nhanh (năm 2000 tăng
20,12% so với năm 1996, bình quân tăng 4,75%/năm). Tính riêng các ngành phi
nông nghiệp, kinh tế t nhân đã thu hút số lao động gấp 6,6 lần so với khu vực nhà
nớc (từ năm 1997 đến năm 2000).
Khai thác nguồn lực của đất nớc, tạo việc làm cho ngời lao động và hơn thế
nữa, đóng góp của khu vực NQD vào ngân sách nhà nớc và GDP là một minh
chứng cụ thể cho vai trò của khu vực này với sự phát triển kinh tế. Năm 2000,
kinh tế t nhân nộp ngân sách đợc 11,003 tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng thu Ngân
sách, năm 2001 là 11,075 tỷ đồng (tăng 0,65%, chiếm 14,8% tổng thu Ngân
sách). Bên cạnh đó, tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực này ngày càng cao. Bảng
2 sẽ cho thấy rõ điều đó.
Bảng 2: Cơ cấu GDP theo giá hiện hành phân
theo thành phần kinh tế (%)
STT Năm 1998 1999 2000
I
I.
Kinh tế nhà nớc
40 38,74 38,98
I
II.

Kinh tế NQD
60 61,26 61,02
1
1.
Kinh tế tập thể
8,9 8,84 8,53
2
2.
Kinh tế t nhân
3,41 3,37 3,3
3
3.
Kinh tế hộ gia đình
33,83 32,93 32,03
4
4.
Kinh tế hỗn hợp
3,83 3,89 3,9
5
5.
Kinh tế có vốn đầu t NN
10,03 12,24 13,25
Nguồn niên giám thống kê 2001
2.2. Phát triển khu vực kinh tế NQD sẽ thức đẩy mọi thành viên trong
nền kinh tế nỗ lực bỏ sức, bỏ vốn, nhạy bén, năng động trong việc khai thác
mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu của mình và đóng góp cho xã
hội.
Tác động tích cực này không chỉ đối với những ngời lao động trong khu
vực NQD mà còn có tác động tới các chủ thể kinh tế nhà nớc. Trớc đây, trong cơ
chế cũ, các doanh nghiệp nhà nớc độc quyền cung cấp mọi hàng hoá dịch vụ, đợc

nhà nớc bao cấp toàn bộ nên hoạt động trì trệ, bảo thủ. Ngày nay, gặp phải sự
cạnh tranh to lớn của khu vực kinh tế NQD, căn bệnh ỷ lại của các DNNN đã
giảm đi rõ rệt và làm ăn có hiệu quả hơn.
2.3. Phát triển khu vực kinh tế NQD sẽ góp phần nâng cao chất lợng
lực lợng lao động trong xã hội.
Những cơ sở kinh doanh của khu vực kinh tế NQD thực tế đã đào tạo một
đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp năng động, nhạy bén, dám nghĩ dám
làm, sẵn sàng chịu mọi thử thách của thị trờng. Hơn nữa, thu hút nguồn đầu t trực
tiếp nớc ngoài (FDI) đã giúp ngời lao động Việt Nam tiếp cận và học tập đợc ph-
ơng thức làm và quản lý hiện đại của các quốc gia tiên tiến.
2.4. Phát triển kinh tế NQD tạo động lực hoàn thiện bộ máy quản lý
nhà nớc và hệ thống pháp luật.
Sự phát triển ngày càng cao của khu vực kinh tế NQD đã cho thấy sự thiếu
đồng bộ, không hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật và những bất cập về quản lý
nhà nớc về kinh tế, đòi hỏi phải đợc hoàn chỉnh, chuyển đổi và thích nghi. Và
thực tế trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh
tế đã dần đợc hoàn chỉnh phù hợp với cơ chế thị trờng và đảm bảo định hớng
XHCN. Cơ chế quản lý từng bớc đợc đổi mới, mà cụ thể là thông qua cải cách
hành chính thì cơ chế "Một cửa, một dấu" đã đợc thực hiện tạo điều kiện cho khu
vực kinh tế NQD.
Trên đây là những vai trò cơ bản của khu vực kinh tế NQD đối với nền kinh
tế và toàn xã hội. Trong tơng lai, với đờng lối chính sách tiếp tục đợc hoàn thiện,
khu vực này sẽ còn phát huy hơn nữa vai trò của nó trong sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân.
3. Những trở lực trong hoạt động của khu vực kinh tế NQD
hiện nay
Đánh giá một cách khách quan thì kinh tế NQD ở Việt Nam cha phát huy
hết tiềm lực của nó. Nguyên nhân của tình trạng trên là do vẫn tồn tại một số trở
lực trong hoạt động của các doanh nghiệp này.
3.1. Về thái độ xã hội và bộ máy hành chính

