Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Báo cáo : "Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.41 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ
***
Đề tài:
Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản
chủ nghĩa
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Bùi Tiến Dũng
Nhóm thực hiện : Nhóm 3
Lớp : K50 báo chí
Hà Nội
Tháng 5 – 2008
…….o0o……...
Mục lục
Nội dung
Chương I: Khái quát về tập trung hóa báo chí
1. Khái niệm về tập trung hóa báo chí
2. Quá trình tập trung hóa báo chí
2.1. Theo X.I. Bê - lốp
2.2. Theo khái niệm
3. Nguyên nhân dẫn đến tập trung hóa báo chí
4. Những biểu hiện của tập trung hóa báo chí
Chương II: Tập đoàn báo chí
1. Khái niệm về tập đoàn báo chí
2. Nguyên nhân và dạng thức hình thành các tập đoàn báo chí
3. Những tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới
3.1. Rupert Murdoch – huyền thoại của truyền thông thế giới
3.2. Tập đoàn báo chí lớn ở Mỹ
3.3. Tập đoàn báo chí lớn ở Pháp
3.4. Tập đoàn báo chí lớn ở Anh
3.5. Tập đoàn báo chí lớn ở Đức
4. Chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam


4.1. Những tiền đề để ra đời tập đoàn báo chí ở VN
Trang
4
4
4
5
8
17
20
27
27
32
35
35
42
48
54
63
71
72
74
78
86
89
4.2. Những động thái cởi mở của nhà nước đối với việc thành lập tập đoàn báo chí
ở VN
4.3. Các bước chuẩn bị của các tờ báo có triển vọng trở thành tập đoàn
báo chí ở VN
Kết luận
Tài liệu tham khảo

Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thu Yến (nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Đóa
3. Trần Thúy Đạt
4. Lữ Thị Hoa
5. Đỗ Thị Thu Hường
6. Trịnh Vân Khanh
7. Nguyễn Phương Mai
8. Nguyễn Vy Linh
9. Nguyễn Thị Diễm Linh
10. Phí Hương Ly
11. Nguyễn Thanh Tam
12. Dương Phương Thảo
13. Lê Thị Trang
14. Nguyễn Huyền Trang (8/6/1987)
15. Đồng Thị Thùy
16. Nguyễn Thị Tươi
17. Lưu Thị Vân
Chương I: Khái quát về tập trung hóa báo chí
1. Khái niệm tập trung hóa báo chí:
Hiện nay, vẫn có những quan điểm khác nhau về khái niệm tập trung hóa và tập
trung hóa báo chí. Theo từ điển Tiếng Việt thì từ “tập trung” có nghĩa là dồn lại, tụ họp ở
1 nơi, hoặc là dồn sức lực, trí tuệ, hướng hoạt động vào việc gì” (trang 1444 Đại từ điển
Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, NXB ĐHQG TPHCM, 2007). Còn tập trung hóa thì được
hiểu như quá trình dồn lại, tụ hợp lại tại một nơi, một điểm. Hay nói cách khác hiểu một
cách đơn giản nhất thì tập trung hóa báo chí là quá trình tích tụ các cơ quan báo chí lại
với nhau, tập hợp lại thành một cơ quan to nhất.
Theo Pierre Albert trong cuốn “Lịch sử báo chí” thì cho rằng: “Quá trình tập trung
hóa là quá trình mà các báo có số lượng phát hành lớn hơn nuốt hoặc loại bỏ với các báo
có số lượng phát hành thấp hơn để củng cố địa vị của mình”.

Xem xét trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí trên thế giới ta nhận
thấy: thứ nhất, quá trình tập trung hóa diễn ra đầu tiên ở các nước TBCN, sau đó phát
triển mạnh và lan sang các nước khác trên toàn thế giới. Thứ hai quá trình này gắn với
những hoạt động mua lại hoặc sáp nhập giữa các công ty để hình thành nên những công
ty lớn hơn. Thứ ba là quá trình này vẫn còn tiếp diễn và phát triển ở nhiều nước trên thế
giới.
Tóm lại, “Tập trung hóa là quá trình sáp nhập, kết hợp, bắt tay giữa các cơ quan
báo chí, hoặc thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí để
hình thành nên các tập đoàn báo chí”.
2. Quá trình tập trung hóa báo chí diễn ra như thế nào?
Đối với đa số các nước TBCN lớn thì hiện tượng tập trung hóa các phương tiện
thông tin đại chúng trên thị trường quốc gia là một hiện tượng tiêu biểu, phổ biến. Quá
trình này đang được mở rộng hơn bởi sự xâm nhập mạnh mẽ của các tập đoàn xuyên
quốc gia vào hoạt động kinh doanh thông tin. Quá trình tập trung hóa báo chí vẫn tiếp
tục diễn ra đến tận bây giờ không phụ thuộc vào các phương cách hình thức sở hữu và
các phương pháp điều hành doanh nghiệp.
2.1. Theo X.I.Bêglốp trong tác phẩm “Các tổ chức độc quyền ngôn luận” chia quá
trình tập trung hóa theo 5 hướng:
- Hướng hợp nhất: thông qua sát nhập hoặc trên những nguyên tắc ký kết đối tác
với hình thức thành lập những phương tiện thông tin đại chúng mới cùng loại và phụ
thuộc. Ví dụ các mạng lưới báo, mạng lưới các đài phát thanh và truyền hình… thuộc
vào loại này còn có các phương tiện thông tin đại chúng quốc gia nào đó bành trướng
sang các nước khác. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp còn mang tính chất độc
lập về phương diện tài chính, nhưng sự chỉ đạo chung lại xuất phát từ một đại bản
doanh. Các ấn phẩm “Reader’ Digest” (Mỹ), “Burda Moden Magazine” (Đức) và những
ấn phẩm tương tự khác đã cho thấy rõ xu hướng này.
- Hướng hợp nhất các phương tiện thông tin đại chúng khác nhau thành một tổ
hợp thống nhất (báo – đài phát thanh – đài truyền hình…) Trong trường hợp tiến hành
những chiến dịch thông tin hoặc tuyên truyền, những tổ hợp đa năng ấy cho phép ta tiết
kiệm được nhiều tiền bạc và đồng thời còn đạt được hiệu quả cao

