Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vai trò của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền lợi ở việt nam hiện nay​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 110 trang )

ĐẠ
ƢỜ

ĐẠ







NGUYỄN THỊ THÚY

VAI TRÒ CỦ

ƢỚ Đ I VỚI VIỆC BẢO

ĐẢM QUYỀ

ƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬ

Ạ SĨ
ẾT HỌC

– 2020


ĐẠ
ƢỜ



ĐẠ







NGUYỄN THỊ THÚY

VAI TRÒ CỦ

ƢỚ Đ I VỚI VIỆC BẢO

ĐẢM QUYỀ

ƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬ

Ạ SĨ
ẾT HỌC
s

ƢỜ

ƢỚ
S


– 2020


rƣơng hị Thanh Quý


LỜ

Đ

Tơi xin cam đoản đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả trình bày trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có
thể, được các tác giả cho phép sử dụng. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có
xuất xứ rõ ràng. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu
của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 2020
Tác giả

Nguyễn Thị Thúy


LỜI CẢ

Ơ

Để hồn thành luận văn này, tơi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
nhiều tập thể, cá nhân trong và ngồi trường.
Trước tiên, tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trương Thị Thanh
Quý, đã luôn ủng hộ, động viên và tận tụy hướng dẫn tơi trong suốt q trình
thực hiện đề tài. Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo trong

khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đã tận tình giúp
đỡ và tạo điều kiện cho tơi trong suốt q trình học tập tại trường.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các bạn trong lớp Cao học khóa
2018 và gia đình đã quan tâm, tạo điều kiện, luôn bên cạnh động viên, đóng
góp những ý kiến q báu giúp tơi hồn thiện luận văn.
Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 2020
Tác giả

Nguyễn Thị Thúy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
hƣơng 1. VAI TRÒ CỦ
ƢỜI- M T S

ƢỚ

Đ I VỚI BẢ

ĐẢM QUYỀN

VẤ ĐỀ LÝ LUẬN ........................................... 12

1.1. Quyền con ngƣời và bảo đảm quyền con ngƣời .................................. 12
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người................14
1.1.2. Quan điểm của triết học phương Tây cận đại về quyền con người và
bảo đảm quyền con người .............................................................................. 23
1.1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người và bảo
đảm quyền con người ..................................................................................... 30

1.1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con người; bảo đảm
quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ..................................... 36
1.2. Vai trị của nhà nƣớc đ i với việc bảo đảm quyền con ngƣời trong
lĩnh vực kinh tế và văn hóa........................................................................... 39
1.2.1. Tầm quan trọng của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa. ................................................................. 39
1.2.2. Nội dung vai trò của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa .................................................................. 42
hƣơng . VAI TRỊ CỦ
QUYỀ

ƢỜ

ƢỚ


Đ I VỚI VIỆC BẢ

ỰC KINH TẾ

ĐẢM
Ó Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ..................... 62
2.1. Thực trạng vai trò của

hà nƣớc đ i với việc bảo đảm quyền con

ngƣời trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay ................. 62
2.1.1. Những thành tựu của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm

quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ..................................... 62
2.1.2. Những hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với bảo đảm quyền con
người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ....................................................... 77


2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.......................................................... 81
2.2.1. Nguyên nhân về nhận thức ................................................................. 81
2.2.2. Nguyên nhân về tổ chức thực hiện ..................................................... 83
2.3. Giải pháp phát huy vai trò của hà nƣớc đ i với bảo đảm quyền con
ngƣời trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay ................. 84
2.3.1. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước đối với bảo đảm
quyền con người trong lĩnh vực kinh tế ........................................................ 84
2.3.2. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước đối với bảo đảm
quyền con người trong lĩnh vực văn hóa ...................................................... 88
Kết luận .......................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người (Human Rights) là giá trị cao quý, là thành quả đấu
tranh chung của toàn nhân loại chống lại áp bức, bất cơng. Do đó, bảo đảm
quyền con người trở thành khát vọng của loài người, là giá trị cơ bản mà các
chế độ xã hội luôn hướng tới. Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vấn
đề bảo đảm quyền con người cũng được nhận thức và thực hiện tốt hơn với
những giá trị, chuẩn mực về quyền con người ngày càng được mở rộng. Tuy
nhiên, tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử, chế độ kinh tế, chính trị, quan điểm giai
cấp khác nhau… mà những chuẩn mực và nguyên tắc bảo đảm quyền con
người khác nhau. Do vậy, bên cạnh những giá trị chung, phổ biến về quyền
con người khó có khái niệm thống nhất về quyền con người và bảo đảm

