Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.87 KB, 40 trang )

VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1. Doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường trong đó
người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng của
hàng hoá hay dịch vụ. Nền kinh tế thị trường chứa đựng 3 chủ thể là các hộ gia
đình, doanh nghiệp và chính phủ. Trong đó, Doanh nghiệp có một vai trò to lớn
trong sự hoạt động và phát triển của nền kinh tế thị trường.
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh”
1
– tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Nền kinh tế thị trường của nước ta đang xây dựng là một nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một
nền kinh tế với nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh – doanh
nghiệp Nhà nước – giữ vai trò chủ đạo. “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế
do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà
nước giao”.
2
Như vậy ta thấy, có thể phân các doanh nghiệp Nhà nước làm hai loại:
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích, khi
1 Luật doanh nghiệp – ngày12 tháng 6 năm 1999
2 Luật doanh nghiệp nhà nước – ngày 20 tháng 4 năm 1995
nghiên cứu về tài chính doanh nghiệp chúng ta tập trung vào hệ thống các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh với mục tiêu thống nhất là tối đa hoá lợi nhuận.


Doanh nghiệp có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Theo
hình thức tổ chức có: doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH,
doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phân loại doanh
nghiệp theo chủ thể kinh doanh có: kinh doanh cá thể; kinh doanh góp vốn; công
ty. Dựa vào tính chất của lĩnh vực hoạt động, có doanh nghiệp sản xuất và doanh
nghiệp thương mại…Sự phân chia các doanh nghiệp theo các tiêu thức nói trên
nhằm tiện cho việc quản lý và nghiên cứu tuy nhiên chúng đều mang tính tương
đối khi trong một nền kinh tế thị trường phát triển hình thức, hoạt động của các
doanh nghiệp là rất đa dạng, phức tạp.
1.1.1.2. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế – xã hội phức tạp và luôn
biến động. Để đạt được mức lợi nhuận mong muốn, doanh nghiệp luôn phải đưa ra
hàng loại các quyết định trong quá trình tổ chức các hoạt động kinh doanh, mọi
quyết định đều phải gắn kết với môi trường xung quanh. Doanh nghiệp phải giải
quyết từ khâu nghiên cứu nhu cầu thị trường; xác định năng lực bản thân; xác định
các mặt hàng mà mình sản xuất và cung ứng; cách thức sản xuất, phương thức
cung ứng sao cho có hiệu quả nhất…Dưới góc độ của nhà quản trị tài chính, để đạt
được mục tiêu tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp, một doanh nghiệp luôn phải đối
mặt với 3 nhóm quyết định:
- Quyết định đầu tư;
- Quyết định tài trợ;
- Quyết định hoạt động hàng ngày.
Nói một cách khác, quản lý tài chính doanh nghiệp là giải quyết một tập hợp
đa dạng và phức tạp các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn. Các quyết định
tài chính dài hạn như lập ngân sách vốn, lựa chọn cấu trúc vốn…là những quyết
định thường liên quan đến những tài sản hay những khoản nợ dài hạn, các quyết
định này không thể thay đổi một cách dễ dàng và do đó chúng có khả năng làm cho
doanh nghiệp phải theo đuổi một đường hướng hoạt động riêng biệt trong nhiều
năm. Các quyết định tài chính ngắn hạn thường liên quan đến những tài sản hay
những khoản nợ ngắn hạn và thường thì những quyết định này được thay đổi dễ

dàng. Trong thực tế, giá trị các tài sản lưu động chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
giá trị doanh nghiệp và có một vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể xác định được các cơ hội đầu tư
có giá trị, tìm được chính xác tỷ lệ nợ tối ưu, theo đuổi một chính sách cổ tức hoàn
hảo nhưng vẫn thất bại vì không ai quan tâm đến việc huy động tiền mặt để thanh
toán các hoá đơn trong năm…Do vậy, chuyên đề này đi sâu vào nghiên cứu vốn
lưu động và việc nâng cao hiệu sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Để có
thể hiểu sâu về vốn lưu động trước tiên chúng ta cần có cái nhìn khái lược về vốn,
một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Khái niệm về vốn
Theo quan điểm của K.Marx, vốn là tư bản, mà tư bản được hiểu là giá trị
mang lại giá trị thặng dư.
Như vậy, hiểu một cách thông thường, vốn là toàn bộ giá trị vật chất được
doanh nghiệp đầu tư để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn có thể là
toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra và tích luỹ được qua thời gian sản xuất
kinh doanh cũng có thể là những của cải mà thiên nhiên ban cho như đất đai,
khoáng sản…
Với sự phát triển vũ bão của nền kinh tế thị trường, các ngành nghề mới liên
tục ra đời, quan niệm về vốn cũng ngày càng được mở rộng. Bên cạnh vốn hữu
hình, dễ dàng được nhận biết, còn tồn tại và được thừa nhận là vốn vô hình như:
các sáng chế phát minh, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, vị trí đặt trụ
sở của doanh nghiệp…Theo cách hiểu rộng hơn, người lao động cũng được rất
nhiều doanh nghiệp coi là một trong những nguồn vốn quan trọng.
Có thể thấy, vốn tồn tại trong mọi giai đoạn sản xuất kinh doanh, từ dự trữ;
sản xuất đến lưu thông; doanh nghiệp cần vốn để đầu tư xây dựng cơ bản; cần vốn
để duy trì sản xuất và để đầu tư nâng cao năng lực sản xuất… Quyết định tài trợ,
do đó, là một trong 3 nhóm quyết định quan trọng của tài chính doanh nghiệp và có
ảnh hưởng sâu sắc tời mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp – tối đa hoá giá trị
doanh nghiệp.

