Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.7 KB, 37 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Ngân Hàng Thương mại & vai trò của nó trong nền kinh tế
1.1 Khái niệm và các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
NHTM là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, các nghiệp vụ khác
có liên quan.
NHTM là trung gian tài chính, là cầu nối giữa những người thừa vốn và
những người thiếu vốn. Nó chuyển hoá các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng của
các chủ thể kinh tế thừa vốn đến các chủ thể kinh tế thiếu vốn tạm thời đang cấn
vay để sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng. Các Ngân hàng đã huy động được
những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế qua việc nhận tiền gửi hoặc đi vay và
cũng chính những đồng vốn đó được Ngân hàng đem cho vay phục vụ các nhu cầu
chi tiêu, hay nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của các ngân hàng đã
tạo thuận lợi cho việc thực hiện trôi chảy ở tất cả các khâu của quá trình tái sản
xuất trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và làm tăng nhịp độ
của quá trình tái sản xuất. Chính từ hoạt động cấp tín dụng mà các ngân hàng đã
góp phần đẩy mạnh đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như góp
phần cải thiện đời sống dân cư.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Thay đổi tiền dự trữ
Nhằm mục đích có nguồn vốn để cho vay, các NHTM đã phải tìm cách huy
động vốn. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi của cá nhân
hoặc tổ chức. Ngoài ra ngân hàng cũng có các hình thức huy động vốn khác như
phát hành các chứng chỉ vay tiền hoặc vay tiền của các tổ chức tín dụng khác hoặc
vay ngân hàng nhà nước.Ngân hàng trả lãi cho các khoản tiền gửi và các khoản vay
này và cam kết hoàn trả vốn gốc đúng hạn
Khi một NHTM nhận thêm tiền gửi, thì tiền dự trữ tăng thêm đúng bằng số
tiền gửi đó; khi tiền gửi rút ra, nó bị mất một số lượng tiền dự trữ đúng bằng số


tiền gửi rút ra.
1.1.2.2 Tạo lợi nhuận từ việc cho vay
Như chúng ta đã biết lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của các NHTM là lĩnh
vực tài chính, tiền tệ. Cho vay ( Tín dụng) là hoạt động quan trọng nhất, mang lại
lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng và nó bù đắp được phần lớn chi phí liên quan
đến hoạt động, quản lý của các ngân hàng như chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi
phí kinh doanh và quản lý, thuế và các chi phí rủi ro đầu tư. NHTM có rất nhiều
hình thức tín dụng khác nhau để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên có thể
chia thành các hình thức tín dụng cơ bản như sau:
* Chiết khấu thương phiếu : Thương phiếu được được hình thành chủ yếu từ
quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán
( hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua
( hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Khi
khách hàng mang thương phiếu đến NHTM xin chiết khấu. NHTM sẽ giữ thương
phiếu mà khách hàng đem đến đồng thời chuyển cho khách hàng một khoản tiền
được tính bằng cách chiết khấu số tiền ghi trên thương phiếu theo lãi suất chiết
khấu. Ngoài ra NHTM còn có thể thu phí chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu
NHTM thu được có thể đợi đến khi đáo hạn thì thu tiền từ người phát hành thương
phiếu hoặc đem tái chiết khấu tại Ngân hàng nhà nước trong trường hợp có nhu
cầu thanh khoản.
* Cho vay : Khi các khách hàng có nhu cầu vay vốn của NHTM để phục vụ
cho sản xuất kinh doanh. NHTM sẽ tiến hành đánh giá, phân tích và tiến hành cấp
vốn cho những đối tượng đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng. Khách hàng phải
cam kết hoàn trả cả vốn và lãi khi đến hạn, sử dụng tín dụng đúng mục đích, ngân
hàng tài trợ dựa trên dự án có hiệu quả tức là đảm bảo khả năng sinh lời của dự án.
Do đó trong các món vay của khách hàng thường phải có tài sản đảm bảo. Cho
vay là nghiệp vụ tín dụng phổ biến nhất trong ngân hàng
* Cho thuê tài sản : là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả
cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.

