Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.51 KB, 30 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1.1 Các hoạt động chính của NHTM
* Khái niệm NHTM: Theo luật các TCTD năm 2004 định nghĩa: ”NHTM là
ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu
kinh tế của Nhà nước”.
Theo dự thảo luật các TCTD định nghĩa: ”Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo
tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác”.
Theo quan điểm của Giáo sư Peter Rose, một nhà kinh tế Mỹ: “Ngân hàng
thương mại là một tổ chức tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”. Định nghĩa này thể hiện rõ phạm vi, quy mô cũng như
vai trò của NHTM trên thị trường tài chính - tiền tệ, đồng thời phản ánh được ảnh
hưởng của NHTM tới nền kinh tế của một nước.
* Các hoạt động chính của NHTM:
- Huy động vốn: NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
+ Nhận tiền gửi của các tổ chức cá nhân và các TCTD khác dưới các hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác;
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận;
+ Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ
chức tín dụng nước ngoài;
+ Vay vốn ngắn hạn của NHNN theo qui định tại khoản 1 Điều 30 Luật ngân
hàng Nhà nước Việt Nam;
+ Các hình thức huy động vốn khác theo qui định của NHNN.


- Hoạt động tín dụng: NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới
các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo qui định của NHNN.
+ Cho vay: NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức:
Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
đời sống; cho vay trung hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống.
+ Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy
tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh theo qui định
của NHNN.
+ Chiết khấu: NHTM được:
 Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ
chức, cá nhân;
 Tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các
tổ chức tín dụng khác.
+ Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải
thành lập công ty cho thuê tài chính. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công
ty cho thuê tài chính thực hiện theo nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt
động của công ty cho thuê tài chính.
- Dịch vụ thanh toán và ngân quĩ.
+ Mở tài khoản:
 NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN (Sở giao dịch hoặc chi nhánh
NHNN tỉnh, thành phố) nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi
dự trữ bắt buộc theo qui định; được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác trong
nước theo qui định của NHNN;
 Chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN tỉnh,
thành phố, nơi đặt trụ sở của chi nhánh;
 NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong nước và ngoài nước.
+ Dịch vụ thanh toán và ngân quĩ: NHTM được:

 Cung ứng các phương tiện thanh toán;
 Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
 Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ;
 Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định của NHNN;
 Thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép;
 Thực hịện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng;
 Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được
ngân hàng nhà nước cho phép.
Ngoài những hoạt động chính trên NHTM còn có thể có những hoạt động
khác như: được dùng vốn điều lệ và quĩ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh
nghiệp và của các TCTD khác trong nước theo qui định của pháp luật; Được tham
gia trên thị trường tiền tệ theo qui định của NHNN; Được trực tiếp kinh doanh
hoặc thành lập công ty trực thuộc có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng
vốn tự có để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường
quốc tế theo qui định của NHNN.
Trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng kể trên thì hoạt động tín dụng
chiếm phần chủ yếu và hoạt động tín dụng được tổ chức dưới nhiều hình thức tín
dụng khác nhau và tuỳ vào đặc điểm của mỗi NHTM mà phát triển loại hình nào
cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.1.2 Các hình thức tín dụng ngân hàng
* Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho
vay và người đi vay theo nguyên tắc có hoàn trả và có lãi suất. Bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín dụng đối
với khách hàng (QĐ 1627 của NHNN) “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng,
theo đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và

lãi.”
Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng thì “Hoạt động tín dụng là việc
tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng”
Căn cứ theo Điều 49 của Luật này về “Cấp tín dụng” thì TCTD được cấp tín
dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy
định của NHNN.
* Các hình thức tín dụng ngân hàng:
Việc nghiên cứu các hình thức tín dụng có thể theo các tiêu thức phân loại
khác nhau. Thực tế các nhà kinh tế học thường phân loại TD theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng: Tùy theo mỗi quốc gia khác nhau mà quy
định thời hạn tín dụng có thể khác nhau. Theo cách phân loại này, ở Việt nam có
thể chia tín dụng thành 3 loại:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, nhằm đáp ứng
các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến
hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Đặc điểm: đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh,
tránh được các rủi ro về lãi suất, về lạm phát cũng như sự bất ổn của môi trường kinh
tế vĩ mô. Vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác.
+ Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại TD
này thường được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này
thường được sử dụng để phát triển quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc theo
chiều sâu và kết quả là tăng mức sản xuất và của cải xã hội.
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn: Vì thời hạn dài và hiệu quả đầu tư
thường là dự tính nên loại tín dụng này chứa đựng mức rủi ro cao, kể cả rủi ro cá
biệt và rủi ro hệ thống. Mức rủi ro tăng và do đó lãi suất tăng lên cùng thời hạn
vay.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay.