quyền con người, nhất là trong điều kiện thế giới cịn tồn tại nhiều hình thức
nhà nước và giai cấp khác nhau, với những chế độ chính trị vì mục tiêu và lợi
ích khác nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong quan điểm chính trị, cách tổ
chức và thực thi quyền lực của các nhà nước.
Trong bối cảnh hiện nay, thế giới đang chịu sự tác động của q trình
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, những thử thách và cơ hội đặt ra cho các
nước trong quá trình phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp. Việc tham gia
ngày càng sâu rộng vào quá trình này, một mặt đã làm cho các quốc gia
“xích” lại gần nhau hơn từ đó tạo thêm nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển vì tiến bộ chung, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm ngày càng tốt
hơn các quyền con người. Mặt khác, cũng nảy sinh những vấn đề tiêu cực tác
động đến sự phát triển bền vững của các quốc gia. Tình trạng mâu thuẫn giữa
các dân tộc do sự chênh lệch, bất bình đẳng về cơ hội, điều kiện tiếp cận các
cơ hội, trong chiếm lĩnh các nguồn lực để thực hiện và phân chia hệ thống lợi
ích xã hội, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền
1


quốc gia trong quá trình hội nhập; những mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp
trong mỗi quốc gia đang cản trở cuộc đấu tranh vì những lợi ích chung cho
tồn xã hội, cản trở vì sự tiến bộ, phát triển xã hội… Điều này ảnh hưởng và
tác động một cách trực tiếp tới phạm vi và mức độ bảo đảm, thực hiện quyền
con người ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, mỗi nhà nước sẽ có quan
điểm, nguyên tắc riêng về bảo đảm quyền con người vì sự tiến bộ chung của
xã hội và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Theo Luật Nhân quyền quốc tế, bảo đảm quyền con người là trách
nhiệm của nhiều chủ thể trong đó nhà nước đóng vai trị quan trọng. Bảo đảm
quyền con người là trách nhiệm của nhà nước và là vấn đề mang tính nguyên
tắc trong hoạt động của nhà nước. Ở Việt Nam, tư tưởng về một chính quyền
của dân, bảo vệ các quyền của nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh

khẳng định: “Nếu để dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu để dân rét là
Đảng và Chính phủ có lỗi, Nếu để dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu
để dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” [36, tr.572]. Do vậy, ngay từ Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, việc tôn trọng
và đảm bảo các quyền về kinh tế và văn hóa của cơng dân đã trở thành
ngun tắc cơ bản trong hoạt động của nhà nước.
Trải qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã nhận thức sâu sắc và tham gia tích cực vào q trình đấu tranh
bảo đảm và thực hiện quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa trên
phạm vi quốc tế vì sự phát triển chung của nhân loại và bảo vệ lợi ích quốc
gia. Nhiệm vụ: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi người, tơn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã tham gia ký kết” [8, tr.76] được khẳng định tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX. “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi
2


người” [10, tr.85], đã khẳng định chủ trương đúng đắn về vị trí, vai trị và
trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, xác định
nguyên tắc bảo vệ các quyền con người của công dân trước quyền lực chính
trị của nhà nước.
Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, những năm qua nhà nước Việt Nam
đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tổ chức thực thi chính sách pháp luật về quyền con người, hoàn thiện
các cơ chế, thiết chế về bảo đảm quyền con người… Đồng thời, nhà nước
Việt Nam đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức quản lý, về
phát huy tính hiệu quả của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam còn nhiều hạn chế: nhiều quy địn h của pháp luật cịn chồng chéo, bất

cập, khó triển khai trong thực tế, công tác tuyên truyền giáo dục mang tính
hình thức… Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trách nhiệm, vơ cảm, thậm chí vi
phạm nghiêm trọng các quyền con người của người dân của một số cán bộ,
công chức, gây bức xúc trong xã hội, tạo kẽ hở cho một số thế lực thù địch coi
đó là lý do để vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người.
Từ những hạn chế, bất cập kể trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận và
thực trạng thực hiện vai trò của nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm
quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa, trên cơ sở đó đề ra những
giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của nhà nước trong việc bảo đảm
quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam trong thời gian
tới là đòi hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do trên, tác
giả chọn vấn đề: “ ai trò của nhà nƣớc đ i với việc bảo đảm quyền con
ngƣời ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn của mình. Trong quá trình
nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn, tác giả nhận thấy vai trò của nhà nước
đối với việc bảo đảm quyền con người rất rộng, từ lĩnh vực kinh tế, chính trị,
3


