Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

LÝ LUẬN CHUNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.71 KB, 22 trang )

LÝ LUẬN CHUNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỘ SX
1.1. Bản chất của kinh tế hộ
Thực tế ta thấy rằng ở bất kỳ quốc gia nào có nền nông nghiệp thì ở đó đều
tồn tại kinh tế hộ. Như vậy hộ ở đây được hiểu là một hình thưc tổ chức trong kinh
doanh nông nghiệp. Và để hiểu rõ được bản chất của kinh tế hộ ta tìm hiểu một số
khái niệm về hộ trên những phương diện khác nhau như sau:
Theo một số từ điển chuyên ngành kinh tế thì hộ được hiểu đơn thuần là
những người cùng sống trong một mái nhà.
Về phương diện thống kê hộ được hiểu là những người cùng sống chung
dưới một mái nhà, cùng ăn chung và cùng có chung nguồn ngân quỹ.
Nếu chỉ dừng lại ở đây ta hay nhầm khái niệm ‘hộ’ và khái niệm ‘gia đình’
là một, tuy nhiên trong thực tế hai khái niệm này lại đựơc hiểu rất khác nhau.Có thể
nói gia đình là cơ sở của hộ. Nó là một loại hình hộ quy mô nhỏ, và nó chứa đựng
những nhân tố để hình thành các loại hình hộ mở rộng khác. Đây chính là nguyên
nhân dẫn đến việc trong nhiều tài liệu thường không phân biệt được hai khái niệm
trên mà gộp chung là ‘hộ gia đình’.Thực ra khái niệm này là cách nói trùng lặp
những nội dung khác nhau của hộ và gia đình.
Từ đó người ta có một khái niệm khá đầy đủ về hộ đó là: ‘hộ là hình thức tổ
chức sản xuất bao gồm một hoặc một nhóm người có cùng huyết tộc hoặc có quan
hệ huyết tộc sống chung trong một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập và cùng
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh’.
Như vậy ở khái niệm trên ta cần lưu ý một số điểm sau về hộ:
-Hộ là một nhóm người có cùng huyết tộc hay quan hệ huyết tộc;
-Họ cùng sống chung dưới một mái nhà;
-Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung. Ăn chung ở đây không chỉ có ý
nghĩa ăn thông thường mà còn hàm ý phân phối chung nguồn thu nhập mà các
thành viên của hộ làm ra được trong một khoảng thời gian nhất định;
-Cùng tiến hành sản xuất chung.
Qua những hiểu biết về hộ ta có thể xây dựng khái niệm kinh tế hộ như sau:


Kinh tế hộ là tổng thể các quan hệ kinh tế trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của
hộ bao gồm quan hệ kinh tế nội bộ, quan hệ kinh tế giữa các hộ với nhau, và quan hệ
kinh tế giữa kinh tế hộ với các cơ quan quản lý vĩ mô.
Như vậy kinh tế hộ là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, sản xuất kinh
doanh trên cơ sở sức lao động,nguồn vốn và những tư liệu sản xuất thuộc quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng của các thành viên trong hộ.
Ta phải biết rằng kinh tế hộ trong nông nghiệp nông thôn không phải là kinh
tế nông hộ. Kinh tế nông hộ có phạm vi hẹp hơn, nó là một loại hình của kinh tế
hộ. Xét về lĩnh vực hoạt động, kinh tế nông hộ chỉ hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp); còn kinh tế hộ bao hàm cả kinh tế nông hộ và các
loại hình kinh tế hộ khác như hộ ngành nghề, hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề, hộ
làm dịch vụ….
Ngày nay khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì kinh tế hộ cũng xuất
hiện ngày càng nhiều hộ sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn.
1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ
Từ sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị năm 1988, kinh tế hộ là đơn vị kinh tế
tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là đơn vị kinh tế cơ bản nhất ở nông thôn. Đây là
đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế hộ. Tính tự chủ được biểu hiện:
-Nó là chủ thể kinh tế kinh doanh theo luật pháp và bình đẳng trước pháp
luật.
-Nó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của
mình.
-Hộ được giao quyền sử dụng đất lâu dài và được vay vôn để sản xuất kinh
doanh.
-Có quyền tham gia hợp tác với các loại hình kinh tế khác theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Chính các quyền tự chủ trên đã găn kết lợi ích với trách nhiệm và quyền lợi
của kinh tế hộ. Đây chính là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.
Về trình độ sản xuất: hiện nay trình độ sản xuất kinh doanh của các hộ chủ
yếu còn ở mức thấp, sản xuất thủ công là chính, máy móc còn ít, mô hình sản xuất