+ Tín dụng đầu tư: Là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp để
tiến hành sản xuất và kinh doanh.
+ Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng cấp phát cho các cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng.
- Căn cứ vào đối tượng tín dụng.
+ Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ
hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình
thức chiết khấu.
+ Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản
cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và
công trình mới.
- Căn cứ mức độ đảm bảo.
Tín dụng đảm bảo: Là hình thức tín dụng có tài sản đảm bảo hoặc người bảo
lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay.
Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng không cần có tài sản thế
chấp, cầm cố hay bảo lãnh mà hoàn toàn dựa trên uy tín của khách hàng.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro.
Cách phân loại này đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nhà quản trị ngân
hàng đánh giá mức độ rủi ro của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp
thời. Theo cách phân loại này, tín dụng được phân thành:
+ TD lành mạnh: Là các khoản TD an toàn, có khả năng thu hồi vốn cao.
+ Tín dụng có vấn đề: Là những khoản tín dụng đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.
+ Tín dụng quá hạn khó thu hồi: Là những khoản tín dụng quá hạn quá lâu,
khả năng trả nợ kém, tài sản thế chấp bị giảm giá hoặc mất giá…
Ngoài ra trong quá trình phân loại người ta còn phân chia tín dụng căn cứ vào
xuất xứ tín dụng, phương pháp hoàn trả và một số các căn cứ khác tuỳ theo mục
tiêu nghiên cứu.
Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình

cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng nhằm mục đích
giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.1.1.3 Quy trình tín dụng
* Khái niệm.
Quy trình tín dụng là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cấp tín dụng
đối với khách hàng. Quy trình tín dụng phản ánh nguyên tắc tín dụng, phương
pháp, trình tự giải quyết các công việc, thủ tục hành chính và thẩm quyền giải
quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng.
* Nội dung.
Sự mở rộng hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn những rủi ro, vì vậy cần phải có
các biện pháp hạn chế và kiểm soát rủi ro. Một trong những biện pháp đó là thiết
lập một quy trình tín dụng chặt chẽ để hướng dẫn các nhân viên tín dụng và các bộ
phận có liên quan thực hiện việc cho vay đạt được hiệu quả cao nhất. Cho nên việc
thiết lập một quy trình tín dụng là một bộ phận căn bản của công tác quản lý tín
dụng, quy trính tín dụng của NHTM thường có 5 bước cơ bản sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình tín dụng chung của

Bước 1- Thiết lập hồ sơ tín dụng.
Hồ sơ tín dụng của một ngân hàng là tài liệu văn bản, biểu hiện mối quan hệ tổng
thể của ngân hàng với khách hàng. Bộ hồ sơ thường bao gồm các loại sau:
- Hồ sơ do khách hàng lập và cung cấp cho ngân hàng bao gồm: Hồ sơ pháp
lý, quyết định thành lập, điều lệ doanh nghiệp, phương án vay vốn, hồ sơ đảm bảo
TD...
- Hồ sơ do ngân hàng lập: Các báo cáo thẩm định, các báo cáo khác...
- Hồ sơ do ngân hàng và khách hàng cùng lập: Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng
bảo đảm tiền vay...
Giải
ngân
Giám sát
thu nợ và

