Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.13 KB, 27 trang )

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương
mại
1.1.1Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại, ở các nước có
nền tài chính tự do hoá thì Ngân hàng thương mại được quan niệm là một doanh
nghiệp đặc biệt, tiến hành hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục tiêu
chủ yếu là lợi nhuận. Còn ở một số nước khác lại cho rằng Ngân hàng thương mại
là một tổ chức hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi dựa trên
nguyên tắc hoàn trả, cho vay, chiết khấu. Tuy nhiên để có một quan niệm chính
xác nhất về Ngân hàng thương mại thì nên dựa vào những loại hình dịch vụ mà các
Ngân hàng thương mại cung cấp, từ đó người ta có quan niệm: “Ngân hàng thương
mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”.
Thật vậy, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò là thủ quỹ của toàn xã hội. Hàng triệu cá
nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân
hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần với chính phủ. Trong đó, đối với các
doanh nghiệp, Ngân hàng thường cung cấp các khoản tín dụng phục vụ cho nhu
cầu mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi
doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và
dịch vụ họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng và các tài khoản điện
tử... Và khi họ cần thông tin hay lập kế hoạch tài chính họ thường đến Ngân hàng
để nhận được lời tư vấn.
Như vậy, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế.
- Hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm: nghiệp vụ nợ (huy động


vốn), nghiệp vụ có (cung cấp tín dụng) và nghiệp vụ trung gian( dịch vụ thanh
toán, dại lý, tư vấn...). Ba loại nghiệp vụ trên có mối liên hệ mật thiết với nhau,
chúng thúc đẩy nhau cùng phát triển để từ đó tạo nên uy tín cho Ngân hàng.
- Từ hình thức đầu tiên là Ngân hàng thợ vàng ở thế kỷ 15, đến nay Ngân
hàng thương mại đã trở thành Ngân hàng hiện đại với các chức năng và dịch vụ đa
dạng, và được coi là bách hoá tài chính.
- Ngân hàng thương mại được tổ chức dưới các hình thức:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân
hàng thương mại 100% vốn nước ngoài, Ngân hàng thương mại liên doanh, Ngân
hàng thương mại tư nhân.
+ Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ, trong đó Ngân hàng bán buôn là
Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các công ty tài chính,
Nhà nước, các doanh nghiệp lớn. Còn Ngân hàng bán lẻ là Ngân hàng chủ yếu
cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho hộ gia đình, các cá nhân, các doanh nghiệp nhỏ -
với các khoản tín dụng nhỏ. Với xu thế phát triển hiện nay, rất ít Ngân hàng chỉ có
bán buôn hoặc chỉ có bán lẻ mà chủ yếu là kết hợp cả hai.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
- Hoạt động kinh doanh ngoại hối:
Đây là hoạt động đầu tiên mà Ngân hàng thực hiện với nội dung là Ngân hàng
đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và thu được lợi
nhuận nhờ chênh lệch giá và phí dịch vụ. Ngày nay hoạt động này đã mở rộng ra
với rất nhiều các hình thức dịch vụ phong phú: mua bán, trao đổi, gửi vay các loại
ngoại tệ với các nghiệp vụ như giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương
lai. Các Ngân hàng thương mại tham gia giao dịch ngoại hối với hai mục đích. Thứ
nhất, Ngân hàng cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ
cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và Ngân hàng thu một khoản phí. Mục đích thứ hai
là Ngân hàng kinh doanh ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá thay đổi.§ - Hoạt
động huy động vốn:
Các Ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh
tế để duy trì hoạt động và phát triền cần vốn. Nguồn vốn của Ngân hàng gồm có

vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sử hữu và vốn uỷ thác đầu tư. Để thực hiện hoạt
động này Ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành các giấy nợ hoặc cổ phiếu với cam
kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hẹn kèm theo một khoản tiền gọi là tiền lãi. Việc
huy động được càng nhiều vốn sẽ càng tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng kinh
doanh do đó các Ngân hàng luôn tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí thấp và ổn
định, đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy nợ nhằm thu hút được
nhiều vốn trong nền kinh tế.
- Hoạt động sử dụng vốn:
Đây là hoạt động Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư
hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của
Ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh
hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài sản bằng cách đầu tư
vào các giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty ... Các hoạt động
đầu tư và tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nhưng lại chứa
đựng nhiều rủi ro nên các Ngân hàng thường rất thận trọng khi thực hiện hoạt động
này.
- Các hoạt động khác:
Các hoạt động Ngân hàng khác có thể kể ra ở đây như là hoạt động bảo quản
vật có giá, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân
quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung
cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, bảo
hiểm, dịch vụ đại lý ... Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập cho Ngân hàng
thông qua viêc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Do vậy các Ngân hàng hiện đại ngày
nay đang mở rộng hoạt động dịch vụ này nhằm tăng nguồn thu giảm bớt rủi ro.C
1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm:
Cho vay là hoạt động mang tính truyền thống và là chức năng kinh tế hàng
đầu của các Ngân hàng giúp Ngân hàng thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu
tư. Ngân hàng thương mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản suất, kinh doanh, đời sống và cũng có thể cho các tổ

chức, cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
suất kinh doanh
Nhiều người vẫn đồng nghĩa hoạt động cho vay và hoạt động tín dụng của
Ngân hàng là một nhưng thực ra không phải vậy. Tín dụng rộng hơn cho vay, nó
bao gồm cho vay và các hoạt động khác như chiết khấu thương phiếu, cho thuê tài
chính... Có thể hiểu rằng: Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá)
giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản
cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh
toán.
Đối với hầu hết các Ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 thu nhập của Ngân hàng. Đồng thời, rủi ro
trong các hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản
cho vay. Vậy thực ra Ngân hàng đã thực hiện những khoản cho vay nào?
1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để Ngân hàng phân loại cho vay như: theo
thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tượng cho vay, theo phương thức cho vay,
theo nguồn cho vay... Cụ thể như:
- Theo đối tượng tham gia vào quy trình cho vay:-
+ Cho vay trực tiếp: là loại hình cho vay mà Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho
người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay qua các tổ chức trung gian. Tổ chức
trung gian ở đây có thể là các tổ, hội, đội nhóm như nhóm sản suất, hội nông dân,
hội phụ nữ.. hoặc các công ty bán lẻ. Đối với các công ty bán lẻ, Ngân hàng sẽ mua
lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
- Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
+ Cho vay có bảo đảm: l à loại hình cấp tín dụng dựa trên các bảo đảm như
thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo.

Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai, bổ
xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp.
cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh,
có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín
dụng dựa vào uy tín bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai
bổ sung.
- Theo mục đích sử dụng vốn:
+ Cho vay nhằm mục đích sản suất kinh doanh: Ngân hàng cho các tổ chức,
doanh nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án
đầu tư, các phương án sản suất.
+ Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho các cá nhân hay hộ gia đình vay để đáp
ứng nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận
chuyển...
Cho vay tiêu dùng là một trong những dịch vụ Ngân hàng mới phát triển gần
đây nhưng đã tỏ rõ được ưu thế của nó so với các khoản cho vay khác của Ngân
hàng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành xu hướng tất yếu để các
Ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm
Hoạt dộng cho vay tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng (người
cho vay) và các cá nhân, người tiêu dùng (người đi vay) nhằm tài trợ cho các
phương án phục vụ đời sống, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ khi người
tiêu dùng chưa có khả năng thanh toán trên nguyên tắc người tiêu dùng sẽ hoàn trả
cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Nếu như cho vay sản xuất kinh doanh là một hình thức tín dụng mà các
Ngân hàng thương mại cấp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm tài trợ
cho các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh... thì cho vay tiêu dùng lại là