1.1.2.2. Đặc điểm và phân loại vốn
 Đặc điểm của vốn
Vốn là giá trị toàn bộ tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc thiết bị…), tài
sản vô hình (sáng chế, phát minh, nhãn hiệu thương mại…) mà doanh nghiệp đầu
tư và tích luỹ được trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra giá trị thặng
dư.
Vốn tồn tại trong mọi quá trình sản xuất và được chuyển hoá từ dạng này sang
dạng kia: từ nguyên, nhiên vật liệu đầu vào đến các chi phí sản xuất dở dang, bán
thành phẩm và cuối cùng chuyển hoá thành thành phẩm rổi chuyển về hình thái
tiền tệ.
Vốn luôn gắn liền với quyền sở hữu, việc nhận định rõ và hoạch định cơ cấu
nợ – vốn chủ sở hữu luôn là một nội dung quan trọng và phức tạp trong quản lý tài
chính doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn còn được coi là một hàng hoá đặc biệt do
có sự tác bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Do đó, việc huy động vốn
bằng nhiều con đường: phát hành cổ phiếu, trái phiếu; tín dụng thương mại; vay
ngân hàng…đang được các doanh nghiệp rất quan tâm và được vận dụng linh hoạt.
Do sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, sự luân chuyển phức
tạp của vốn nên yêu cầu quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả tránh lãng phí thất
thoát được đặt lên cao.
 Phân loại vốn
Tuỳ theo từng tiêu thức khác nhau, vốn của doanh nghiệp được phân loại như
sau:
 Theo hình thái tài sản, vốn của doanh nghiệp gồm 2 bộ phận chính:
Vốn lưu động và vốn cố định. Vốn lưu động là toàn bộ giá trị của tài
sản lưu động, vốn cố định là toàn bộ giá trị của tài sản cố định.
 Theo nguồn hình thành, vốn của doanh nghiệp được hình thành từ
hai nguồn chính: Vốn chủ sở hữu và Nợ.
1.1.3. Vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1. Khái niệm về vốn lưu động

Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các yếu tố con người lao động, tư
liệu lao động còn phải có đối tượng lao động. Trong các doanh nghiệp đối tượng
lao động bao gồm 2 bộ phận: Một bộ phận là những nguyên, nhiên vật liệu, phụ
tùng thay thế…đang dự trữ chuẩn bị cho quá trình sản xuất được tiến hành nhịp
nhàng, liên tục; bộ phận còn lại là những nguyên vật liệu đang được chế biến trên
dây truyền sản xuất (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu
hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp trong dự trữ
và sản xuất.
hàng hoá
Tiêu thụ sản phẩm
sản phẩm
Sản xuất
Mua vật tư
Vốn bằng tiền Vốn dự trữ sản xuất Vốn trong sản xuất
Thông qua quá trình sản xuất, khi kết thúc một chu kỳ sản xuất thì toàn bộ tư
liệu lao động đã chuyển hoá thành thành phẩm. Sau khi kiểm tra, kiểm nghiệm chất
lượng thành phẩm được nhập kho chờ tiêu thụ. Mặt khác để sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm doanh nghiệp còn cần một số tiền mặt trả lương công nhân và các khoản
phải thu phải trả khác…Toàn bộ thành phẩm chờ tiêu thụ và tiền để phục vụ cho
tiêu thụ sản phẩm được gọi là tài sản lưu động trong lưu thông.
Như vậy xét về vật chất, để sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, ngoài
tài sản cố định doanh nghiệp còn cần phải có tài sản lưu động trong dự trữ, trong
sản xuất và trong lưu thông. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, để hình
thành các tài sản lưu động này các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban
đầu nhất định. Vì vậy có thể nói: Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền
tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận
động của vốn lưu động chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động không ngừng vận động qua các
giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình

này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá
trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh
doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện: từ hình thái vốn tiền tệ ban
đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối
cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Tương ứng với một chu kỳ kinh doanh thì vốn
lưu động cũng hoàn thành một vòng chu chuyển.
1.1.3.2. Đặc điểm và phân biệt vốn lưu động với vốn cố định
 Những đặc điểm của vốn lưu động
Vốn lưu động luân chuyển với tốc độ nhanh. Vốn lưu động hoàn thành một
vòng tuần hoàn sau khi kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động trong doanh nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện trong quá
trình tuần hoàn luân chuyển. Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất
mà không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch
toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Vốn lưu động vận động theo một vòng tuần hoàn, từ hình thái này sang hình
thái khác rồi trở về hình thái ban đầu với một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Chu
kỳ vận động của vốn lưu động là cơ sở quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
lưu động của doanh nghiệp.
 Phân biệt vốn lưu động với vốn cố định
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Đặc điểm khác biệt lớn
nhất giữa vốn lưu động và vốn cố định là vốn cố định chỉ chuyển dần giá trị của nó
vào giá trị sản phẩm theo mức khấu hao trong khi giá trị vốn lưu động được
chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Do đặc điểm vận động, số vòng quay của vốn lưu động lớn hơn rất nhiều so
với vốn cố định.
1.1.3.3. Phân loại vốn lưu động
Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải phân loại vốn lưu
động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau phù hợp với yêu cầu quản lý.
1.1.3.3.1. Căn cứ vai trò của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh
doanh

Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp được phân thành 3
loại:
(1) Vốn lưu động trong khâu dự trữ
Bao gồm các khoản vốn sau:
- Vốn nguyên vật liệu chính: Là giá trị các loại vật tư dùng dự trữ sản xuất mà
khi tham gia vào sản xuất chúng cấu thành thực thể của sản phẩm.
- Vốn vật liệu phụ: Là giá trị các loại vật tư dự trữ dùng trong sản xuất. Các
loại vật tư này không cấu thành thực thể chính của sản phẩm mà nó kết hợp
với nguyên vật liệu chính làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dáng bên ngoài
của sản phẩm hoặc tạo điều kiện cho quá trình sản xuất sản phẩm thực hiện
được bình thường, thuận lợi.
- Vốn nhiên liệu: Là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ dùng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.
- Vốn phụ tùng thay thế: Là giá trị các loại vật tư dùng để thay thế, sửa chữa
các tài sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Vốn vật liệu đóng gói: Là giá trị của các vật tư mà khi tham gia vào quá
trình sản xuất nó cấu thành bao bì bảo quản sản phẩm.
- Vốn công cụ, dụng cụ: Là giá trị các công cụ, dụng cụ không đủ tiêu chuẩn
là tài sản cố định, dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Loại vốn này cần thiết để đảm bảo sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành
liên tục.
(2) Vốn lưu động trong khâu sản xuất
Bao gồm các khoản vốn:
- Vốn sản phẩm đang chế tạo: Là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất kinh
doanh đã bỏ ra cho các loại sản phẩm đang trong quá trình sản xuất.
- Vốn bán thành phẩm tự chế: Đây là phần vốn lưu động phản ánh giá trị các
chi phí sản xuất kinh doanh bỏ ra khi sản xuất sản phẩm đã trải qua những
công đoạn sản xuất nhất định nhưng chưa hoàn thành sản phẩm cuối cùng
(thành phẩm).
- Vốn chi phí trả trước: Là các chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác dụng

cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên chưa thể tính hết vào giá thành
sản phẩm trong kỳ này mà còn được tính dần vào giá thành sản phẩm của
một số kỳ tiếp theo như: chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi
phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn
giáo phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản…
Loại vốn này được dùng cho quá trình sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản
xuất của các bộ phận sản xuất trong dây truyền công nghệ được liên tục, hợp lý.
(3) Vốn lưu động trong khâu lưu thông
Loại này bao gồm các khoản vốn:
- Vốn thành phẩm: Là giá trị những sản phẩm đã được sản xuất xong, đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật và đã được nhập kho.
- Vốn bằng tiền: Bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang
chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển
đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh
doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định.
- Các khoản đầu tư ngắn hạn: Đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn
hạn…Đây là những khoản đầu tư nhằm một mặt đảm bảo khả năng thanh
toán (do tính thanh khoản của các tài sản tài chính ngắn hạn được đầu tư),
mặt khác tận dụng khả năng sinh lời của các tài sản tài chính ngắn hạn nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Các khoản vốn trong thanh toán: các khoản phải thu, các khoản tạm ứng…
Chủ yếu trong khoản mục vốn này là các khoản phải thu của khách hàng, thể
hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán
hàng hoá, dịch vụ dưới hình thức bán trước, trả sau. Khoản mục vốn này liên
quan chặt chẽ đến chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp, một
trong những chiến lược quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Ngoài ra, trong một số trường hợp mua sắm vật tư, hàng hoá doanh
nghiệp còn phải ứng trước tiền cho người cung cấp từ đó hình thành khoản
tạm ứng.
Loại vốn này dùng để dự trữ sản phẩm, bảo đảm cho tiêu thụ thường xuyên,

đều đặn theo nhu cầu của khách hàng.
Việc phân loại vốn lưu động theo phương pháp này giúp cho việc xem xét
đánh giá tình hình phân bổ của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình chu
chuyển vốn lưu động. Thông qua đó, nhà quản lý sẽ có những biện pháp thích hợp
nhằm tạo ra một kết cấu vốn lưu động hợp lý, tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu
động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.1.3.3.2. Theo các hình thái biểu hiện
(1) Tiền và các tài sản tương đương tiền
- Vốn bằng tiền
- Các tài sản tương đương tiền: Gồm các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
Việc tách riêng khoản mục này giúp cho doanh nghiệp dễ dàng theo dõi khả
năng thanh toán nhanh của mình đồng thời có những biện pháp linh hoạt để vừa
đảm bảo khả năng thanh toán vừa nâng cao khả năng sinh lời của vốn lưu động.
(2) Các khoản phải thu
Nghiên cứu các khoản phải thu giúp doanh nghiệp nắm bắt chặt chẽ và đưa ra
những chính sách tín dụng thương mại hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng, nâng cao doanh số bán cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
(3) Hàng tồn kho
Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể bao
gồm:
 Vốn nguyên, nhiên vật liệu
- Vốn nguyên vật liệu chính
- Vốn vật liệu phụ
- Vốn nhiên liệu
 Công cụ, dụng cụ trong kho
 Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
 Thành phẩm tồn kho
 Hàng gửi bán
 Hàng mua đang đi trên đường
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho có vai trò như một tấm đệm

an toàn giữa các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ kinh doanh như dự trữ - sản
xuất – lưu thông khi mà giữa các giai đoạn này các hoạt động không phải lúc nào
cũng được diễn ra đồng bộ. Hàng tồn kho mang lại cho bộ phận sản xuất và bộ
phận marketing của một doanh nghiệp sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh
doanh như lựa chọn thời điểm mua nguyên vật liệu, lập kế hoạch sản xuất và tiêu
thụ. Ngoài ra hàng tồn kho giúp cho doanh nghiệp tự bảo vệ trước những biến
động cũng như sự không chắc chắn về nhu cầu đối với các sản phẩm của doanh
nghiệp.
(4) Tài sản lưu động khác
 Tạm ứng
 Chi phí trả trước
 Chi phí chờ kết chuyển
 Các khoản thể chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn
1.1.3.3.3. Theo nguồn hình thành của vốn lưu động
Theo cách phân loại này, vốn lưu động được chia làm 2 loại:
(1) Nguồn vốn chủ sở hữu
Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ
các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại
hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có
nội dung cụ thể riêng: Số vốn lưu động được ngân sách nhà nước cấp hoặc có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (đối với các doanh nghiệp nhà nước); số vốn do
các thành viên (đối với loại hình doanh nghiệp công ty) hoặc do chủ doanh nghiệp
tư nhân bỏ ra; số vốn lưu động tăng thêm từ lợi nhận bổ sung; số vốn góp từ liên
doanh liên kết; số vốn lưu động huy động được qua phát hành cổ phiếu.
(2) Nợ phải trả
- Nguồn vốn đi vay: Là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay
các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác; vốn thông qua
phát hành trái phiếu.
- Nguồn vốn trong thanh toán: Đó là các khoản nợ khách hàng, doanh nghiệp
khác trong quá trình thanh toán.