- Hướng thôn tính, thâu tóm khi các tập đoàn công nghiệp – tài chính mua lại các
phương tiện thông tin đại chúng. Điều này cho phép các giới kinh doanh lớn vận động
hành lang cho các quyền lợi của mình trong quá trình chuẩn bị đưa ra các quyết định
quan trọng của nhà nước và hình thành công luận theo hướng cần thiết. Ngoài ra điều
này còn cho phép đạt được tình hình ổn định về tài chính của toàn bộ tập đoàn và giảm
phần nào mức độ lệ thuộc của các phương tiện thông tin đại chúng và những đơn đặt
hàng quảng cáo. Về phương diện này, ví dụ có ý nghĩa là các cơ sở báo chí của những
hiệp hội ấy sát nhập vào cơ cấu nhà nước, để tạo thành những hiệp hội báo chí chuyên
ngành đóng vai trò tích cực trong quá trình tự điều chỉnh của báo chí. Chẳng hạn, tạp chí
Tín hiệu là ấn phẩm của Hội công nghiệp và cục thông tin của quân đội Mỹ. Hiệp hội
các nhà báo của công nghiệp dầu lửa cũng hoạt động mạnh…Một ví dụ tiêu biểu nữa là
tập đoàn báo chí News Corportion và các hoạt động thôn tính các công ty khác của tập
đoàn này.
- Các công ty thông tin đại chúng hùng mạnh mua lại các xí nghiệp công nghiệp
không có liên quan đến hoạt động kinh doanh, biên tập – xuất bản hoặc hoạt động phát
thanh – truyền hình. Nếu như trước kia các tờ - rớt báo chí mua lại các cánh rừng và các
xí nghiệp sản xuất giấy hoặc ký kết các thỏa thuận đối tác với các xí nghiệp ấy thì giờ
đây những tờ - rớt ấy xâm nhập vào khắp nơi: từ công nghiệp rừng xenluylô- giấy cho
đến các ngành dịch vụ, hoạt động kinh doanh giải trí, xâm nhập vào những ngành điện tử
mới nhất và vật lý hạt nhân. Trên cùng một mức độ đó có thể phác họa kiểu hoạt động
như vậy của phương tiện thông tin đại chúng thông qua ví dụ về tập đoàn “The New
York Times Corporation” cùng với các các tổ chức và các hang con của nó. Tập đoàn ày
có những cánh rừng của mình ở Canada, có những xí nghiệp xenluylô –giấy, các nhà
xuất bản, các mạng lưới phát thanh và truyền hình, các tổ chức của những giới chuyên
gia máy tính và các lập trình viên…
- Cải tổ cơ cấu các tổ chức thông tin đại chúng độc quyền, phân phối lại các luồng
thông tin trên các kênh thông tin. Người ta thấy hiện tượng các luồng thông tin kinh
doanh được chuyển sang các hãng tin chuyên biệt và các máy tính chuyên biệt. Chẳng
hạn nguồn thu chủ yếu của hãng tin Reuters không phải từ những người đặt mua thông
tin quốc tế, mà là từ hoạt động đưa tin về các hoạt động của sở giao dịch trong những

thời điểm đã định… Hãng tin AP đã tổ chức ra hình thức dịch vụ ấy của AP – Dow
Jones và áp dụng hình thức dịch vụ này vào thị trường dầu lửa của một số nước. Những
bản tin của sở giao dịch đăng trên các báo đã mất đi tính thời sự trước kia của mình.
Những thông tin được chuyển tải nhanh chóng qua các chương trình phát thanh và
truyền hình (đặc biệt là qua các kênh chuyên biệt của truyền hình cáp). Vì vậy các tờ báo
và tạp chí tập trung chú ý vào khâu phân tích, bình luận và dự báo. Xu hướng này cũng
biểu hiện trong lĩnh vực phát thanh. Ví dụ các tập đoàn phát thanh hàng đầu ở Thụy Sĩ
đã dành cho khâu bình luận rất nhiều thời lượng hơn trước kia.
2.2.Từ khái niệm định nghĩa ở trên ta có thể thấy quá trình tập trung hóa diễn ra
theo hai hướng chính:
• Sáp nhập: đây là quá trình tập trung hóa được tiến hành trên nguyên tắc
hợp nhất, thông qua sáp nhập hoặc trên những nguyên tắc ký kết đối tác để hình thành
nên những tập đoàn báo chí lớn hoặc những công ty truyền thông lớn dựa trên sức mạnh
và tiềm lực của cả hai gộp lại.
Ví dụ lần sát nhập giữa AOL và Time Warner năm 2001:
 Time Warner
- Nền tảng: là sự sát nhập của Warner Communication và Time Inc, năm 1987.
- Trụ sở: New York, Mỹ.
- Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Richard D.Parsons, chủ tịch Jeffiey L.Bewkes; và
tổng giám đốc điều hành Wayre Pace cùng các CFO khác.
- Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu: phát thanh, xuất bản, in, viễn thông.
- Thu nhập: 50.48 tỉ $ (2008)
- Nhân viên: 86.000 (31/12/2007)
 AOL
- Là tên viết tắt của American Online, là một tập đoàn chuyên
cung cấp dịch vụ Internet trên toàn cầu.
- Thành lập năm 1985, có trụ sở tại Duless, Virginia, Mỹ.
- Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Randy Falco, Ted Leoniss, Ronald Grant.
- Lĩnh vực kinh doanh chính: cung cấp dịch vụ Internet trên tòan cầu
- Khẩu hiệu: “See what’s here for you”