một sản phẩm tín dụng rất hữu ích nhằm tài trợ cho những nhu cầu tiêu dùng của
cá nhân, hộ gia đình hoặc để mua cổ phiếu hay trái phiếu. Như vậy, khác với các
khoản cho vay sản xuất kinh doanh - các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế sử dụng
vốn vay để tài trợ cho vốn lưu động, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết
bị..., các khoản cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá
dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể hướng tới một cuộc
sống cao hơn như mua xe, các dụng cụ dân dụng, chi phí nghỉ ngơi, du lịch...
Đối tượng của tín dụng tiêu dùng rất nhiều dạng, nhiều trường hợp nhưng
có thể khái quát thông qua các trường hợp phổ biến sau:
- Các đối tượng có thu nhập thấp: có nhu cầu tín dụng không cao, việc vay
vốn nhằm tạo ra cân đối giữa thu nhập và chi tiêu.
- Các đối tượng có thu nhập trung bình: nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng
mạnh, đối tượng này muốn vay tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích luỹ, dự phòng
của mình để tiêu pha.
- Các đối tượng có thu nhập cao: vay tiêu dùng nhằm tăng khả năng thanh
toán và coi nó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích luỹ của
mình chưa cao hay lợi nhuận do đầu tư mang lại chưa thu được. Trường hợp này
tương đối phổ biến và phát triển. Các đối tượng trên có thể đại diện cho các đối
tượng khác như cán bộ công nhân viên thuộc khu vực Nhà nước, liên doanh, tiểu
thương và các cán bộ Ngân hàng.-
1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Nhìn chung, tín dụng tiêu dùng có những đặc điểm sau:
- Giá trị món vay thường nhỏ lẻ, phân tán nhưng số lượng các món vay thì lại
rất lớn
Các khách hàng thường tìm đến Ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng
thông thường có nhu cầu vay vốn không lớn, thậm chí còn khá nhỏ. Điều này là do
giá của hàng hoá dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ, hoặc khách hàng vay vốn đã
có được sự tích luỹ từ trước đối với các tài sản có trị lớn. Chính điều này đã dẫn
đến giá trị món vay tiêu dùng thường rất nhỏ, phân tán nên chi phí quản lý cao.
Tuy vậy, trên thực tế tổng quy mô vay tiêu dùng của Ngân hàng lại rất lớn, đó là vì

tuy mỗi món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng do đây là nhu cầu vay vốn khá
phổ biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên số lượng
khách hàng tìm đến Ngân hàng vay vốn là rất đông, khiến cho tổng quy mô vay
tiêu dùng lại trở nên khá lớn.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao
Loại hình cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá lớn,
cao hơn loại hình cho vay tài trợ sản xuất kinh doanh dưới cả ba góc độ:
+ Thứ nhất: Luôn tồn tại nhóm khách hàng chây ì, lừa đảo.
+ Thứ hai: Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất
nghiệp, bệnh tật, tâm lý tiêu dùng của dân cư, mức độ ổn định xã hội...
+ Thứ ba: Các rủi ro chủ quan như là tình trạng công việc hay sức khoẻ của
khách hàng, diễn biến tâm lý của khách hàng... ảnh hưởng đến tài chính và khả
năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình. Hoặc là do sự ảnh hưởng của các tổ chức
trung gian (đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các đơn vị chủ
quản...), đặc biệt là hình thức cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm cũng
mang lại rủi ro rất nhiều đối với loại hình cho vay này.
Tóm lại, khả năng trả nợ sẽ thay đổi nhanh chóng khi khách hàng thay đổi
điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ, đồng thời, khả năng bù đắp từ các nguồn khác
trong trường hợp có rủi ro hầu như không có.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao và cứng nhắc
Không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay
đổi theo điều kiện thị trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được cố định ở một
mức nhất định, và đặc biệt phổ biến trong cho vay tiêu dùng trả góp. Việc chia các
khoản vay thành nhiều kỳ hạn trả nợ (đối với cho vay tiêu dùng trả góp) hoặc quá
trình vay và trả nợ được thực hiện nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức
tín dụng (đối với cho vay tiêu dùng tuần hoàn như thẻ tín dụng, thấu chi) ngay từ
khi bắt đầu thời kỳ tín dụng khiến lãi suất cho vay mang tính cố định, hầu như
không thay đổi trong suốt quy trình tín dụng. Ngoài ra, do độ rủi ro cao của các
khoản vay tiêu dùng nên lãi suất trong cho vay tiêu dùng thường được ấn định khá
cao để bao gồm cả phần bù rủi ro. Và các khoản cho vay tiêu dùng càng nhiều rủi