văn hóa, xã hội…, với khn khổ của luận văn, tác giả xác định phạm vi
nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người trong
lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, việc nghiên cứu về quyền con người, những vấn
đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền con người, vai trò của nhà nước đối với
việc bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con người trong
lĩnh vực kinh tế và văn hóa nói riêng đã và đang trở thành vấn đề nhận được
sự quan tâm đặc biệt của nhiều tổ chức và cá nhân, các nhà lãnh đạo và các
nhà khoa học trong và ngồi nước. Vì vậy, có nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài này đã được xuất bản, thể hiện tập trung ở các nội dung
sau:

2.1. Các cơng trình nghiên cứu về quyền con người, bảo đảm quyền con
người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về
quyền con người, quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa của
nhiều tác giả trong và ngoài nước.
Giáo sư Hoàng Nam Sâm, trường Đại học tổng hợp Bắc Kinh, Trung
Quốc trong bài “Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn hóa
Trung Quốc”(2002) cho rằng: “Quyền con người là những quyền cơ bản mà
con người sinh ra đã được hưởng, bao gồm trước hết là quyền được sống và
quyền được phát triển, sau đó là các quyền khác” [47, tr.40] chẳng hạn như
“quyền được tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, trong đó có quyền bình
đẳng là quan trọng nhất. Quyền này được thể hiện ở chỗ tất cả mọi người có
thể sống như một cá nhận độc lập và quan hệ giữa con người với con người là
bình đẳng, xét trên phương diện nhân phẩm” [47, tr.40]. Để có được một học
thuyết về quyền con người, tác giả cho rằng phải được thiết lập qua 5 giai
4


đoạn: thứ nhất, là ý thức về quyền con người; thứ hai, là tư tưởng về quyền
con người; thứ ba, là quyền con người dưới góc độ pháp lý; thứ tư, là khái
niệm quyền con người; thứ năm, là học thuyết về quyền con người.
Bài viết “Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu
tranh vì quyền con người trên thế giới” (2005) tác giả Lang Nghị Hoài khẳng
định: “Quyền con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới
định và thừa nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn
tại trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tư cách là người
tham dự giao lưu xã hội”[19, tr.23]. Theo đó, tác giả cho rằng: Quyền con
người nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, do đó
trước hết quyền con người là quyền của một giai cấp nhất định, mang tính giai
cấp rõ rệt. Sự phát triển quyền con người, sự cải thiện mối quan hệ quyền con

người là quá trình lâu dài trong lich sử, tự do và bình đẳng trừu tượng khơng
phải là thước đo thông dụng đối với quyền con người mà chỉ là tiêu chí để
đánh giá mức độ phát triển của quyền con người mà thôi.
Vấn đề bảo đảm quyền con người cũng có khá nhiều cơng trình nghiên
cứu. Về khái niệm quyền con người được đề cập trong một số bài viết như:
“Bảo đảm quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính”(2009)
của tác giả Lê Thị Hồng Nhung [37], tuy nhiên bài viết phần lớn chỉ tập trung
vào phân tích kết quả và thực trạng bảo đảm quyền con người thơng qua việc
đưa ra các hình thức pháp lý hành chính. Tác giả Lê Hồng Sơn trong bài “Các
nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành và hoạt động của các cơ chế
bảo đảm quyền con người”(2009)cho rằng: “Bảo đảm quyền con người là
một q trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh
tế, chính trị, văn hóa, pháp luật trong đó pháp luật giữ vị trí, vai trị và tầm
quan trọng hàng đầu” [48, tr.123]. Điều đó càng khẳng định, bảo đảm quyền
con người không thể thực hiện một cách độc lập, tách biệt, riêng lẻ với các
5


điều kiện khác, vấn đề quan trọng là làm thế nào để tạo ra các điều kiện thuận
lợi để bảo đảm thực hiện tốt nhất quyền con người.
Tác giả Nguyễn Thị Báo trong bài viết: “Một số suy nghĩ về cơ chế bảo
đảm và bảo về quyền con người ở Việt Nam hiện nay”(2009) cũng nhận định:
“Các quyền con người chỉ được bảo đảm và thực hiện khi bảo đảm được các
điều kiện bảo đảm về chính trị; về mặt thể chế; về nguồn nhân lực kinh tế và
văn hóa” [1, tr.121]. Trên cơ sở phân tích các điều kiện bảo đảm quyền con
người, tác giả nhấn mạnh: quyền con người chỉ có thể được bảo đảm khi có
sự vận hành của các cơ quan Đảng và nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Như vậy để bảo đảm quyền con người được thực hiện,
theo tác giả cần có hai điều kiện: thứ nhất là các điều kiện đảm bảo quyền con
người, thứ hai là cơ chế để bảo vệ quyền con người.