 Sự sát nhập của AOL và TIME WARNER
· Ngày 11/2/2000 : AOL và Time Warner chính thức sát nhập và mang tên AOL
TIME WARNER (A-T)
· Vào thời gian AOL và Time Warner hợp nhất, giá cổ phiếu của AOL tăng cao do
sự bùng nổ của các công ty dotcom. Tập đoàn sáp nhập AOL Time Warner hiện có 135
triệu khách hàng; chỉ riêng AOL đã thu hút thêm được 1,3 triệu khách hàng mới trong
năm 2001. Tuy nhiên, sau khi bong bóng Internet xẹp xuống, giá cổ phiếu của hãng này
đã giảm rất mạnh
· Công việc thống nhất hoạt động kinh doanh của hai công ty cũng có rất nhiều khó
khăn. Có một khoảng cách văn hoá kinh doanh lớn giữa hai công ty bởi AOL mới có
thời gian hoạt động 20 năm, trong khi Time Warner đã có thâm niên tới 78 năm, với
những ấn phẩm báo chí uy tín từ Fortune tới Sports Illustrated. Đã có những lời kêu ca,
phàn nàn từ phía các phóng viên của Time và CNN tỏ ý lo lắng việc xiết chặt chi phí
hoạt động có thể ảnh hưởng tới chất lượng các bài báo.
· Năm 2001, sau khi sát nhập, hoạt động kinh doanh của tập đoàn này rất ảm đạm.
Cổ phiếu của AOL TIME WARNER đã giảm 9% mặc dù lợi nhuận trước thuế đã tăng
20%, đạt 2.5 tỷ $.
· Tính riêng trong quý I/2001, A-T lỗ 1.8 tỉ $. Nguyên nhân chính gây ra sự thất bại
này là do doanh thu quảng cáo của hãng giảm sút tới 14%.
· Ngay việc sáp nhập AOL và Time Warner cũng đã có nhiều khó khăn. Với số vốn
210 tỷ USD, giờ đây tập đoàn AOL Time Warner đã lớn gấp đôi đối thủ cạnh tranh lớn
nhất của mình là Viacom với số vốn gần 100 tỷ USD. Hai tổng hành dinh cách nhau hơn
320 km: tổng hành dinh của AOL ở miền bắc Virginia, hiện là văn phòng điều hành của
ông Case, và tổng hành dinh của Time Warner tại Manhattan là văn phòng của ông
Levin. Tổng số nhân viên của tập đoàn hiện lên tới 90.000 người.
· Tháng 5/2002, ông Ted Turner (phó chủ tịch) quyết định ra đi, gây nhìêu xáo trộn
trong hoạt động kinh doanh của tập đòan. Chủ tịch AOL TIME WARNER Steve Case
cũng thôi giữ chức và tổng giám đốc điều hành Dick Parsons sẽ thế chỗ.
· Báo chí đưa tin rằng Time Warner đã đàm phán căng thẳng trong suốt cả năm qua
về tương lai của AOL, không loại trừ cả khả năng bán tống bán tháo toàn bộ gánh nặng

này (AOL bắt đầu sáp nhập vào Time Warner từ tháng 1/2001). Nhưng càng về đến cuối
năm 2005, ý tưởng "hợp tác" càng được chú ý: nhiều khả năng được đặt lên bàn: bắt tay
cùng công cụ tìm kiếm MSN của Microsoft chăng, hay siết chặt thêm quan hệ quảng cáo
với Google, hãng đang cung cấp công nghệ tìm kiếm cho AOL.
· Sự dùng dằng trong tương lai của AOL đang cho thấy một thực tế: đến giữa thập
kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3, khu vực online đang bị chia rẽ thành 2 tuyến: một
bên là những hãng thành công trong việc kiếm tiền từ tìm kiếm và cung cấp dịch vụ Web
còn một bên là những kẻ "trâu chậm" không muốn uống nước đục.
· Năm 2005-2006, tập đoàn này đã làm ăn khấm khá trở lại.
· Năm 2006, Công ty này nói lãi ròng trong quý ba năm nay (2006) tăng lên thành
2,3 tỷ USD từ con số 853 triệu quý ba năm ngoái.Thu nhập của Time Warner tăng 7%
thành 10,9 tỷ USD, được đẩy mạnh nhờ việc hãng này mua lại công ty Adelphia
Communications. Tháng trước, Time Warner đã bán hoạt động tại Anh của mình cho
công ty Carphone Warehouse với giá 370 triệu bảng Anh. Tập đoàn này, vốn sở hữu cả
xưởng phim Warner Bros và kênh truyền hình CNN, cho hay thu nhập từ AOL tăng tới
46%.Time Warner đã cải tổ hệ thống AOL hồi mùa hè để tăng lợi nhuận, cắt giảm 5.000
việc làm. Sau việc hãng này mua lại công ty Adelphia hồi đầu năm, nay Time Warner trở
thành tập đoàn dịch vụ truyền thông cáp lớn thứ hai Mỹ, với trụ sở chính tại New York
và Los Angeles. Cổ phiếu của Time Warner cũng tăng tới mức cao nhất trong bốn năm
nay vào tháng trước.
· Người ta cho rằng ban quản trị Time Warner muốn xóa chữ AOL trước tên công
ty này một vài lần nhưng kế hoạch chỉ được thực hiện khi giám đốc AOL Jonathan
Miller cho phép vào tháng trước. Ông Miller có quan điểm trung lập trong mối cửu hận
giữa AOL và ban điều hành Time Warner – như cách dùng từ của báo chí Mỹ.
·Ngay từ quý I/2007, Time Warner – đứa con được cưng chiều và kỳ vọng bậc nhất
của làng truyền thông Mỹ đã được đón nhận niềm vui lớn: về nhất trong cuộc bình chọn
những tập đòan truyền thông hùng mạnh nhất hành tinh ( Top Thirty Global Media
Owners). Với 29.8 tỉ $ doanh thu đạt được trong năm tài chính 2005-2006, gấp đôi
doanh thu của anh chàng News Corp, Time Warner đã trở thành người đi đầu trong cuộc
bầu chọn danh tiếng của Zenith Optimedia Group, vượt mặt 30 anh tài khác một cách

đầy thuyết phục.
• Thôn tính, thâu tóm: đây là quá trình tập trung hóa diễn ra bằng cách một
công ty hoặc một tập đoàn lớn mua lại các công ty khác và củng cố công ty ban đầu
thành những tập đoàn báo chí hùng mạnh.
Ví dụ: quá trình thâu tóm các công ty khác của tập đoàn báo chí News
Corporation – Rupert Murdoch:
Ông trùm truyền thông Rupert Murdoch sinh ngày 11/3/1931 tại Melbourne,
Australia. Trước đây, nhà tài phiệt này đã từng học ở Đại học Oxford danh tiếng và làm
việc cho tờ Daily Express trong hai năm. Năm 1952 ông trở về Australia và thừa kế tờ
The Adelaide News của Keith Murdoch, cha ông. Đó là một tờ báo tỉnh lẻ hạng hai. Mục
tiêu của ông lúc bấy giờ là mang tờ Tin tức Adelaide vươn ra khỏi thị trấn Adelaide. Kể
từ đó, cuộc đời của Rupert Murdoch luôn gắn liền với những thành công mang tầm quốc
tế, ông từng bước sở hữu hết tờ báo này đến tờ báo khác ở khắp mọi nơi: ở Sydney là tờ
Mirror, ở London là các hãng News of the World và the Sun, ở New York là tờ New York
Post.
Năm 1954-1965: mua tờ The Sunday Times, Tạp chí Perth và New Ideas.
Năm 1963: sở hữu Wollonggong Win4 TV. Sau đó, ông mua thêm Kênh 9 của đài
truyền hình Sydney.
Năm 1977: Mua thời báo New York Post với giá 30 triệu USD, đến năm 1988 bán
sang tay để có tiền mua đài truyền hình và cuối cùng lấy lại vào năm 1993. Murdoch đã
vào thị trường truyền thông Mĩ bằng cách mua tờ San Antonio News (1973), ngay sau
đó sáng lập tờ National Star.
Năm 1979, Murdoch thành lập News Corporation trên đất Úc và bắt đầu thu mua
những tờ báo và tạp chí hàng đầu London (Anh) và New York (Mĩ), cũng như thu mua
nhiều tập đoàn truyền thông khác.
Năm 1985, Murdoch nhập quốc tịch Mỹ để có thể dễ dàng mua các đài truyền hình
Mỹ hơn. Cũng trong năm này, ông đã sở hữu 50% hãng phim 20
th
Century Fox.
Năm 1986: Ông tiếp tục mua hãng MetroMedia, hãng này sở hữu 7 đài truyền hình