ro thì lãi suất càng cao.
- Cho vay tiêu dùng thường có tính nhạy cảm theo chu kỳ
Thật vậy, số lượng các khoản cho vay tiêu dùng phụ thuộc chủ yếu vào nhu
cầu tiêu dùng của dân cư và cầu có khả năng thanh toán của họ, do đó nó có tính
nhạy cảm theo chu kỳ. Cho vay tiêu dùng sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát
triển - khi mà người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình kinh
tế xã hội đầy lạc quan. Và ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất
nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ cảm thấy không mấy tin tưởng vào tương lai, nhất
là khi họ thấy thu nhập của họ giảm xuống và xu hướng thất nghiệp ngày càng tăng
thì việc vay mượn Ngân hàng sẽ được hạn chế, đặc biệt là việc vay mượn dành cho
chi tiêu.
- Chi phí cho một khoản vay tiêu dùng là khá lớn
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong
danh mục tín dụng của Ngân hàng. Thực tế là quy mô mỗi món vay tiêu dùng
thường rất nhỏ, thời gian vay không kéo dài lâu, trong khi đó số lượng các món
vay tiêu dùng lại rất lớn. Hơn nữa, các thông tin về cá nhân thường không đầy đủ
và chính xác hoàn toàn. Điều này khiến cho Ngân hàng rất vất vả trong quá trình
cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng đến khâu giải ngân thu nợ.
Những điều kiện trên khiến cho việc thực hiện một khoản cho vay tiêu dùng của
Ngân hàng là khá tốn kém, mất rất nhiều chi phí cho các khoản vay này.
- Lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng là đáng kể
Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy thì các khoản tín dụng tiêu dùng có
được một mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của Ngân hàng. Bên cạnh đó,
số lượng các khoản vay tiêu dùng khá nhiều khiến cho tổng quy mô cho vay tiêu
dùng rất lớn, và cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng sẽ khiến cho
lợi nhuận thu về từ hoạt động cho vay là rất đáng kể trong tổng lợi nhuận của Ngân
hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi về đối tượng khách hàng
trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, cho vay tiêu
dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các Ngân hàng thương

mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ Ngân hàng cũng như quản lý Ngân hàng và
vẫn còn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong việc phát triển loại hình tín dụng
này trong tương lai. Tại các nước đang phát triển, loại hình cho vay này cũng đang
dần khẳng định được vai trò của mình, đem lại những lợi nhuận không nhỏ trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng.
1.2.2. Đối tượng của cho vay tiêu dùng
Do cho vay tiêu dùng là một hướng cho vay cụ thể của Ngân hàng bán lẻ nên
cách phân loại khách hàng cá nhân cũng tương tự như cách phân loại khách hàng
cá nhân theo nhóm thu nhập của Ngân hàng bán lẻ. Cụ thể là khách hàng cá nhân
của cho vay tiêu dùng cũng được chia làm ba nhóm như sau:
- Nhóm I: Những cá nhân có thu nhập cao.
Những người này thường cần đến tín dụng với tư cách là những khoản phụ trợ
linh hoạt, trợ giúp thêm khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt
vào những khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù sự vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng
chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản mà họ đang sở hữu, song họ lại
thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với những món tiền lớn. Và
chính vì lý do này mà các Ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến nhóm khách hàng
đi vay này.
- Nhóm II: Những cá nhân có thu nhập trung bình.NNhu cầu về tín dụng của
nhóm này có xu hướng tăng trưởng ngày càng mạnh. Việc mong muốn chi tiêu
ngay lập tức các nguồn tài chính trong tương lai hoặc việc không thể điều tiết nhu
cầu của mình mà chạy theo những chi tiêu có tính chất phô trương dẫn đến quá khả

×