Trong một thời gian dài, chúng ta chỉ coi trọng kinh tế nhà nớc và kinh tế
tập thể, cha chú trọng và thậm chí có những thành kiến với kinh tế t nhân, dẫn đến
đánh giá thấp những ngời tham gia vào khu vực này. Từ thái độ tiêu cực trong
nhận thức dẫn đến thái độ đối xử không đúng với thành phần kinh tế t nhân. Từ
thái độ kỳ thị xã hội dẫn đến thành kiến của bộ máy hành chính. Do đó, nó đã ảnh
hởng không nhỏ đến quyết định của mỗi cá nhân đối với việc tham gia vào khu
vực kinh tế này và cản trở những ai đã tham gia trong việc phát huy hết mọi khả
năng của họ.
3.2. Về khuôn khổ điều tiết dựa vào các quy định của luật pháp
Nhiều vấn đề bất cập trong lĩnh vực này làm ảnh hởng đến sự phát triển,
tính năng động của kinh tế t nhân. Đó là:
Những quy định thờng chung chung, thiếu cụ thể và luôn thay đổi khiến
các doanh nghiệp rất khó thực hiện và là chỗ dựa để các cơ quan chức năng gây
khó dễ cho các doanh nghiệp.
Những thủ tục hành chính phức tạp và quá nhiều quy định (Vài năm trớc
đây, một doanh nghiệp muốn thành lập đợc phải trải qua quá nhiều khâu, nhiều b-
ớc). Hơn nữa những quy định này nhiều khi không nhất quán với luật. Điều này
gây phiền phức và thiệt hại cho các doanh nghiệp.
Có đến 05 bộ luật khác nhau áp dụng cho từng loại doanh nghiệp: Luật
DNNN áp dụng cho các DNNN, Luật Doanh nghiệp áp dụng cho doanh nghiệp t
nhân và hộ gia đình, Luật HTX áp dụng cho loại hình kinh tế tập thể, Luật Đầu t
nớc ngoài áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, Luật Khuyến khích
đầu t trong nớc áp dụng cho các nhà đầu t trong nớc. Đây cũng là biểu hiện cho
một sân chơi cha bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng trong bộ máy quản lý cũng là cản trở lớn
đối với các thành phần kinh tế thuộc kinh tế NQD.
3.3. Về quản trị doanh nghiệp
Tình trạng tổ chức thiếu rõ ràng khiến không có sự rạch ròi giữa chủ sở hữu
và ngời quản lý, cha có hệ thống tài khoản kế toán thích hợp là phổ biến ở khu vực
kinh tế NQD. Ngoài ra, đội ngũ quản trị doanh nghiệp ở khu vực này cũng còn

nhiều yếu kém, bất cập. Điều này cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế NQD.
3.4. Tín dụng - tín dụng và tín dụng
Đây là trở lực lớn nhất trên con đờng phát triển của khu vực kinh tế NQD,
thậm chí nó trở hành đặc thù của khu vực (ở phần 2 đã đề cập). Theo điều tra của
Chơng trình phát triển khu vực Mêkông (MPDF) của Ngân hàng Thế giới (WB)
thì chỉ có 15% tổng số doanh nghiệp cần vốn bổ sung có vay đợc ngân hàng. Quy
mô khoản vay dao động từ 5 triệu đồng đến 14 tỷ đồng (mức trung bình là 837
triệu đồng). 59% số doanh nghiệp cho rằng khó khăn là do không có tài sản thế
chấp (TSTC). Các doanh nghiệp cho rằng nguyên nhân của việc khó tiếp cận với
nguồn tín dụng ngân hàng là: Ngân hàng đòi hỏi nhiều giấy tờ làm cho quá trình
thẩm định kéo dài. Dẫn đến chi phí giao dịch, chi phí cơ hội tăng. Kết quả là lãi
suất ngân hàng lớn hơn lãi suất thị trờng tự do.
Tài sản thờng bị ngân hàng định giá thấp.
Ngân hàng từ chối bảo lãnh đấu thầu cho hợp đồng lớn.
ít vốn trung và dài hạn.
Rõ ràng đây cũng là vấn đề đòi hỏi các ngân hàng thơng mại quan tâm và
tìm ra giải pháp.
Trên đây là những trở ngại lớn cho các thành phần kinh tế thuộc khu vực
NQD phát triển hơn nữa. Nếu những khó khăn này đợc giải quyết triệt để thì khu
vực kinh tế NQD sẽ phát huy vai trò rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá
(CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nớc.
4. Định hớng phát triển khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam
Đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là vấn
đề có tính quy luật đòi hỏi phải tôn trọng trong thời kỳ quá độ. Tiếc rằng trớc đây
trong quá trình cải tạo, do t tởng nôn nóng đi lên CNXH và quan trọng hơn là cha
hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta đã hành động phi quy luật,
vận dụng dập khuôn máy móc mô hình của ngời khác. Chính vì thế trong một thời
gian dài, kinh tế NQD bị coi là phi XHCN, bị ép buộc cải tạo, kết quả là, kinh tế
quốc doanh phát triển tràn lan kém hiệu quả, kinh tế NQD bị kìm hãm. Nền kinh
tế tuy đạt đợc tốc độ tăng trởng song lại dựa trên bội chi ngân sách, vay nợ và lạm