lớn nhất nước Mỹ với giá 1,55 triệu USD. Ông phát triển sang Hongkong và mua tờ The
South China Morning Post. Kết hợp với 20th Century Fox Studio, “bộ sậu” này đặt nền
móng cho việc sáng lập kênh truyền hình Fox Television Network.
Năm 1988: Chi 3 tỷ USD để mua TV Guide, sau đó sáp nhật với công ty tương tác
truyền hình Gemstar.
Năm 1989: Thành lập kênh truyền hình qua vệ tinh Sky TV với 4 kênh phát sóng
trên toàn nước Anh, một năm sau sáp nhập với công ty British Satellite Broadcasting
(lúc đó đang làm ăn thua lỗ) thành hãng BSkyB. Khối liên minh sau đó lỗ tới 2 tỷ USD
và rơi vào khủng hoảng tài chính, nhưng dưới bàn tay của Murdoch đã trở thành BskyB
hùng mạnh như ngày hôm nay.
Khi đã thành lập News Corp, Murdoch bắt đầu “tiến công” sang lĩnh vực phim ảnh
(xưởng phim nổi tiếng nhất của News Corp là 20
th
Century Fox - Hãng phim này đã
được công ty News Corporation của Murdoch mua lại từ những nhà sáng lập Star với giá
825 triệu đô la. 20th Century Fox nằm trong tập đoàn Fox Entertainment Group Inc.
(FEG). News Corporation sở hữu 85% cổ phần của tập đoàn này) và phát thanh truyền
hình. Hiện nay, mạng lưới truyền hình Fox (do công ty con Fox Broadcasting Company
điều hành) đã lan toả đến 96% hộ gia đình Mĩ. Trong thập niên 1980, News Corp của
Murdoch vươn tới lĩnh vực truyền hình và phim ảnh: ở Hollywood ông sở hữu hãng
phim 20
th
Century Fox và hãng truyền hình Fox TV, ở Luân Đôn mua tờ Times và Sunday
Times, ở châu Á ông mua đài truyền hình Star Television. Hiện nay, tập đoàn này đang
nắm giữ lượng cổ phần khổng lồ của nền công nghiệp báo chí Australia, giữ 1/3 số tờ
báo và BSkyB (hãng truyền hình vệ tinh) ở Anh. Gần đây, Murdoch đã mua đội bóng
chày Los Angeles Dodgers.
Ở Anh, thông qua công ty con News International, News Corp của Murdoch có ảnh
hưởng mạnh mẽ trong làng báo Anh, đặc biệt là từ khi sở hữu hai hệ thống báo Times
Newspapers và News Group Newspapers (khoảng thời gian cuối thập niên 80 của thế kỉ

20) và một phần hệ thống truyền hình trả tiền BskyB (năm 1990).
Vào năm 1993, News Corp mua 63,6% cổ phiếu của công ty Star TV có trụ sở tại
Hồng Kông với giá 525 triệu USD. Kênh truyền hình vệ tinh này hiện đang giúp các
chương trình của News Corp đến với trên 300 triệu người xem trên 53 quốc gia toàn thế
giới với tham vọng tiến vào thị trường truyền thông Trung Quốc, bởi đây là kênh truyền
hình vệ tinh phát khắp khu vực châu Á. Ông trùm truyền thông Rupert Murdoch rất tâm
đắc với kế hoạch này, đặc biệt là khả năng chương trình sẽ trở thành đòn bẩy cho hãng
phim Twentieth Century Fox của tập đoàn thâm nhập vào thị trường châu Á rộng lớn.
Trong suốt thập niên 90 của thế kỉ 20, News Corp chiếm thị phần lớn trong lĩnh
vực truyền hình trả tiền ở cả 3 châu lục. Năm đầu thế kỉ 21, News Corp thành công trong
lĩnh vực kinh doanh Internet với AOL.
Năm 2003: Sau trận “hỗn chiến” với các đối thủ đấu thầu, Murdoch giành quyền
kiểm soát đối với 38% cổ phiếu (trị giá 6,8 tỷ USD) của công ty truyền hình qua vệ tinh
DirecTV.
Trong năm 2005, Rupert Murdoch đã từng chi 580 triệu USD để giành lấy
MySpace trước con mắt tiếc rẻ của những công ty truyền thông khác. Trang web
MySpace.com do InterMix Media sở hữu, mới chỉ hai năm tuổi nhưng chỉ riêng 1 tháng
đã thu hút được 18 triệu lượt người tới để nghe hay xem hàng trăm ngàn nghệ sĩ cho
phép công chúng nghe thử các tác phẩm của họ trước khi chúng xuất hiện tại các cửa
hàng.Sau đó chỉ một năm, Google đã cam kết với News Corp về việc phân chia số tiền
900 triệu USD là doanh số quảng cáo cho 3 năm sau khi thỏa thuận trở thành công cụ
tìm kiếm trên mạng đặc biệt cho trang web MySpace. Cũng trong năm 2005, News
Corporation mua tiếp trang web Scout.com, một trang web thể thao trường học. Và vào
tháng 09/2005, News Corp tiếp tục mua lại IGN Entertainment, một trang web trò chơi
video và giải trí, với giá 650 triệu đôla
Năm 2007: Nhà tài phiệt truyền thông Rupert Murdoch đã thắng trong cuộc chiến
giành quyền kiểm soát đối thủ cạnh tranh của mình là hãng truyền thông Mỹ Dow Jones,
chủ sở hữu của tờ nhật báo nổi tiếng phố Wall. Tin tức cho biết chủ sở hữu News
Corporation sẽ trả 5,6 tỉ USD cho Dow Jones sau khi hai bên đạt được thoả thuận cuối
cùng. Điều quan trọng nhất là ông trùm Murdoch đã thành công trong việc đảm bảo sự