2.2. Các công trình nghiên cứu về vai trị của nhà nước đối với bảo đảm
quyền con người, quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa
Sách “Quyền lực Nhà nước và quyền công dân”(2003) của tác giả
Đinh Văn Mậu tiếp cận quyền con người từ góc độ tổ chức nhà nước. Theo
tác giả, quyền lực nhà nước thực chất là quyền lực của nhân dân nhưng nhân
dân không thể thực hiện được quyền lực của mình mà phải ủy quyền cho nhà
nước. Về cơ bản thì nhân dân trao quyền lực này cho nhà nước - quyền lực
này thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, được bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh của nhà nước. Do vậy; “Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân” [28, tr.88] và “quyền
con người được bảo đảm và thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quyền
lực nhà nước như cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính
phủ và Ủy ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án và Viện kiểm sát)”
[28, tr.88]. Để ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước trong việc

6


bảo đảm quyền con người và quyền cơng dân thì cần hoàn thiện bộ máy nhà
nước, cải cách tư pháp …bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Sách “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”(2004) do tác giả Trần Ngọc Đường tập trung
phân tích vai trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩaViệt Nam trong
việc bảo đảm quyền con người. Trong tác phẩm, tác giả nhấn mạnh “Cộng
đồng quốc tế và nhà nước thành viên phải ghi nhận và bảo vệ các giá trị của
quyền con người” [14, tr.139].
Trong bài viết “Quyền con người và Nhà nước pháp quyền”(2009),
tác giả Nguyễn Trung Tín khẳng định: “…để bảo vệ quyền con người nói
chung và thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người nói riêng, quốc
gia phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định như: nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa

vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện” [49, tr.112]. Nghĩa vụ tôn trọng quyền con
người của quốc gia chính là việc đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải kiềm
chế không can thiệp vào việc hưởng thụ các quyền con người, trong đó có
quyền kinh tế và văn hóa của cá nhân.
Đề cập đến phương hướng bảo đảm quyền con người của nhà nước,
chuyên đề “Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
quyền con người” [11]. Chuyên đề đã đưa ra định hướng về bảo bảo đảm
quyền con người của Đảng và nhà nước. Đó là: (1) Giữ vững độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; (2) xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo vệ và thúc đầy quyền con người; (3) Phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội bảo đảm và nâng cao sự hưởng thụ của con
người; (4) Đẩy mạnh dân chủ, giữ vững ổn định xã hội; (5) Giáo dục về
quyền con người; (6) Mở rộng hợp tác quốc tế về quyền con người. Đây là
định hướng quan trọng nâng cao hiệu quả của nhà nước trong việc bảo đảm
quyền con người.
7


Tác giả Trương Thị Thanh Quý cũng có khá nhiều cơng trình nghiên
cứu về quyền con người, đảm bảo thực hiện quyền con người ở Việt Nam
như: Sách Vai trò của Nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở
Việt Nam hiện nay” [40]; Bài báo: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ quyền
con người và quyền độc lập dân tộc ở mỗi quốc gia”[41, tr.61- 70]; “Thực thi
quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở Tây Bắc- Thực trạng và giải
pháp”[42, tr. 95- 97]; “Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách an sinh xã hội
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”[43, tr.87- 93];
“Tư tưởng sơ khai về quyền con người ở Việt Nam thời kỳ phong kiến”[44,
tr.13-18]; “Bảo đảm thực hiện quyền bảo hiểm y tế của đồng bào dân tộc
thiểu số ở Việt Nam hiện nay”[45, tr.56- 65]. Tất cả những cơng trình trên chỉ
gián tiếp đề cập một khía cạnh nào đó của quyền con người cũng như vai trò

của nhà nước đối với từng khía cạnh cụ thể đó mà chưa đề cập đến thực trạng
vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo quyền con người, đặc biệt
là quyền con người trên lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Có thể khẳng định, dù cách tiếp cận, phân tích về quyền con người ở
các mức độ khác nhau, các cơng trình đều đề cập đến vai trò của nhà nước đối
với việc bảo đảm quyền con người, từ đó khuyến nghị về phương hướng giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai trò của nhà nước trong bảo đảm quyền con
người, tuy nhiên việc đi sâu vào nghiên cứu về vai trò và đưa ra giải pháp bảo
đảm quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa của nhà nước thì chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc. Chính vì vậy, luận văn tập
trung phân tích vai trị của nhà nước và khuyến nghị một số giải pháp cơ bản
nhằm phát huy vai trò của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
8


Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của nhà nước đối với
bảo đảm quyền con người và thực tiễn bảo đảm quyền con người trong lĩnh
vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích một số quan điểm cơ bản về quyền con người và bảo đảm
quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn
hóa nói riêng làm cơ sở lý luận. Đồng thời, phân tích tầm quan trọng và
những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con
người trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng (thành tựu và hạn chế ) vai trò của nhà nước đối

với bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam,
từ đó chỉ ra nguyên nhân những hạn chế của nhà nước đối với việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhà nước
đối với bảo đảm quyền con người Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực kinh tế
và văn hóa.
4 Đ i tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt Nam hiện nay từ góc độ triết học.
Phạm vi nghiên cứu
Quyền con người rất rộng, bao quát nhiều phương diện khác nhau, từ
đời sống vật chất đến đời sống tinh thần, từ điều kiện ăn mặc ở đến mơi
trường, từ điều kiện kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, tơn giáo… Trong
giới hạn của đề tài, luận văn khơng có điều kiện nghiên cứu tất cả những
9


phương diện trên, mà chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với
bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay trên hai phương diện: kinh tế,
văn hóa.
Luận văn khơng nghiên cứu tồn bộ lý luận về nhà nước đối với
việc bảo đảm quyền con người mà chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm của
triết học phương Tây cận đại, chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề này dưới góc
độ triết học.
Trong phần thực trạng, luận văn chỉ giới hạn khảo sát thực trạng vai
trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người trong thời
kỳ đổi mới.
5


ơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của triết học phương Tây

cận đại; Chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con
người; Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người... Luận
văn có kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học của các
tác giả khác có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp phân
tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, quy nạp và diễn dịch… và một số
phương pháp khác.
6 Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ khái niệm quyền con người, bảo đảm
quyền con người, vai trò của nhà nước đối với bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa.

10


- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với
việc bảo đảm quyền con người và những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao tính hiệu quả của nhà
nước đối với bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực
kinh tế và văn hóa.
7 Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm chức năng xã hội của nhà nước đối
với bảo đảm quyền con người trong trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa ở Việt

Nam hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy về quyền con người và các vấn đề khác có liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương, 6 tiết.

11


hƣơng 1
VAI TRÒ CỦ

ƢỚ Đ I VỚI BẢ
ƢỜI- M T S

ĐẢM QUYỀN CON

VẤ ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Quyền con ngƣời và bảo đảm quyền con ngƣời
1.1.1. Khái niệm về quyền con người và bảo đảm quyền con người
- Khái niệm về quyền con người
Để làm rõ khái niệm bảo đảm quyền con người, trước tiên cần tìm hiểu
quyền con người là gì? Cho đến nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về
quyền con người dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau, điển hình là:
Xét về bản chất quyền con người, Thuyết nhân quyền pháp lý có điểm
hợp lý là gắn quyền con người với pháp luật, với nhà nước và thấy được vai
trò quan trọng, tầm quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con
người "khơng có pháp luật thì khơng có quyền". Tuy nhiên, nếu chỉ coi ý chí

nhà nước là nguồn gốc của quyền con người, coi trọng tính hợp pháp của
quyền mà khơng quan tâm đến tính hợp lý của quyền con người (đó là những
đòi hỏi, nhu cầu bẩm sinh, tự nhiên, hợp lý của cuộc sống con người, coi nhẹ
cơ sở giá trị của đạo đức, văn hóa…) sẽ rơi vào chủ quan, siêu hình, biến
quyền con người trở thành cơng cụ phục vụ giới cầm quyền, cổ vũ tính quan
liêu của bộ máy nhà nước.
Từ phương diện "Pháp quyền tự nhiên"(Natural rights), "nhân quyền là
những quyền bẩm sinh, vốn có của con người" [59, tr.1239]. Đó là quyền tự
nhiên và cố hữu của con người, là những đặc quyền được các quy tắc điều
khiển mà con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với những cá
nhân và chính quyền. Các định nghĩa về quyền con người này bắt nguồn từ
Thuyết pháp quyền tự nhiên thời kỳ Phục Hưng. Theo học thuyết này, ở trạng
thái tự nhiên, con người có các quyền tự do, bình đẳng và tư hữu. Đó là các