* Bảo lãnh : là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Có các hình thức bảo lãnh như bảo
lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo đảm thanh toán, vv…
1.2.Vai trò của ngân hàng Thương Mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng , trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về quy mô tài sản , thị phần và số lượng cac ngân hàng .
NHTM là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.
Hàng triệu cá nhân , hộ gia đình và các doanh nghiệp ,các tổ chức kinh tế -xã hội
đều gửi tiền tại ngân hàng . NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội .
Thu nhập từ ngân hàng thương mại là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia
đình.NHTM là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình
và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh …). Đối với các doanh nghiệp, nhân
hàng thương mại thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua
hàng hoá dự trữ hoăc xây dựng nhà máy , mua sắm trang thiết bị . Khi doanh
nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ,
họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi
họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính , họ thường đến các ngân hàng
TM để nhận được lời tư vấn . Các khoản của ngân hàng cho chính phủ (thông qua
mua các chứng khoán của chính phủ ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát
triển . 2.Hoạt Động Bảo Lãnh Của NHTM
2.1.Khái Niệm bảo lãnh ngân hàng
2.1.1.Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
a.Sự cần thiết phải ra đời nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng các hoạt động
giao lưu trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thương mại. Các giao dịch ngày càng gia tăng
về mặt số lượng, giá trị, độ phức tạp và được mở rộng trong phạm vi toàn thế giới.
Đặc biệt,trong thương mại quốc tế, các giao dịch diễn ra có sự ngăn cách về thời

gian, không gian, hệ thống pháp luật, điều kiện thị trường…làm cho các loại rủi ro
càng gia tăng như:rủi ro không thực hiện hợp đồng, rủi ro thanh toán, rủi ro tín
dụng…Để phòng ngừa rủi ro, bên giao hàng hoá thường yêu cầu bên nhận hàng
hoá phải có bảo lãnh của bên thứ 3 ( bên thứ 3 thường là người có uy tín, có tiềm
lực tài chính…) và như thế nghiệp vụ bảo lãnh ra đời.
Trên thực tế, có nhiều tổ chức tài chính cũng phát hành bảo lãnh như: chính
phủ, công ty bảo hiểm. công ty tài chính, công ty chứng khoán… song chủ yếu
phát triển ở các NHTM. Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân xuất phát từ những đặc
điểm riêng có của các NHTM đó là:
- NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế với vai trò chủ yếu là nhận
tiền gửi của các tổ chức, cá nhân đem cho vay và đầu tư để thu lợi nhuận. Thông
qua quá trình đó, ngân hàng nắm bắt được rất nhiều thông tin của khách hàng. Biết
được khả năng tài chính của khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi của họ tạo cơ
sở cho việc phát hành thư bảo lãnh đúng đắn.
-NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, có
tiềm lực tài chính cao( vì lĩnh vực kinh doanh là tiền tệ) nên đã xây dựng được uy
tín, cũng như mối quan hệ gắn bó tin tưởng của khách hàng với ngân hàng. Uy tín
của ngân hàng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng khi quyết định lựa
chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng( là đối tượng yêu cầu bảo lãnh).
Như vậy, sự ra đời của bảo lãnh là một yếu tố khách quan, giúp phòng ngừa
những rủi ro trong giao dịch tài chính và phi tài chính. Và sự phát triển của bảo
lãnh gắn liền với hoạt động của các NHTM, tổ chức có khả năng cung cấp dịch vụ
bảo lãnh tốt nhất.
b.Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ quốc tế, được sử dụng rộng rãi từ lâu
trên thế giới. Nhiều tài liệu dẫn chứng, trong giao dịch thương mại, bảo lãnh ngân
hàng xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20
như là một dạng thư tín dụng dự phòng (standby L/C). Ở thời điểm này, bảo lãnh
ngân hàng bắt đầu thực sự được sử dụng như là một hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Tuy nhiên, phải tới những năm 70, hoạt động bảo lãnh của ngân hàng