hậu thuẫn của gia đình Bancroft hiện là chủ sở hữu 64% số cổ phần trong Dow Jones. Tờ
nhật báo phố Wall là một trong những tờ báo thành công và có ảnh hưởng nhất trên thế
giới. Trong những năm trở lại đây, tờ báo này có số lượng phát hành lớn nhất trong số
các tờ báo ở Mỹ là 1,7 triệu tờ mỗi ngày.
Tờ nhật báo phố Wall được biết đến về các bài tường thuật và bình luận có giá trị
mặc dù không phải tất cả đều đồng ý với những quan điểm của tờ báo này vốn được xem
là rất bảo thủ. Giới chính trị và tài chính đánh giá đây là tờ báo "phải đọc" và đến mức
nó có biệt danh là "kinh thánh của công việc". Tờ nhật báo phố Wall phát hành bản châu
Á năm 1976 và bản châu Âu năm 1983. Hiện trang web của tờ báo này có hơn 930 ngàn
độc giả thuê bao.
Trong khi đó, tập đoàn truyền thông Dow Jones sở hữu nhiều công ty chuyên cung
cấp thông tin tài chính như hãng tin tài chính Dow Jones Newswires cùng những tờ báo
và kênh truyền hình khác.
Tập đoàn truyền thông News Corp đã
khiến nhiều nhà phân tích ngạc nhiên khi
quyết định đặt giá đầu tiên đến 5 tỷ USD để
mua Dow Jones vào tháng 5 vừa qua. Được
biết, ông Murdoch trước đó đã chú ý tới tờ
nhật báo phố Wall vốn được đánh giá như
viên kim cương trên vương miện của công
việc kinh doanh của Dow Jones. Hầu hết
các tờ báo của News Corp hoạt động trong thị trường nội địa, trong khi tờ nhật báo phố
Wall là một trong số ít các thương hiệu báo chí mang tính toàn cầu. Việc sở hữu tờ nhật
báo này đã đánh dấu một thành công mới và góp phần làm cho thương hiệu News Corp
ngày càng trở nên nổi tiếng.
Mặc dù ban điều hành của Dow Jones đã ủng hộ thỏa
thuận về thương vụ này nhưng một trong những Giám đốc
của hãng, ông Dieter von Holtzbrinck đã từ chức để phản
đối vì lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc lập trong
biên tập của tờ nhật báo phố Wall tuy News Corp đã hứa sẽ

tôn trọng và bảo vệ vị trí của tờ báo.
Theo nhiều chuyên gia phân tích, Rupert Murdoch bỏ ra hơn 5 tỉ USD để mua tờ
báo này bởi bốn bốn mối lợi được xem xét: mở rộng thị phần của tập đoàn ra toàn cầu vì
trước giờ báo của News Corporation chỉ là báo địa phương; nâng cao thanh danh của
vương quốc Murdoch nhờ vào uy tín nghề nghiệp của WSJ trong giới kinh doanh toàn
cầu; tìm thêm lợi tức trên thị trường cổ phiếu và cuối cùng, hưởng lợi từ thị trường
quảng cáo tăng mạnh sau thương vụ thắng lợi này.
Năm 2008: Rupert Murdoch “nhảy” vào tranh giành Newsday cùng hai ông lớn
khác trong ngành kinh doanh truyền thông ở New York. Đây là tờ báo in lớn nhất của
Long Island – hòn đảo ở phía Tây Nam thành phố New York thuộc tập đoàn truyền
thông Tribune.
Tập đoàn truyền thông Tribune, chủ nhân của tờ báo in
Newsday - vừa công bố bản báo cáo tài chính trong năm
2007. Chỉ tính riêng quý tư của năm 2007, tờ báo đã chịu lỗ
78.8 triệu USD. Con số này quả là không tưởng tượng được
nếu đem so với mức lợi nhuận 239 triệu đô cùng kỳ năm
trước đó. Cả năm 2007, Newsday chỉ thu lãi khoảng87 triệu
đô – giảm 594 triệu so với năm 2006.
Ba đại gia được điểm mặt đặt tên trong cuộc chiến
tranh giành Newsday lần này gồm có Rupert Murdoch, chủ tịch tập đoàn News
Corporation, ông chủ của tờ The New York Post; Mortimer B.Zuckerman – nhà kinh
doanh bất động sản và là chủ nhân của tờ The Daily News; James L.Dolan - thành viên
trong tập đoàn gia đình quản lý Cablevision – một kênh truyền hình cáp.
Mùa thu năm 2007, Newsday đã từng báo cáo mức phát hành ấn phẩm mỗi tuần đạt
khoảng 387.000 tờ - đứng thứ 10 trong top những tờ báo in bán chạy nhất trong cả nước
(và là mức cao nhất dành cho một tờ báo chỉ phục vụ nhu cầu thông tin cho người đân ở
vùng ngoại ô chứ không hẳn trong nội vi thành phố). Trong khi đó, The Daily News và
The New York Post lần lượt chiếm vị trí thứ năm và sáu với số lượng phát hành ở mức
tương đương nhau, vào khoảng 681.000 và 667.000 tờ. Điểm mạnh của The Daily News
nằm ở số ấn phẩm phát hành dành riêng cho ngày Chủ nhật đạt 726.000 tờ năm 2007.

Đây cũng được xem là “ngày cuối tuần rực rỡ” cho các hoạt động quảng cáo trên trang
báo. Trong khi đó, đã nhiều năm nay tờ New York Post không phát hành báo vào Chủ
nhật.
Ông trùm truyền thông hoàn toàn không đề nghị “mua đứt” Newsday. Ngược lại,
ông ta chỉ đưa ra bản hợp đồng theo mô hình liên doanh giữa The Post và Newsday. Bởi
vì Murdoch cho rằng làm như thế cả hai bên đều được lợi và mối quan hệ giữa hai nhà
điều hành của hai tờ báo sẽ trở nên khăng khít hơn. Cả hai bên đã bàn bạc một hợp đồng
trong đó Tribune sẽ chịu trách nhiệm in ấn The Wall Street Journal ở hai bang Florida và
Los Angeles. Sở hữu Newsday có thể sẽ mang lại cho ông trùm Murdoch một cơ hội
vàng để gia tăng sức ép lên tờ The Daily News.
Hiện nay, News Corporation đã vươn tầm thành một trong những tập đoàn truyền
thông báo chí hàng đầu của thế giới với gần 50 nghìn nhân viên làm việc tại hơn 170 chi
nhánh đặt tại khu vực châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Theo số liệu thống kê năm 2006, tổng
thu nhập của News Corporation ước tính đạt 25,327 tỷ USD.
3. Nguyên nhân dẫn đến tập trung hóa
Quá trình tập trung hóa bắt đầu từ trước năm 1914, thực ra là vào khoảng năm
1892, khi Scripps cùng bạn làm ăn của mình thành lập “chuỗi mắt xích” hay còn gọi là
“báo dây chuyền” đầu tiên trong số 5 tờ báo. Hiện tượng “báo dây chuyền” ra đời nhằm
“khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện
nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ
sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh báo chí
nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là người đưa ra công thức để thành lập
hệ thống báo chí:
- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và
đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ
báo.
- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ
nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh
thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có