12


quyền bẩm sinh, vốn có được bắt nguồn từ bản chất muôn đời và bất biến của
con người. Trách nhiệm của nhà nước là phải bảo đảm các quyền tự nhiên cho
các công dân của họ. Bằng việc khẳng định các quyền con người là tự nhiên,
bẩm sinh, Thuyết pháp quyền tự nhiên thể hiện khát vọng của các thế lực tiến
bộ chống lại những bất công trong xã hội, địi quyền con người. Tuy nhiên,
nếu q nhấn mạnh tính tự nhiên của quyền con người dễ dẫn đến xem nhẹ
nguồn gốc xã hội của quyền con người, không thấy được tính lịch sử, tính
giai cấp của quyền con người.
Từ phương diện chính trị- xã hội, học giả Trung Quốc, Lang Nghị Hoài
cho rằng: "quyền con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự
giới định và thừa nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là một tồn
tại xã hội" [18, tr.231]. Vấn đề "then chốt là ở chỗ phải gắn tiêu chuẩn quyền
con người với những lý giải khác nhau và tính đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi

giai cấp" [18, tr.232]. Với cách tiếp cận này, quyền con người không phải
xuất phát từ bản năng mà chịu sự chi phối của chế độ xã hội. Điểm hợp lý của
quan niệm nhân quyền này là nhấn mạnh sự thừa nhận của xã hội và lịch sử
đấu tranh của con người giành lấy quyền của mình, song nếu q nhấn mạnh
đến tính xã hội của quyền con người, dễ dẫn đến phủ nhận hoặc coi thường
quyền con người với tư cách là con người cá nhân, hòa tan giá trị cá nhân vào
trong xã hội.
Từ phương diện đạo đức, nhân quyền được định nghĩa "là quyền lợi được
thừa nhận, bảo đảm rõ ràng về mặt pháp lý để mỗi cá nhân có thể được hưởng
một cách độc lập, đầy đủ, tự do nhất về các lĩnh vực cá tính, tinh thần, đạo
đức" [60, tr.606].
Từ các cách tiếp cận trên cho thấy, quyền con người là vấn đề chính trịxã hội phức tạp. Nhận thức về quyền con người không chỉ phụ thuộc vào
quan điểm chính trị, mà cịn ảnh hưởng sâu sắc truyền thống lịch sử, văn hóa
13


của mỗi quốc gia. Thời gian qua, khi các nước Phương Tây ln có xu hướng
đề cao quyền cá nhân, coi trọng tính tự nhiên của quyền con người, xem
quyền dân sự, chính trị là nội dung quan trọng, cốt lõi của quyền con người
thì ở Phương Đơng lại đề cao quyền lợi của cộng đồng, nhấn mạnh đến tính
lịch sử, xã hội của quyền con người, coi trọng các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa của con người cũng như điều kiện để thực hiện các quyền đó. Trong bối
cảnh chưa có quan điểm thống nhất về quyền con người, có thể dẫn đến
những lý giải tùy tiện về nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Vì vậy,
để tránh lạm dụng vấn đề quyền con người, cần phải có một quan niệm thống
nhất. Do đó, tác giả cho rằng, quyền con người là một phạm trù chính trị- xã
hội - lịch sử, phản ánh nhu cầu, lợi ích, năng lực vốn có, chỉ có ở con người
dưới hình thức các chuẩn mực khách quan, được xã hội thừa nhận và bảo
đảm bằng các quy định pháp luật. Khái niệm quyền con người mà tác giả
đưa ra thể hiện những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích vốn có và cần
phải có của con người để tồn tại với tư cách là một "thực thể tự nhiên" (nhu
cầu để sống, để sinh tồn) và với tư cách là một "nhân tính tự do" (nhu cầu
về sự phát triển năng lực vốn có của bản thân, về sự hồn thiện nhân cách).
Các nhu cầu vốn có này áp dụng chung cho tất cả mọi người mà khơng có
sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo,
chính kiến, quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội v.v... "Sự hiện
diện các quyền con người phụ thuộc vào con người chứ không phải phụ
thuộc vào địa vị của họ trong nền văn hóa, hồn cảnh hoặc hệ thống xã hội
mà họ đang sinh sống" [58, tr.16].
Thứ hai, các nhu cầu, lợi ích của con người mang tính thiết yếu và có
mối quan hệ thống nhất, khơng thể tách rời. Mức độ bảo đảm các nhu cầu, lợi
ích này khơng phải đều như nhau mà phải có thứ tự ưu tiên, nghĩa là có những