phát. Lực lợng sản xuất xã hội không đợc giải phóng, nền kinh tế đi vào khủng
hoảng, tụt hậu. Chỉ đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), với sự đổi mới
t duy, từ tổng kết thực tiễn đổi mới đó, tháng 8 năm 1986 Bộ Chính trị khẳng định:
"Thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá và một bộ
phận kinh tế t bản t nhân ở mức độ nhất định trong một thời gian tơng đối dài,
coi đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lợng sản xuất". Và cho đến
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, quan điểm này đã đợc khẳng định một cách rõ
ràng và toàn diện, đó là: ...Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế Nhà nớc cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
Quốc dân..., kinh tế cá thể tiểu chủ ...đợc Nhà nớc tạo diều kiện và giúp đỡ
phát triển..., kinh tế t bản t nhân ...đợc khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm..., ...tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài phát triển. Đây chính là cở sở
và định hớng vững chắc và lâu dài cho khu vực kinh tế NQD tiếp tục phát triển.
Thực tế, trong những năm qua, khu vực này đã phát triển rộng khắp cả về
số lợng và qui mô vốn. Năm 2000, vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp
tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1996, vốn đầu t của hộ kinh doanh và doanh
nghiệp tăng 13% so với năm 1999. Về các dự án đầu t của nớc ngoài, tính đến
26/12/2000, trên cả nớc có 460 dự án đầu t nớc ngoài đợc cấp giấy phép với tổng
số vốn đăng ký đạt 2,436 tỷ USD, tăng 22,6% về vốn và 26% về số dự án so với
năm 2000.
Mặt khác, trong sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế Việt Nam không thể
thiếu các cơ sở kinh doanh ngoài quốc doanh. Các ngành công nghiệp nhẹ sử
dụng nhiều lao động chính là lợi thế so sánh của Việt Nam. Với lợi thế này, rất
nhiều nớc Đông á đã thu đợc thành tựu rực rỡ và tạo nên cái gọi là "Điều kỳ diệu
Đông á". Để nối tiếp thành công của các nớc trong khu vực, Việt Nam cần phải đi
theo hớng mở hay chiến lợc CNH định hớng xuất khẩu. Và nh vậy, khu vực kinh

tế NQD với phần lớn là các SMEs hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao
động và các công ty liên doanh tận dụng đợc khoa học công nghệ tiên tiến đóng
vai trò to lớn.
Nh vậy, trong tơng lai, sự phát triển của khu vực NQD là rất lớn. Điều này
có đợc là do những định hớng mang tính chiến lựơc của Đảng và Nhà nớc ta cũng
nh yêu cầu thực tế khách quan của nền kinh tế về sự phát triển của khu vực kinh tế
ngoài Nhà nớc
II- Tín dụng ngân hàng - yếu tố quan trọng trong
phát triển khu vực kinh tế NQD
Trớc khi đề cập tín dụng ngân hàng ta tìm hiểu sơ qua về ngân hàng thơng
mại. Đề đa ra định nghĩa về ngân hàng thơng mại ngời ta thờng phải dựa vào tính
chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trờng tài chính và đôi khi còn kết hợp
mục đích, tính chất và đối tợng hoạt động.
Luật ngân hàng Pháp năm 1941 quy định: "Đợc coi là ngân hàng là những
xí nghiệp hoặc cơ sở nào hình thành nghề thờng xuyên nhận của công chúng dới
hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào
các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hoặc dịch vụ tài chính". Hay nh Luật ngân
hàng của ấn Độ năm 1950, đợc bổ sung năm 1959 nêu: "Ngân hàng là cơ sở
nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hoặc tài trợ đầu t".
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau song phân tích nội dung của các
định nghĩa đó ngời ta dễ dàng nhận ra ngân hàng thơng mại đều có chung một
tính chất đó là nhận tiền ký thác để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu
và các dịch vụ khác của ngân hàng hay có thể nói một cách ngắn gọn và tơng đối
là ngân hàng đi vay để cho vay.
ở Việt Nam, điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 quy định: "Tổ
chức tín dụng là doanh nghiệp đợc thành lập theo quy định của luật này và các
quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán". Từ định nghĩa chung, căn cứ vào tính chất và mục tiêu
hoạt động, luật còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng bao gồm: ngân hàng thơng mại,

ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu t, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác
và các ngân hàng khác.
Ngày nay, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trờng tài
chính ngày càng phát triển về số lợng và quy mô, đa dạng và phong phú, hoạt
động đan xen nhau. Ngời ta phân biệt ngân hàng thơng mại với các tổ chức môi
giới tài chính khác là ở chỗ ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi
không kỳ hạn. Tuy nhiên, nói đến ngân hàng thơng mại không thể không nhắc đến
hoạt động tín dụng, một trọng 3 nội dung chủ yếu của hoạt động ngân hàng. Theo
tổng kết từ các ngân hàng thơng mại (NHTM) thì 70 đến 80% trong tổng thu của
các NHTM Việt Nam là bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh tín dụng.
Vậy tín dụng là gì?
1. Tín dụng

×