thanh lý
HĐTD
Quyết định
cấp tín
dụng
Phân tích
tín dụng
Thiết lập
hồ sơ tín
dụng
Bước 2 - Phân tích tín dụng.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là thu thập và xử lý thông tin liên quan
đến khách hàng như: Năng lực pháp lý, mục đích vay vốn, uy tín của khách hàng,
năng lực tài chính của khách hàng, tính khả thi của dự án xin vay, tài sản đảm
bảo…
Bước 3- Quyết định cấp tín dụng.
Kết quả của quá trình phân tích tín dụng là đưa ra quyết định cấp tín dụng.
Trên cơ sở hồ của khách hàng và tờ trình của cán bộ tín dụng, cấp trên xem xét
kiểm tra lại xem có cấp tín dụng hay không. Nếu yêu cầu được chấp thuận thì lãnh
đạo ngân hàng được phân quyền cùng khách hàng tiến hành ký kết hợp đồng tín
dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Bước 4 - Giải ngân.
Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng được
cấp đã được phê duyệt. Cơ sở để ngân hàng thực hiện giải ngân là kế hoạch sử
dụng vốn tín dụng đã được nêu trong hợp đồng tín dụng Sau khi HĐTD đã được
ký kết ở bước 3, ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng như đã thoả
thuận.
Bước 5 - Giám sát và quản lý tín dụng
Giám sát và quản lý tín dụng được tiến hành từ khi tiền vay được phát ra cho
đến khi khoản vay được hoàn trả, nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện đúng và đầy

đủ những cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, phù hợp với đặc điểm
hoạt động của ngân hàng và đặc điểm kinh doanh sử dụng vốn của khách hàng.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết nợ gốc và lãi. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Tuy
nhiên, vẫn có những trường hợp khách hàng không hoàn trả hoặc hoàn trả không
đúng hạn tiền gốc và lãi cho ngân hàng. Do đó một trong những yếu tố nhằm đảm
bảo an toàn vốn là ngân hàng phải xây dựng được một quy trình tín dụng hợp lý,
khoa học, đồng thời phải tuân thủ đầy đủ và nghiêm túc các bước của quy trình tín
dụng. Quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín
dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.1.2 Rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Bất kỳ một khoản tín dụng nào được cấp ra đều phải tuân thủ theo hai nguyên
tắc: khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiêu quả, khoản tín
dụng đó phải được hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng kỳ hạn đã cam kết. Nếu tất cả
các khoản đầu tư của ngân hàng được thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn thì
ngân hàng không chịu bất cứ RRTD nào.Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng vốn
vay, vì một lý do nào đó có thể người vay tiền phá sản, thì việc thu hồi gốc và lãi
TD đầy đủ là không chắc chắn, khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng kỳ
hạn đã cam kết. Điều này làm cho ngân hàng phải chịu một khoản tổn thất như
thiếu vốn khả dụng, mất khả năng thanh toán... Những tổn thất này được gọi là
RRTD. Như vậy RRTD phát sinh trong trường hợp Ngân hàng không thu được đầy
đủ gốc và/hoặc lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán gốc và/hoặc lãi không
đúng kỳ hạn.
Tại quyết định 493/2005/QĐ - NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân hàng Nhà
nước Việt nam đã nêu: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng
do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
1.1.2.2 Nguyên nhân rủi ro tín dụng

Muốn quản trị rủi ro tốt nhằm hạn chế RRTD phải xác định nguyên nhân gây
rủi ro, thông thường nguyên nhân RRTD được phân theo các tiêu chí sau:
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
- Chính sách, quy trình tín dụng.
+ Chính sách tín dụng.
RRTD phát sinh khi một nội dung trong danh mục tín dụng trở lên tương đối
lớn so với mức vốn, tài sản của ngân hàng, là loại rủi ro tập trung. Rủi ro tập trung
tín dụng không những phụ thuộc vào giá trị tín dụng mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ
mất vốn cao khi xảy ra rủi ro.
Rủi ro tập trung tín dụng có thể được phân chia thành 2 loại: rủi ro tập trung
tín dụng thông thường - xảy ra khi tín dụng tập trung quá nhiều vào một khách
hàng, một nhóm khách hàng, một ngành hoặc một lĩnh vực (ví dụ như bất động
sản, xây dựng cơ bản...) và rủi ro tập trung tín dụng - do sự liên hệ qua lại các yếu
tố có liên quan nhiều đến các yếu tố đặc thù, chỉ có thể phát hiện qua phân tích. Ví
dụ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tiền tệ ở châu Á năm 1997 do sự liên hệ
giữa RRTD, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản đã tạo các khoản lỗ/mất vốn rộng
khắp.
+ Quy trình tín dụng.
Các vấn đề trong qui trình cấp tín dụng là nguyên nhân gây ra RRTD, trong
đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và theo dõi, giám sát tín dụng. Có rất
nhiều ngân hàng khó thực hiện một quá trình đánh giá tín dụng một cách chuyên
sâu bởi áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng tăng. Cũng chính do áp lực
này mà nhiều ngân hàng có xu hướng dựa vào một số chỉ tiêu đơn giản để cấp tín
dụng. Điều này chỉ có thể được hạn chế khi các ngân hàng đưa ra một số bước bắt
buộc phải thực hiện trong quá trình thẩm định tín dụng.
Chính sách tín dụng không hợp lý, ví dụ như quá nhấn mạnh vào lợi nhuận
ngân hàng mà đơn giản hoá việc phân tích đánh giá khách hàng, nên khi cho vay
đã quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay
lành mạnh, hoặc do áp lực cạnh tranh mà các ngân hàng có chủ trương đơn giản
hoá việc phân tích đánh giá khách hàng nhằm thu hút được nhiều khách hàng đến