mới thực sự được sử dụng trong các giao dịch TMQT. Nguồn gốc là từ sự phát
triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dầu mỏ khiến cho các quốc gia Trung Đông
trở nên giầu có. Họ liên tục ký kết các hợp đồng kinh tế với các quốc gia phương
tây để thực hiện các dự án như: tạo cơ sở hạ tầng, canh tân nông, nông nghiệp,
quốc phòng…và để bảo đảm an toàn cho các hợp đồng này, các công ty dầu mỏ
Trung Đông yêu cầu các tập đoàn Phương Tây phải chứng minh năng lực tài chính
của minh thông qua bảo lãnh ngân hàng. Đó là một yêu cầu tất yếu bởi giao dịch
TMQT luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Sau những năm 70, cùng với sự phát triển của
TMQT, hoạt động bảo lãnh phát triển đáng kinh ngạc. Bảo lãnh thực sự trở thành
công cụ phòng ngừa rủi ro quan trọng.
Ngày nay, bảo lãnh đã trở thành một nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng tại
nhiều nước trên thế giới. Quy mô và doanh thu phí bảo lãnh của mỗi ngân hàng thể
hiện uy tín trong nước cũng như quốc tế của ngân hàng đó đối với ngân hàng đối
tác, đối với khách hàng và ngay cả đối với chính phủ. Trong xu hướng quốc tế hoá,
toàn cầu hóa, chu chuyển vốn và giao lưu thương mại quốc tế hiện nay ngày càng
gia tăng với mức độ khổng lồ, nghiệp cụ bảo lãnh rất được các ngân hàng chú
trọng hoàn thiện và phát triển, nhất là trong điều kiện mua bán chịu trong giao dịch
thương mại ngày càng phổ biến, tiết kiệm vốn cho cả bên bán hàng và bên mua
hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại thu nhập lớn cho các ngân hàng, cũng là công cụ
tài trợ ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Ngược lại, các doanh nghiệp và các nhà
kinh doanh chủ yếu sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn ngắn hạn cho công việc kinh doanh của mình, đồng thời đảm bảo an toàn trong
giao dịch trong kinh doanh.
Tại Việt Nam, từ những năm 80, bảo lãnh đã được đề cập trong các văn bản
pháp luật. Song từ năm 1980 đến năm 1990, bảo lãnh của ngân hàng chỉ do NHNN
thực hiện như một công cụ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước vay
vốn nước ngoài để sản xuất kinh doanh. Sau công cuộc đổi mới trong hệ thống
ngân hàng năm 1998, các NHTM Việt Nam đã có sự phát triển đáng ghi nhận,là
kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Các nghiệp vụ ngân hàng
cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, còn nhiều nghiệp vụ

ngân hàng mới chỉ thực hiện ở giai đoạn bước đầu, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh
ngân hàng. Nghiệp vụ này hết sức phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ các tập quán và
thông lệ quốc tế. Năm 1994, quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh của thống đốc
NHNN được ban hành và lần đầu tiên áp dụng cho các NHTM Việt Nam. Tuy là
một nghiệp vụ ngân hàng mới và chưa có hành lang pháp lý chặt chẽ song bảo lãnh
ngân hàng đã dần khẳng định vị trí không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường
hiện đại. Do yêu cầu bức thiết của nền kinh tế về hoạt động bảo lãnh ngân hàng,
các văn bản pháp lý về nghiệp vụ mới này lần lượt ra đời như:
1 Quyết định 192/QĐ-NH ngày 17/09/1992 của thống đốc NHNN về
bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
1 Quyết định 196/QĐ-NH14 ngày 19/09/1994 của thống đốc NHNN về
quy chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về nghiệp vụ
bảo lãnh của các NHTM.
1 Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của thống đốc
NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng thay thế cho các quyết định
trước đây. Đây chính là một bước hoàn thiện cơ sở pháp lý đầu tiên cho các hoạt
động bảo lãnh ngân hàng.
1 Quyết định 386/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 về việc sửa đổi bổ xung
một số điều trong quy chế bảo lãnh ngân hàng.
1 Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ xung quy chế
bảo lãnh ngân hàng.
Đến nay, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã phát triển một cách nhanh chóng,
đem lại nguồn thu lớn cho các NHTM. Và trong tương lai, nghiệp vụ này còn phát
triển hơn nữa trước những đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường và sẽ trở
thành một trong những hoạt động chính của các NHTM trong tiến trình hội nhập.
Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tại ngân hàng TMCP Bắc Á ngay từ khi
thành lập. Đến nay, trước xu thế hội nhập với kinh tế thế giới, nhu cầu thị trường
và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các NHTM, thì hoạt động bảo lãnh đang trở thành
một công cụ cạnh tranh hiệu quả của ngân hàng, và trong tương lai, hoạt động này
còn phát triển hơn nữa.