giản đơn, tổ chưc sản xuất còn mang tính tư phát - chưa thực sự xuất phát từ nhu
cầu thị trường, quy mô sản xuất còn nhỏ, người lao động chưa được đào tạo bài
bản. Đồng thời hộ vẫn chủ yếu hoạt động sản xuất kinh doanh theo tính chất truyền
thống và thường bị chi phối bởi những phong tục tập quán của làng quê. Trình độ
ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất cũng như việc sử dụng hiệu quả
các nguồn nội lực đều còn gặp phải nhiều hạn chế.
Về tổ chức: hộ bao gồm các thành viên chủ yếu có quan hệ thân thuộc với
nhau, ít lao động thuê ngoài, tuỳ thuộc vào mùa vụ trong sản xuất. Trong sản xuất
kinh doanh, chủ hộ là đại diện cũng như là lao động (lđ) trực tiếp, chịu trách nhiệm
và tự giác trong các hoạt động của hộ. Vì vậy chủ hộ thường là người lớn tuổi vẫn
còn khả năng lao động và có uy cũng như có khả năng quản lý trong gia đình.Do
cách thức tổ chức như vậy mà kinh tế hộ có sự thống nhất chặt chẽ giữa việc sở
hữu, quản lý, sử dụng các yếu tố sản xuất, có sự thống nhất giữa quá trình sản xuất,
trao đổi, phân phối và sử dụng, tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế. Do thống nhất
về lợi ích nên có sự gắn kết tính tự nguyện, tự giác cao trong lao động.
Về nhân lực: hộ chủ yếu sử dụng nguồn nhân lực tự có (các thành viên có
khả năng lao động trong gia đình). Đây là nguồn nhân lực ở quy mô gia đình được
huy động để tăng gia sản xuất. Một số hộ sản xuất hàng hoá có thể thuê thêm lao
động, đó có thể là lao động thời vụ cũng có thể là lao động thường xuyên nếu hộ đó
có quy mô sản xuất lớn. Nhưng trong nông nghiệp nước ta hiện nay với quy mô
kinh tế hộ còn nhỏ thêm vào đó là tính mùa vụ trong nông nghiệp khá cao nên việc
thuê lao động thường xuyên chiếm tỷ lệ rất ít, chủ yếu hiện nay lao động trong
nông nghiệp là lao động được thuê vào những lúc mùa vụ bận rộn.
Về quy mô sản xuất: hộ thường sản xuất sản phẩm, dịch vụ có quy mô nhỏ,
ở mức gia đình và trang trại là chủ yếu. Có nhiều lý do cho vấn đề này nhưng chủ
yếu là do điều kiện về nguồn vốn; về khả năng quản lý còn yếu; công nghệ sản xuất
lạc hậu, chủ yếu các sản phẩm sản xuất ra còn ở dưới dạng thô hoặc chế biến thủ
công nên sức cạnh tranh trên thị trường yếu.
Về khả năng quản lý: khả năng quản lý của hộ nói chung còn nhiều hạn chế.
Việc quản lý và tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được tích luỹ trong

cuộc sống chứ vẫn chưa có một lớp, một chương trình nào đào tạo một cách bài
bản về quản lý cũng như cách sản xuất cho khoa học trong nông nghiệp. Và trong
kinh tế hộ thì chủ hộ thường thống nhất quản lý mọi yếu tố từ nguyên vật liệu, sản
xuất và tiêu thụ cho nên đôi khi nó không đảm bảo được tính hiệu quả của việc
quản lý.
Về nguồn vốn sản xuất: chủ yếu là vốn tự có với quy mô nhỏ. Đây là nguồn
vốn có được do tiết kiệm tích luỹ được; hoặc do vay mượn của bạn bè người thân
quen. Đến nay khi các chính sách tín dụng của ngân hàng ngày càng quan tâm đến
việc phát triển hộ cũng như ngày càng đơn giản hoá thủ tục vay mượn, thì đã có
nhiều hộ sản xuất với quy mô lớn và kế hoạch sản xuất hợp lý đã dần tiếp cận được
với vốn tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra kinh tế hộ sản xuất kinh doanh có sự gắn bó chặtt chẽ đối với đặc
tính của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.Cụ thể như đối tượng sản xuất
của hộ chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, tính đa dạng, phức tạp về chủng loại,
thời gian sống của các loại cây - con đã quyết định tính đa dạng, phức tạp trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Vì vậy nó dẫn đến tính thời vụ trong sản
xuất, sử dụng vốn trong nông nghiệp. Do đó nó đòi hỏi tính chuyên môn hoá phải
kết hợp với đa dạng hoá trong nông nghiệp.
2. RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
2.1. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng
2.1.1. Rủi ro và sự tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị trường
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro đựơc các nhà kinh tế học đưa ra
nhưng chúng đều thống nhất ở một nội dung là coi rủi ro là những bất trắc xảy ra
trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gây nên những thiệt hại
cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu rủi ro trong kinh doanh chúng ta thấy rằng, trong hoạt động kinh
doanh luôn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể tác động trực tiếp
đến kết quả doanh lợi và là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp bất
cứ lúc nào. Nhưng không vì thế mà chúng ta hoảng sợ, không dám kinh doanh, vì
không chấp nhận rủi ro thì không thể có lợi nhuận cao bởi lẽ mọi kế hoạch kinh