14


nhu cầu cần phải bảo đảm trước tiên để làm tiền đề, nền tảng cho việc thực
hiện các nhu cầu khác. Chẳng hạn, nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và
thiết yếu của con người. Để bảo đảm được nhu cầu sinh tồn (quyền sống), con
người cần có thức ăn, nước uống, mơi trường sống...Vì thế, các quyền con
người (với tính cách là những nhu cầu được xã hội thừa nhận) có mối quan hệ
biện chứng, quy định lẫn nhau, trong đó, có những quyền là tiền đề, là hạt
nhân, là chuẩn mực của việc thực hiện các quyền khác.
Thứ ba, những nhu cầu, năng lực, lợi ích này phải được xã hội thừa nhận
và bảo đảm thông qua các chế định pháp luật. Pháp luật là phương tiện chính
thức hóa các giá trị xã hội của quyền con người. Nếu khơng có sự thừa nhận
của xã hội thơng qua pháp luật thì những nhu cầu, lợi ích vốn có của con
người chưa trở thành quyền mà chỉ dừng lại ở mong muốn, khát vọng mà thơi.
Do đó, sự ghi nhận của pháp luật đã "khuôn" các nhu cầu, lợi ích của con

người vào điều kiện thực tế. Hơn nữa, việc ghi nhận của pháp luật về các
quyền con người còn thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện
bảo đảm khác (chính trị, kinh tế, văn hóa...). Các điều kiện trên đều phải thơng
qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội
ổn định, được hiện thực hóa trên qui mơ tồn xã hội. Chỉ có như vậy thì các
điều kiện đó mới phát huy được vai trị của mình trong việc bảo đảm quyền
con người.
Để hiểu rõ hơn về quyền con người, chúng ta phân biệt: quyền con người
và quyền công dân. Đây là hai phạm trù gần nhưng khơng hồn tồn đồng
nhất.
Quyền cơng dân (citizen’ ringhts) chỉ gắn liền với sự xuất hiện của cách
mạng tư sản. Có thể khẳng định, cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại
một giá trị nhân văn to lớn là đưa con người từ những địa vị thần dân trở

15


thành những công dân (với tư cách là những thành viên bình đẳng của một
nhà nước) và pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con người dưới hình thức
các quyền công dân trong pháp luật. Xét về bản chất, "quyền cơng dân chính
là quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân
của nước mình" [16, tr.21].
Quyền cơng dân là quyền con người trong một xã hội cụ thể, đứng
trong một chế độ chính trị, xã hội nhất định với hệ thống pháp luật cụ thể do
nhà nước thừa nhận và quy định. Do đó, quyền cơng dân là quyền con người
với tư cách là thành viên của cộng đồng chính trị, cộng đồng nhà nước. Nói
cách khác, đó là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người với
tư cách là thành viên "xã hội cơng dân", cịn "quyền con người là những đặc
quyền chỉ có ở con người với tư cách là con người, là thành viên của xã hội
loài người" [56, tr.14].

Nếu như quyền công dân là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp
luật địa vị con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng
mực mà nhà nước chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước, thì
quyền con người ở đây được biểu hiện ra như một quan hệ xã hội, quan hệ
giữa con người với xã hội (tức là con người được hiểu là một thực thể xã hội)
với môi trường xã hội (bao gồm cả lịch sử, văn hóa, các quan hệ dân tộc, tơn
giáo, quốc gia, nhân loại...). Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền
con người bao hàm cả những quyền tự nhiên được xác định khi họ sinh ra và
theo họ trong suốt cuộc đời (quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, quyền tự do...). Các quyền đó đóng vai trị "là cơ sở để xác định tính điều
chỉnh, tự định đoạt của con người, khả năng độc lập của con người trong việc
giải quyết các nhu cầu cá nhân" [60, tr.22]. Trong mối quan hệ với cộng đồng
nhân loại, quyền con người không chỉ bao gồm những nhu cầu, lợi ích của
con người được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia mà còn là
16