2.1.2.Khái Niệm nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng,
song về bản chất và phương thức thực hiện, các khái niệm này đều nêu bật lên
nghĩa vụ của người phát hành bảo lãnh phải thanh toán cho người nhận bảo lãnh
nếu người đó có bằng chứng chứng minh người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
cam kết.
Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 28/08/2000 quy định như
sau: “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD( bên bảo lãnh) với
bên có quyền( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng
(bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả
cho TCTD số tiền đã được trả thay “.
Theo luật các TCTD điều 20 có định nghĩa cụ thể về bảo lãnh của ngân hàng
như sau: “ Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD với bên có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiên đúng nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho
các TCTD số tiền đã được trả thay”.
Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều 366 có định
nghĩa về bảo lãnh như sau:” Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ ( gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ “ .
Hình thức của bảo lãnh ngân hàng là hợp đồng bảo lãnh, hay còn gọi là thư
bảo lãnh. Thư bảo lãnh là văn bản cam kết giữa ngân hàng với khách hàng về
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
Như vậy, bảo lãnh của ngân hàng là cam kết bằng văn bản, là hình thức cấp
tín dụng bằng chữ ký. tại thời điểm tham gia bảo lãnh, ngân hàng không trực tiép
xuất vốn mà chỉ dùng khả năng tài chính và uy tín của mình để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ đã cam kết từ trước.
Từ những định nghĩa trên, ta thấy tham gia vào hoạt động bảo lãnh có ít nhất

là ba chủ thể, đó là:
1 Bên bảo lãnh: là các TCTD, là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh
cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi bên này vi phạm
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Theo quy định của quyết định
283/2000/QĐ-NHNN14, TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm: Các ngân
hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và
các TCTD phi ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD ( gọi
chung là các TCTD); các ngân hàng được Thống đốc ngân hàng nhà nước cho
phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh
toán và các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân
nước ngoài; TCTD thực hiện bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu theo quy định của
pháp luật về thương phiếu.
1 Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu ngân hàng mở thư bảo lãnh. Theo
quy chế bảo lãnh (ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14), bên
được bảo lãnh gồm: Các doanh nghiệp nhà nước, các loại hình doanh nghiệp theo
quy định của luật doanh nghiệp, hợp tác xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh và các dự
án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án tại Việt Nam, các tổ
chức tín dụng, hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân trong nước và nước ngoài.
1 Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đó là bên thụ hưởng lợi ích từ hợp đồng bảo
lãnh
2.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
2.2.1.Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là mối quan hệ đa phương. Tham gia vào
hoạt động này có ít nhất ba chủ thể, đó là: bên phát hành bảo lãnh ( ngân hàng),
bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. Các chủ thể tham gia có mối quan hệ với
nhau thông qua các hợp đồng: Hợp đồng kinh tế, hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh.

Cụ thể như sau:
Trước hết, hoạt động bảo lãnh được phát sinh trong mối quan hệ kinh tế giữa
bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Hai chủ thể này thoả thuận và ký kết hợp
đồng kinh tế. Trong đó, bên nhận bảo lãnh yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
Theo đó, bên được bảo lãnh tới ngân hàng yêu cầu ngân hàng bảo lãnh và chỉ khi
bên được bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu của của ngân hàng thì bảo lãnh mới được
xác lập. Lúc này, phát sinh những mối quan hệ sau:
+ Quan hệ giữa ngân hàng và bên được bảo lãnh thông qua hợp đồng bảo
lãnh ( HĐ2). Đó là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và bên hưởng tín
dụng.
+ Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết bảo
lãnh( hay thư bảo lãnh). Thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành trao cho bên nhận
bảo lãnh trong đó quy định những điều kiện để bên nhận bảo lãnh có thể nhận
được thanh toán của ngân hàng trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa
vụ đã cam kết.
Như vậy, các chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau trên cơ sở quyền lợi và nghĩa vụ. Ba hợp đồng trên tuy độc lập với
nhau song nó vẫn có ảnh hường qua lại với nhau. Đó chính là đặc điểm rất khác
biệt của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
2.2.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Mặc dù quan hệ trong bảo lãnh là mối quan hệ đa phương, tuy nhiên quyền
lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia lại mang tính độc lập tương đối. Đây
chính là một đặc điểm nổi bật của bảo lãnh. Điều này có nghĩa là việc thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay yếu tố nào ngoài giao
dịch bảo lãnh. Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh
khi bên này yêu cầu và có bằng chứng chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên
được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện vào các lý do thuộc về mối quan hệ giữa
ngân hàng với bên được bảo lãnh như: bên được bảo lãnh còn nợ ngân hàng hay
bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng với ngân hàng…để trì hoãn hoặc không thực
hiện thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu thanh toán, ngân hàng phải