giá đồng loạt 1 xu.)
- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng
lớp người nghèo.
Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện nay
vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình. Hay nói cách khác nó là
những biểu hiện đầu tiên của quá trình tập trung hóa báo chí.
Những điều kiện tiền đề dẫn đến sự tập trung hóa báo chí có thể kể đến là:
• Những tiến bộ về khoa học kỹ thuật:
- Những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời bấy giờ như: 1925: sự phát triển của
máy truyền ảnh (bélinographe) được sử dụng rộng rãi trong việc truyền ảnh đi xa. Điện
thoại xuất hiện trong những năm 1880 rồi cũng được sử dụng rộng rãi trước đó làm thay
đổi sâu sắc cung cách làm báo. In ty-pô vẫn là phương thức in phổ biến của báo chí song
lỹ thuật in hélio và ốp – xét tiến bộ rất nhanh. Hai kỹ thuật này chủ yếu để in các tạp chí.
Tiến bộ của hélio(in ảnh chìm) càng phân biệt rõ nhật báo với những báo khác, nhất là
kỹ thuật này cho phép in màu đẹp. Mỗi nhà in báo giờ đây bao gồm những xưởng
chuyên khắc ảnh, in ảnh; phần minh họa bằng tranh ảnh tăng lên rất nhiều trên các trang
báo. Sự chuyển biến này, đã khởi đầu từ hồi đầu thế kỷ, làm biến đôi bộ mặt các báo, sự
hấp dẫn của báo không còn chỉ ở phần “đọc”.
- Thời kỳ này việc đòi hỏi ấn hành nhật báo hay báo chí định kỳ đòi hỏi
những phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực lớn đến mức chỉ có những cơ sở báo chí
cỡ lớn mới đảm đương nổi. Từ những máy in quay đầu tiên cho đến máy in linô, ngành
in liên tục có những tiến bộ mới, tốc độ in báo rất nhanh mặc dù mỗi số báo có số trang
càng ngày càng tăng. Những vật tư đắt tiền và cồng kềnh đòi hỏi số tiền đầu tư, cả động
sản và bất động sản lớn.
• Những khó khăn về kinh tế:
- Sự tập trung hóa báo chí diễn ra còn do những cạnh tranh càng ngày càng
được đẩy nhanh qua các cuộc khủng hoảng kinh tế. Tiền sụt giá ở phần lớn các nước
buộc báo phải tăng giá bán, tự nhiên số người mua báo giảm đi và chỉ có những cơ sở
lớn, vững mạnh mới chống chọi lại được. Ví dụ: ở Nhật năm 1917 báo bán 10xu, tăng
lên 15 xu vào năm 1919, 20 xu năm 1920, 25 xu năm 1925, 30 xu năm 1936, 40 xu năm

1937, 50 xu năm 1938 và 1 phrăng năm 1941. Mỗi lần tăng giá là một lần sụt mạnh số
phát hành; tương tự như vậy ở Paris (Pháp) số lượng các đầu nhật báo giảm dần: giảm từ
40 xuống 32, vào năm 1920 báo ở các tỉnh là 220 tờ giảm xuống xuống 175 tờ vào năm
1939.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1930 có hậu quả tai hại đến báo chí,
làm giảm số lượng phát hành, giảm cả nguồn thu từ quảng cáo. Vật tư tăng giá, việc
nâng cao số lượng và chất lượng nội dung khiến giá thành in báo tăng lên, lương trả cho
nhà báo, phóng viên, nhân viên cũng tăng sức ép của công đoàn – mà công nhân ngành
báo chí là một tổ chức đặc biệt mạnh. Tất cả những sức ép đó dẫn đến việc tập trung hóa
để giải quyết những khó khăn này.
• Những cải cách có lợi từ chính trị:
- Từ năm 1871 đến 1879, báo chí vẫn bị các chính phủ đè nén dưới một quy
chế khá nặng nề. Ví dụ ở Pháp: trong cuộc khủng hoảng ngày 16/5/1877: chính phủ
Broglie tìm mọi cách có thể nhằm gây áp lực với cử tri và với những ứng cử viên đối lập
để mình được thắng cử. Các báo có xu hướng cộng hòa phải hứng chịu rất nhiều biện
pháp có khi rất độc đoán, chỉ trong vài tuần có tới hơn 2.000 vụ báo chí ra tòa. Song kế
hoạch đó bị thất bại, và đây là lần cuối cùng báo chí bị chèn ép.
- Sau đó mối quan hệ giữa chính phủ và báo chí dần dần được cải thiện. Phía
chính phủ cho rằng báo chí với sự cạnh tranh lẫn nhau, chia rẽ nhau, chỉ tác động một
cách mơ hồ vào dư luận, khả năng kích động những phong trào lớn như những cuộc biểu
tình cách mạng sẽ không cao. Sự thừa nhận tự do báo chí và sự bãi bỏ những hạn chế về
tính độc quyền góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung hóa. Trong thập kỷ
cuối của thế kỷ XX các đạo luật chống độc quyền trong lĩnh vực các phương tiện thông
tin đại chúng đã mang tính chất tự do hóa đáng kể. Những cải cách này diễn ra ở nhiều
nước mà đầu tiên là ở Mỹ. Ví dụ, chính phủ Mỹ đã hủy bỏ lệnh cấm các công ty cung
cấp dịch vụ điện thoại không được phép thành lập các trường quay của đài truyền hình
cáp. Ở nhiều nước không còn hạn chế về số lượng đài truyền hình thuộc quyền sở hữu
của một cá nhân hoặc một pháp nhân. Đã hủy bỏ những hạn chế đối với việc sở hữu
cùng lúc các đài phát sóng và các kênh truyền dẫn bằng cáp( Nếu như trước kia luật quy
định một chủ nhân không thể có nhiều hơn 50% số đài phát dành cho một t ầng lớp xã