với ngân hàng nhưng trong số đó có một số khách hàng không có năng lực thanh
toán. Ngoài ra, trong thể lệ cho vay có những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm
đoạt vốn của ngân hàng.
- Đội ngũ cán bộ: Phẩm chất đạo đức và năng lực trình độ chuyên môn của
cán bộ quản trị và cán bộ tác nghiệp không đạt yêu cầu, nên trong công tác thẩm
định khách hàng không đánh giá chính xác, cụ thể như:
+ Những tiêu cực trong thẩm đinh khách hàng vay, như cán bộ vay ké khách
hàng vay, xử lý giải quyết nghiêng về cá nhân nên đã nới lỏng các điều kiện cho
vay, Cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, không phát hiện kịp thời hiện tượng khách
hàng vay mất khả năng trả nợ... nên dẫn đến rủi ro tín dụng.
+ Thiếu đánh giá lại chất lượng tín dụng, do vậy ngân hàng không có thông tin
chính xác, kịp thời về tình trạng tín dụng thực của ngân hàng (thực chất là không
đánh giá đúng mức độ RRTD theo thời gian).
+ Không theo dõi, giám sát thường xuyên khách hàng hoặc tài sản đảm bảo,
do đó không có hành động sớm nhằm hạn chế RRTD.
+ Áp dụng lãi suất không dựa trên rủi ro gây ảnh hưởng tới khả năng bù đắp
của ngân hàng trong trường hợp có rủi ro.
+ Không tính đến chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, chu kỳ sống của sản
phẩm hàng hoá, nhất là đối với những ngân hàng có sự tập trung vào lĩnh vực bất
động sản. Điều này xuất phát từ những yếu kém trong quản lý danh mục đầư TD.
+ Không dự kiến phương án trong trường hợp xấu nhất, làm cho ngân hàng
không có sự chuẩn bị kỹ nên không phản ứng nhanh chóng, kịp thời để vượt qua
những cú sốc bất lợi.
* Nguyên nhân từ phía người vay.
Nguyên nhân từ phía người vay là một trong những nguyên nhân chính gây ra
RRTD cho ngân hàng. Nhìn chung, với các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác
định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững ”tình hình sức khoẻ của khách
hàng” cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và
hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.Với các đối tượng khách hàng khác
nhau thì nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng có thể khác nhau do dặc tính, mục

đích của từng khoản vay và nguồn sử dụng để trả nợ. Có thể xảy ra các nguyên
nhân sau:
- Khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng, trong quá trình đi vay và sử dụng vốn
vay, chẳng hạn như cung cấp thông tin không đúng sự thật, sử dụng vốn vay sai
mục đích khác với hồ sơ, rủi ro cao, dễ thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.
Mặt khác có trường hợp cho dù công việc kinh doanh có lãi nhưng họ vẫn chây ỳ
không trả nợ ngân hàng, mục đích để chiếm dụng vốn ngân hàng quay vòng trong
hoạt động kinh doanh.
- Năng lực điều hành của chủ doanh nghiệp (khách hàng vay) còn hạn chế,
thiếu thông tin từ thị trường và các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch
sản xuất kinh doanh. Công nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có
tính cạnh tranh cao, khả năng thích ứng thị trường, sản xuất kinh doanh còn thiếu
linh hoạt, sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường dẫn đến tụt hậu
trong cạnh tranh làm giảm khả năng trả nợ hay phát sinh nợ có vấn đề.
* Nguyên nhân khác.
Ngoài những nguyên nhân từ ngân hàng và từ phía khách hàng còn có các
nguyên nhân khác như sau:

×