thanh toán ngay cho bên nhận bảo lãnh sau đó mới quay ra thu nợ đối với bên được
bảo lãnh. Lúc đó, hình thức cấp tín dụng bằng chữ ký chuyển sang cấp tín dụng
bằng tiền. Khoản nợ này se được chuyển sang khoản nợ xấu, khó đòi của ngân
hàng, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro.
Mặc dù vậy, tính độc lập của bảo lãnh chỉ mang tính tương đối. Tuỳ từng
trường hợp mà tính độc lập có thể cao hoặc cũng có thể thập. Tính độc lập của bảo
lãnh phụ thuộc vào các điều kiện đi kèm. Nếu bảo lãnh yêu cầu kèm theo quyết
định của trọng tài hay toà án thì nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng không chỉ phụ
thuộc vào thoả thuận trong thư bảo lãnh mà còn phải phụ thuộc vào quyết định của
người thứ ba là trọng tài hoặc toà án.
Đặc điểm này của bảo lãnh cũng giúp phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm, vì
nghĩa vụ thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm chỉ được thực hiện khi người
được bảo hiểm có đầy đủ bằng chứng chứng minh tổn thất đã xảy ra thuộc phạm vi
bảo hiểm.
2.2.3. bảo lãnh là hoạt động ngoại bảng
Về bản chất, bảo lãnh là hình thức tài trợ bằng uy tín, qua đó bên được bảo
lãnh có thể tìm kiếm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện các
phương án sản xuất kinh doanh… nhằm thu lợi. Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh,
ngân hàng chưa phải xuất quỹ tiền ngay do đó bảo lãnh được coi như là một hoạt
động ngoại bảng vì hoạt động của nó không làm thay đổi bảng cân đối kế toán. Tuy
nhiên, khi rủi ro xảy ra (khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết với bên nhận bảo lãnh) thì ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho bên nhận bảo lãnh. Đó cũng chính là lúc ngân
hàng phải thực sự xuất quỹ tiền mặt, điều này làm ảnh hưởng đến bảng cân đối kế
toán của ngân hàng. Khoản chi này được xếp vào khoản tín dung “xấu” , cấu thành
nợ quá hạn. Khi đó, hoạt động bảo lãnh đã được chuyển từ tài sản ngoại bảng vào
tài sản nội bảng.
Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém không những có ảnh
hưởng xấu tới uy tín của ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới tài sản của
ngân hàng. Vì vậy, cần phải cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định bảo lãnh