hội. một chủ nhân mạng lưới truyền hình không thể phục vụ hơn 35% số khán giả trên
cùng một địa bàn ấy và chỉ có quyền sở hữu một đài phát(có thể tối đa là hai ở một số
nước) cho một tầng lớp xã hội). Đã có sự cho phép các đài phát thanh trên sóng cực ngắn
phát lại các chương trình phát sóng trên các đài phát thanh sóng trung.…. Nói một cách
khác, pháp luật đã ủng hộ, đồng tính, mở đường cho tập trung hóa phát triển nhanh,
mạnh tất yếu dẫn đến dự hình thành các tập đoàn báo chí hùng mạnh ở các nước TBCN.
Tất cả những nguyên nhân trên chính là những tiền đề quan trọng để dẫn đến sự tập
trung hóa báo chí và sự hình thành nên các tập đoàn báo chí.
4. Những biểu hiện của tập trung hóa báo chí
- Quá trình giản bớt số lượng của những tờ báo độc lập:
+ Cả hai xu hướng phát triển theo chiều dọc và liên kết, bành trướng theo chiều
ngang của các tập đoàn báo chí đều dẫn tới một kết cục chung là tình trạng tập trung,
độc quyền ngày càng tăng. Nếu như vào năm 1892, “chuỗi mắt xích” đầu tiên ra đời ở
Mỹ với sự góp mặt của 5 tờ báo, thì ngày nay, 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết
các phương tiện truyền thông đại chúng của nước Mỹ. Theo một nghiên cứu của tờ The
Washington Post, trong những năm tới, chắc chắn toàn bộ báo chí Mỹ sẽ tập trung trong
12 tập đoàn lớn nhất. Ở các nước châu Âu, tình trạng cũng diễn ra tương tự. Nhiều tờ
báo nhỏ hoặc là đóng cửa, hoặc là trở thành bộ phận của các công ty lớn. Nhiều tờ báo
nổi tiếng cũng không thể tồn tại độc lập mà đã phải bán lại cho các tập đoàn xuyên quốc
gia.
+ Năm 1999, ở Mỹ trong tổng số 1489 tờ báo hằng ngày thì chỉ có 269 tờ nghĩa là
18% là những tờ báo độc lập còn lại thì đều thuộc quyền ở hữu của các tập đoàn báo chí.
Tổng số các tờ báo hàng ngày cũng tiếp tục giảm. Năm 1998 đã có 20 tờ báo hằng ngày
đóng cửa, tính đến tháng 2/1999 chỉ còn 1489 tờ báo. Trong 10 năm trở lại đây đã có
153 tờ báo hằng ngày chấm dứt tồn tại.Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc này
cũng phải kể đến sự thâu tóm của các tập đoàn báo chí đối với các tờ báo độc lập.
- Sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn:
Tỉ lệ tài chính trong những phương tiện truyền thông đại chúng chính
Lượng tiền mặt khổng lồ cho các
hoạt động sáp nhập và thôn tính

gần đây
Giá của thị trường chứng
khoán với tư cách là lượng
tiền mặt tăng lên
Báo in 9.5 lên 14 7.9
Truyền hình 10.6 lên16.1 7 - 8
Hệ thống điện tín 9.4 lên 11.1 8.5
Nguồn: Levingston, Steven and Terence O’Hara. “M cClatchy’s Paper Chase:
Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.” Washington Post, 14
March 2006, p. D1.
Bảng trên thể hiện rõ những số liệu tài chính được trích dẫn theo nguồn của các tập
đoàn báo chí thời gian gần đây mà hình thành trên con đường thôn tính, mua lại, sáp
nhập. Có thể nhận thấy trong cả lĩnh vực báo in và truyền hình thì các công ty càng ngày
càng có xu hướng thích “trở nên to ra” nếu như việc đó đem lại lời ích thiết thực cho họ.
(trích lời của Levingston, Steven and Terence O’Hara trong “M cClatchy’s Paper Chase:
Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.”)
+ Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản ngày nay, các công ty báo chí truyền
thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công
ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh để thành lập nên các tập đoàn báo chí. Với việc bỏ
ra hàng tỷ đô la, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo
chí, truyền thông đại chúng, tạo ra quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng vượt ra ngoài
biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Điều này dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập
đoàn báo chí lớn trên toàn thế giới đặc biệt là ở các nước TBCN phát triển. Theo số liệu
của Công ty nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007, trên toàn thế
giới đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sáp nhập, mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo chí
truyền thông với tổng giá trị lên đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp nhập
giữa Google và Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp nhập
giữa Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD.
+ Thế giới đang chứng kiến sự tập trung cuồng nhiệt các phương tiện truyền thông.
Từ nhiều năm nay, trong thế giới phương Tây, những ông trùm tư bản ngự trị trong

ngành truyền hình, báo chí và điện ảnh như Ruppert Murdoch, Chủ tịch kiêm Tổng giám
đốc News Corp; Gerald Levin, Chủ tịch Hãng American Online (AOL) Time Warner;
Thomas Middelhoff, đứng đầu Tập đoàn Bertelsmann; hay Jean - Marie Messier, Chủ
tịch Vivendi Universal, đã và đang tiến hành cái gọi là “cuộc chạy đua bành trướng
khổng lồ” bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh
tranh. Bỏ ra hàng tỷ Đôla Mỹ, các ông chủ này, phần lớn là người Mỹ, đã đẩy nhanh
những sự tập hợp mới trong những ngành chiến lược và do vậy, đã tương đồng hoá trên
toàn hành tinh việc xuất bản âm nhạc, các chương trình truyền hình và cả những bộ phim
truyện dài trực tiếp xuất xưởng từ Hollywood. Quyền lực chi phối của các tập đoàn này
gần như mọi mặt của đời sống văn hoá.
Ví dụ như: Công ty Điện lực General Electric năm 1986 đã mua mạng truyền hình
Mỹ NBC; Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát
hệ thống truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 là mạng Mediaone. Từ năm 1995,
Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount, và Hãng Truyền hình CBS;
Walt Disney đã mua các hãng TV, ABC, Tập đoàn Time Warner đã hợp nhất với Turner
Broadcasting; Tập đoàn Bertelsman và Audiofina đã thành lập Tập đoàn CLT-UFA.
Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal
Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất với Seagram, trở thành Mỹ hoá và là tập
đoàn truyền thông lớn thứ hai thế giới. Rupert Murdoch đã len chân vào ngành Truyền
hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia và Đức.
Năm 2004, tính theo doanh số, trên thế giới có 7 tập đoàn truyền thông lớn được
xếp hạng như sau: AOL Time Warner: 38 tỷ USD; Vivendi Universal: 27 tỷ USD;
News Corporation: 25,5 tỷ USD; Walt Disney: 25 tỷ USD (Bao gồm hãng ABC
Network, Disney Channel, Walt Disney Pictures, Infoseck...) Viacom: 23 tỷ USD;
Comcast: 19 tỷ USD (Bao gồm CBS, MTV, Paramount....)
- Sự tập trung quyền lực báo chí vào tay một số ít nhân vật:
+ Quá trình tiến công vào các phương tiện thông tin đại chúng đã dẫn đến sự tập
trung tất cả các mạng lưới báo chí vào tay một số ít nhân vật. Theo tính toán của các
chuyên gia Mỹ thì có 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện thông tin
đại chúng ở Mỹ: 20 tập đoàn trong số đó nắm một nửa tổng số các tờ báo trên cả nước, 4

tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập đoàn kiểm soát ngành phát thanh, 12 tập
đoàn thống trị ngành xuất bản sách, 4 tập đoàn ngự trị trong ngành điện ảnh. Đầu những
năm 1980 nếu như tất cả các thành phố Mỹ đều có những tờ báo ngày thì 98% trong số
đó đặt dưới quyền kiểm soát của một trung tâm. Trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở
Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở hữu của các tập đoàn báo chí.
+ Khi thâu tóm hoặc sáp nhập các tờ báo khác vào tập đoàn của mình, thường thì
tính chất, định hướng, sắc thái cũng thay đổi theo tùy thuộc vào quan điểm, chính kiến
của chủ sở hữu chúng. Ví dụ tiêu biểu là dưới đế chế báo chí của Rupert Murdoch, sau
khi ông mua lại các tờ báo như New York Post, Chicago, The Sunday Times… thì ngay
sau đó đã có những thay đổi chính sách của bạn biên tập cũng như nội dung của tờ báo.
Chính vì vậy, khi Rupert Murdoch quyết định mua lại tờ nhật báo phố Wall thì một
trong những Giám đốc của hãng, ông Dieter von Holtzbrinck đã từ chức để phản đối vì
lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc lập trong biên tập của tờ nhật báo phố
Wall.Tờ nhật báo phố Wall được biết đến với các bài tường thuật và bình luận có giá trị.
Tuy News Corp đã hứa sẽ tôn trọng và bảo vệ vị trí của tờ báo nhưng News Corp và
Dow Jones đã thỏa thuận thành lập một ủy ban đặc biệt gồm 5 người sẽ quyết định việc
tuyển dụng hoặc sa thải Tổng biên tập tờ nhật báo phố Wall, các biên tập viên và Tổng
biên tập tờ Dow Jones Newswires. Ủy ban này sẽ là một phần của những thỏa thuận sau
cùng và được quyết định dựa trên ý kiến thống nhất của cả hai phía News Corp và Dow
Jones trong thời gian sắp tới.
- Sự thống trị của các tập đoàn này đến thị trường báo chí trong nước và quốc
tế:
+ Hoạt động xuất bản các tờ báo và các tạp chí lớn nhất ở một số nước có nền báo
chí phát triển cao đều tập trung vào tay các tập đoàn báo chí lớn(các côngxoocxiom xuất
bản, các tờ - rớt báo chí…). Ví dụ: tập đoàn báo chí “Ganet”: năm 1966 tập đoàn này sở
hữu 26 tờ báo hàng ngày và 6 tờ báo chủ nhật. Trong những năm 1980, nó có ảnh hưởng
đối với 88 tờ báo hằng ngày và 23 tờ tuần báo, 13 đài phát thanh và 17 đài truyền hình.
Tính đến năm 2004, ở Mỹ chỉ còn 5 tập đoàn truyền thông chi phối hệ thống
truyền thông Mỹ
Chỉ riêng việc thôn tính “Evening News Association” đã cho phép tập đoàn này mua lại

hàng chục tờ báo, 2 đài phát thanh và 5 đài truyền hình. Ngoài ra tập đoàn này còn có cổ
phần trong một loạt công ty điện ảnh, các tổ chức thăm dò công luận, các mạng lưới
truyền hình, bao gồm cả truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh ở 35 nước. Cũng tương
tự như vậy, tập đoàn “Capital city communication” trước đây đã từng sở hữu 40 ấn phẩm
định kỳ, 12 đài phát thanh và 7 đài truyền hình, thì đến nay đã mua lại dãng truyền hình
“BBC”. Điều này đã đem lại cho tập đoàn này thêm 12 đài phát thanh và 5 đài truyền
hình cộng với hệ thống cung cấp các chương trình của mình cho 1596 đài phát thanh và
214 đài truyền hình nữa. Qua các con số trên ta có thể phần nào hiểu được bàn tay của
các tập đoàn đã bao phủ gần như toàn bộ nền báo chí của một nước và bắt đầu vươn ra
các nước khác, các châu lục khác. Sự thịnh vượng của đế chế báo chí Rupert Murdoch
cũng là một bằng chứng rõ nét cho sự thống trị của các tập đoàn báo chí đến với nền
truyền thông.
+ Những tập đoàn báo chí lớn thường xuyên bắt tay với những tổ chức ngân hàng
độc quyền quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Chính sự bắt tay, xâm nhập lẫn nhau về quyền
lợi giữa giới tư bản công nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng đã đem lại
những khoản lợi nhuận chưa từng thấy trước đây. Một nghiên cứu của giáo sư Piter
Phillips, trường Đại học Sonoma cho thấy 118 người là thành viên hội đồng quản trị của
10 tập đoàn báo chí lớn nhất nước Mỹ cũng đồng thời có mặt ở hội đồng quản trị của
288 tập đoàn kinh tế khác. Trong khi các tập đoàn The tribune, New York Times và
Gannett đều có thành viên ở hội đồng quản trị của tập đoàn Pepsi, thì Coca Cola và J.P.
Morgan lại có đại diện chia xẻ ghế hội đồng quản trị của cả NBC và Washington Post.
Thực tế này cho thấy sự liên kết rất chặt chẽ giữa các tập đoàn báo chí với các tập đoàn
kinh tế. Điều này khiến cho các trùm truyền thông này dễ dàng mua lại lại sáp nhập với
các công ty hoặc các tờ báo mà họ muốn qua việc sử dụng những mối quan hệ chính trị
cũng như thương mại của mình trong việc đạt được những ấn phẩm, hay công ty mà họ
muốn có.

×