Việc phân loại này giúp cho ta có thể thấy được kết cấu các nguồn hình thành
nên vốn lưu động của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp có thể chủ động và đưa
ra các biện pháp huy động, quản lý và sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn.
1.1.3.4. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn
lưu động
Kết cấu vốn lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động
chiếm trong tổng số vốn lưu động tại một thời điểm nhất định.
Việc nghiên cứu kết cấu vốn lưu động sẽ giúp ta thấy được tình hình phân bổ
vốn lưu động và tỷ trọng mỗi khoản vốn trong các giai đoạn luân chuyển để xác
định trọng điểm quản lý vốn lưu động và tìm mọi biện pháp tối ưu để nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu đồng trong từng điều kiện cụ thể.
Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng không giống
nhau. Thông qua phân tích kết cấu vốn lưu động theo các tiêu thức phân loại khác
nhau sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu
động mà mình đang quản lý và sử dụng. Mặt khác, thông qua việc thay đổi kết cấu
vốn lưu động của doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau có thể thấy được những
biến đổi tích cực hoặc hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý, sử dụng
vốn lưu động của từng doanh nghiệp.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu của vốn lưu động, tuy nhiên có thể
chia làm 3 nhóm nhân tố chủ yếu sau đây:
- Các nhân tố về sản xuất: đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất;
trình độ tổ chức quá trình sản xuất…
- Các nhân tố về mặt cung tiêu như: Khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi
cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng
vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật
tư cung cấp…
- Các nhân tố về mặt thanh toán: Phương thức thanh toán được lựa chọn theo
các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hành kỷ luật thanh
toán…

1.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.1. Khái niệm
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường: các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế; chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh
tế-xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác
định do con người đặt ra. Như vậy, có thể hiểu hiệu quả sử dụng vốn là một phạm
trù kinh tế đánh giá trình độ sử dụng các nguồn vật lực của doanh nghiệp để đạt kết
quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.
Như đã trình bày ở trên, vốn lưu động của doanh nghiệp được sử dụng cho
các quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình vận động của vốn lưu động
bắt đầu từ việc dùng tiền tệ mua sắm vật tư dự trữ cho sản xuất, tiến hành sản xuất
và khi sản xuất xong doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ để thu về một số vốn dưới hình
thái tiền tệ ban đầu với giá trị tăng thêm. Mỗi lần vận động như vậy được gọi là
một vòng luân chuyển của vốn lưu động. Doanh nghiệp sử dụng vốn đó càng có
hiệu quả bao nhiêu thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhiều bấy nhiêu.
Vì lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn
từng đồng vốn lưu động làm cho mỗi đồng vốn lưu động hàng năm có thể mua sắm
nguyên, nhiên vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ được nhiều hơn.
Những điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nâng cao tốc độ luân
chuyển vốn lưu động (số vòng quay vốn lưu động trong một năm).
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ
tiêu khác nhau nhưng tốc độ luân chuyển vốn lưu động là chỉ tiêu cơ bản và tổng
hợp nhất phản ánh trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.2.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh
hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt: mua sắm, dự trữ sản xuất, tiêu thụ của

doanh nghiệp có hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không,
các khoản phí tổn trong quá trình sản xuất – kinh doanh cao hay thấp…Thông qua
phân tích chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể giúp cho doanh nghiệp
đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
(1) Vòng quay vốn lưu động trong kỳ (L
kỳ
)
kyø
kyø
kyø
VLÑBQ
M
L =
Trong đó:
 M
kỳ
: Tổng mức ln chuyển vốn lưu động trong kỳ. Trong năm,
tổng mức ln chuyển vốn lưu động được xác định bằng doanh thu
thuần của doanh nghiệp.
Ta có:
kỳtrong quân bìnhđộng lưu Vốn
thuần thu Doanh
L
kỳ
=
Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của vốn lưu động trong một
thời kỳ nhất định (thường là một năm), chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
lưu động trên mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu thuần) và
số vốn lưu động bình qn bỏ ra trong kỳ. Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ
càng cao thì càng tốt. Trong đó:

- Vốn lưu động bình qn trong kỳ (VLĐBQ
kỳ
) được tính như sau:
2
kỳcuối
kỳđầu
kỳ
VLĐ VLĐ
VLĐBQ
+
=
- Vốn lưu động bình qn năm:
12
22
12 tháng cuối
12 tháng đầu2 tháng đầu
1 tháng đầu
năm
VLĐ
VLĐ . . . VLĐ
VLĐ
VLĐBQ
++++
=
Để đơn giản trong tính tốn ta sử dụng cơng thức tính VLĐBQ gần đúng:
2
năm cuối
năm đầu
năm
VLĐVLĐ

VLĐBQ
+
=
(2) Thời gian ln chuyển vốn lưu động (K)

×