nhằm tránh những khoản tài trợ “ xấu” này.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam ghi nhận bảo lãnh là một nghiệp vụ tín
dụng của ngân hàng, nhưng từ việc phân tích đặc điểm trên, ta thấy bảo lãnh không
phản ánh đúng bản chất của tín dụng là chuyển lượng giá trị (tài sản) của chủ thể
này cho chủ thể khác. Bảo lãnh chỉ trở thành một hoạt động tín dụng khi ngân hàng
phải xuất tiền ra thanh toán thay cho khách hàng. Khi đó, bảo lãnh là một khoản
cho vay bắt buộc. Ngoài ra, thu nhập từ hoạt động tín dụng được hạch toán vào thu
nhập từ dịch vụ ngân hàng chứ không dựa vào chênh lệch lãi suất như hoạt động
tín dụng.
2.2.4. Bảo lãnh tiến hành trên cơ sở chứng từ.
Tất cả các hoạt động của ngân hàng đều dựa trên cơ sở chứng từ và hoạt
động bảo lãnh cũng không phải là ngoại lệ. Cam kết bảo lãnh của ngân hàng cũng
là một văn bản mà việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng dựa trên văn
bản đó. Khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết, muốn được ngân hàng
thanh toán, bên nhận bảo lãnh cũng phải mang đến ngân hàng những chứng từ phù
hợp với hợp đồng bảo lãnh. Nếu chứng từ không phù hợp, ngân hàng có quyền từ
chối yêu cầu thanh toán.
2.3. Phân loại bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng rất phong phú và đa dạng về loại hình, tuỳ theo phương
thức phát hành, mục đích, điều kiện thanh toán, bản chất… mà người ta phân bảo
lãnh thành các loại hình khác nhau.
2.3.1.Căn cứ theo phương thức phát hành bảo lãnh.
Theo phương thức này, bảo lãnh được chia thành: bảo lãnh trực tiếp, bảo
lãnh gián tiếp và đồng bảo lãnh.
*Bảo lãnh trực tiếp ( Direct guarantee) : là một loại bảo lãnh mà trong đó,
ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Sau khi
thực hiện nghĩa vụ thay, ngân hàng phát hành bảo lãnh có quyền truy đòi số tiền đã
thanh toán thay từ phía người được bảo lãnh.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn có thể
trực tiếp tất toán với người được bảo lãnh mà không cần có sự hoàn trả thư bảo

lãnh. Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh không phải mất thêm
chi phí hoa hồng cho ngân hàng đại lý nước ngoài.
Trong bảo lãnh trực tiếp, thường có ba chủ thể tham gia, đó là: ngân hàng
bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bên nhận bảo lãnh
là người nước ngoài, có thể còn có sự tham gia của ngân hàng thông báo ở cùng
quốc gia đó.
Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở (hợp
đồng kinh tế), làm phát sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh
Ngân hàng phát hành bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh gửi tới người nhận
bảo lãnh
Trường hợp người nhận bảo lãnh ở nước ngoài, ngân hàng phát hành sẽ đề
nghị ngân hàng đại lý của mình có trụ sở tại nước của người nhận bảo lãnh, thông
báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh tới người thụ hưởng. Ngân hàng này được gọi
là ngân hàng thông báo (Advising bank).
Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung thư bảo
lãnh tới người nhận bảo lãnh.
Ngân hàng thông báo sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính chân thực
của bảo lãnh như: chữ ký, mã SWIFT, mã Telex…và không chịu trách nhiệm về
nội dung thư bảo lãnh, trách nhiệm thanh toán và những tranh chấp phát sinh nếu
có.
*Bảo lãnh gián tiếp : là loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng bảo lãnh phát
hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được
bảo lãnh dựa trên yêu cầu của người nhận bảo lãnh.
Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ thanh toán theo cam kết
bảo lãnh đã phát hành, sau đó yêu cầu ngân hàng chỉ thị trả khoản tiền mà mình đã
thanh toán thay. Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp, người được bảo lãnh không bồi
hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chỉ bồi hoàn cho ngân hàng
chỉ thị, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh. Trách nhiệm bồi hoàn của ngân
hàng chỉ thị được thể hiện thông qua một cam kết gọi là cam kết bảo lãnh đối ứng

do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng cũng có đầy đủ các nội dung và
điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính, Việc áp ụng bảo lãnh gián tiếp
thường do người nhận bảo lãnh yêu cầu nhằm thuận lợi hơn trong giao dịch đòi
tiền sau này.
Trong bảo lãnh đối ứng thường có ít nhất bốn bên tham gia. Đó là: ngân
hàng chỉ thị (ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh), ngân hàng phát hành bảo
lãnh, là ngân hàng do người nhận bảo lãnh yêu cầu, người được bảo lãnh và người
nhận bảo lãnh. Nhiều trường hợp, trong bảo lãnh gián tiếp có rất nhiều các bên
tham gia do người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh có sự ngăn cách quá lớn
về vị trí địa lý, khiến cho người nhận bảo lãnh không yên tâm về khả năng an toàn
của các giao dịch mà mình sắp thực hiên.
Bảo lãnh gián tiếp thường xảy ra với những giao dịch kinh tế có yếu tố nước
ngoài tham gia. Khi đó, người nhận bảo lãnh chỉ chấp nhận giao dịch khi được
ngân hàng ở nước họ đứng ra bảo lãnh, và như vậy bảo lãnh gián tiếp được hình

×