những nhu cầu, lợi ích được ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật quốc tế. Do
đó, phạm vi áp dụng của quyền con người không bị giới hạn bởi chế định
quốc tịch mà chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của loài
người, bất kể vị thế, hồn cảnh, quốc tịch... Nói cách khác, quyền con người
được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc
đang sinh sống trên phạm vi tồn cầu, khơng phụ thuộc vào biên giới quốc
gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.
Một cá nhân con người (ngoại trừ những người khơng có quốc tịch), về
hình thức đồng thời là chủ thể của cả hai loại quyền con người và quyền
công dân. Sự phân biệt trong việc hưởng thụ hai loại quyền này chỉ được thể
hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn, một người nước ngồi sẽ
khơng được hưởng một số quyền công dân (và cũng là quyền con người) đặc
thù như quyền bầu cử, ứng cử như cơng dân của nước mà người đó sinh sống,

làm việc, nhưng người đó vẫn được hưởng các quyền con người phổ biến
(mà đồng thời cũng là các quyền công dân) áp dụng cho mọi thành viên của
nhân loại như: quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân...
- Khái niệm về bảo đảm quyền con người
Trong các tài liệu về quyền con người ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ
bảo "đảm quyền con người" được nhắc đến khá nhiều, nhưng việc đưa ra khái
niệm bảo đảm quyền con người chưa có nhiều tài liệu đề cập đến.
Về khái niệm "bảo đảm quyền con người", đến nay, có nhiều cách hiểu
khác nhau. Theo một số tài liệu của Liên hợp quốc thì cụm từ bảo đảm quyền
con người hay được sử dụng để chỉ ra nghĩa vụ của các chủ thể có trách
nhiệm trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Lời nói đầu Cơng
ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị và Cơng ước quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa (1966) đều khẳng định: "theo Hiến chương Liên Hợp
17


Quốc thì các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ các quyền
và những tự do cơ bản của con người" [57, tr.230].
* Một số quan niệm về quyền con người và bảo đảm quyền con người
hiện nay.
Theo một số tài liệu của Liên hợp quốc thì cụm từ bảo đảm quyền con
người hay được sử dụng để chỉ ra nghĩa vụ của các chủ thể có trách nhiệm
trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Lời nói đầu Cơng ước
quốc tế về các quyền dân sự chính trị và Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa (1966) đều khẳng định: "theo Hiến chương Liên Hợp Quốc thì
các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tơn trọng và tuân thủ các quyền và những
tự do cơ bản của con người"[50, tr.230].
Ở Việt Nam, quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa nói riêng được khẳng định trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của Đảng, đó là: "phải bảo đảm quyền con

người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển tồn
diện"; "Nhà nước tơn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân" [49,
tr.85]. Thuật ngữ bảo đảm quyền con người tiếp tục được ghi nhận trong Hiến
pháp 2013, "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân" (Điều 3).
Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa bảo đảm quyền con người, nhưng tập hợp các
ghi nhận trên, có thể khẳng định được vai trò, tầm quan trọng của việc bảo đảm
quyền con người đồng thời chỉ ra nghĩa vụ của nhà nước là phải tôn trọng và bảo
đảm quyền con người.
Tác giả Lê Thị Hồng Nhung, "Bảo đảm quyền con người là tạo ra các điều
kiện cho quyền con người được vận hành trong thực tiễn hoặc bảo vệ nó chống
lại hành vi xâm phạm quyền con người"[33, tr.182]. Từ góc độ luật học, tác giả
Phạm Hồng Thái và Nguyễn Thị Thu Hương định nghĩa: "Bảo đảm quyền con
18


người là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và
tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của cơng dân thực hiện được các
quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận" [51, tr.1]
Theo các tác giả, bảo đảm quyền con người có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm về
chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà
nước, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội phải thực hiện để bảo đảm
quyền con người.
Trong các tài liệu ở Việt Nam về quyền con người, mặc dù thuật ngữ
“bảo đảm quyền con người” được nhắc đến khá nhiều, nhưng việc đưa ra khái
niệm bảo đảm quyền con người có nhiều cách hiểu khác nhau. Bàn về quyền
con người trong bài Về quyền con người – trong tập chuyên khảo “quyền con
người, quyền công dân” học giả Nguyễn Bá Diến đưa ra khái niệm: “Quyền
con người là các khả năng của con người được đảm bảo bằng pháp luật (luật

quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá
trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người
khác trên cơ sở pháp luật” [7, tr.34]. Khái niệm này mới chỉ đề cập đến quyền
con người với tư cách là phạm trù luật học mà chưa bao quát được quyền con
người với tư cách là quyền thành viên, là quyền được hưởng những giá trị của
sự phát triển.
Một khái niệm khác về quyền con người đang được sử dụng phổ biến
trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta hiện nay: "Nhân quyền
(hay quyền con người) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con
người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [21, tr.10].
Trong Giáo trình cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia
19


×