doanh có khả năng thu lợi nhuận lớn thì luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng rủi ro quá
lớn thì có thể đưa người kinh doanh vào thế bị phá sản. Do vậy việc thừa nhận có
rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm nhiều phương pháp ngăn ngừa rủi ro là đòi hỏi
xuất phát từ yêu cầu của sự tồn tại và phát triển trong kinh doanh. Để đứng vững
trên thương trường, các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải
đương đầu với rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa, hạn chế nhằm
giảm tối đa thiệt hại do rủi ro gây nên.
2.1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Như chúng ta đã biết rủi ro luôn luôn tiềm ẩn trong các hoạt động của đời
sống xã hội nói chung và trong hoạt động kinh doanh nói riêng, trong đó có hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng. Ngân hàng có hoạt động đặc thù là huy động
nguồn tiền nhàn rỗi từ công chúng để kinh doanh ( dưới hình thức cho vay hoặc
đầu tư vào các tài sản sinh lời…) và cung ứng các dịch vụ thanh toán, vì vậy hoạt
động ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro .
Rủi ro là khả năng dẫn đến những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do
khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ của họ trong các giao dịch với ngân
hàng.
Xuất phát từ quan điểm và nhận thức trên, yêu cầu đặt ra cho chúng ta là
phải tìm cách giải bài toán khó khăn và phức tạp này mà mục tiêu là tối thiểu hoá
rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.2. Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với nhiều loại rủi
ro. Nhưng trong bài viết này chúng ta nghiên cứu một số rủi ro mà các ngân hàng
thương mại đặc biệt quan tâm sau:
2.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi mà khoản tiền cấp cho khách hàng sử
dụng mà ngân hàng không thu dược đầy đủ cả gốc và lãi khoản vay hoặc việc thanh
toán nợ gốc và lãi vay không đúng kỳ hạn và nội dung thoả thuận.
2.2.2. Rủi ro lãi suất
Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng vừa đóng vai trò là người

đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Để huy động được vốn, ngân hàng phải
trả một khoản chi phí gọi là lãi suất huy động vốn, và khi cho vay sẽ thu phí gọi là
lãi suất cho vay, như vậy lãi suất cũng là một loại giá cả. Trong cơ chế thị trường
giá cả luôn biến động theo quan hệ cung cầu, nên lãi suất cũng biến đổi. Thiệt hại
do rủi ro lãi suất gây ra làm chi phí cho nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn,
nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến thua lỗ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Như vậy rủi ro lãi suất là những biến động do biến động lãi suất đối với hoạt
động tài chính ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua lại của tài
sản có, tài sản nợ và các hợp đồng ngoại bảng. Cơ cấu tài sản có và tài sản nợ sẽ
quyết định tình thế rủi ro lãi suất của một ngân hàng . Tình thế rủi ro lãi suất phụ
thuộc vào mức độ mất cân đối về thời lượng giữa tài sản có và tài sản nợ. Chẳng
hạn ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn có lãi suất thay đổi để đầu tư vào tài sản
nợ dài hạn có lãi suất cố định, thì lãi suất ngắn hạn tăng lên, chi phí ngân hàng sẽ
tăng trong khi thu nhập ở tài sản dài hạn vẫn giữ nguyên.
Ngoài ra lạm phát tăng cũng ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng do lãi
suất buộc phải điều chỉnh tăng lên.
Rủi ro lãi suất liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng còn xảy ra khi
ngân hàng ký hợp đồng cho khách hàng vay theo lãi suất cố định tại thời điểm ký
hợp đồng, song đến khi giải ngân cho vay thì lãi suất huy động vốn tăng lên, nhưng
ngân hàng không tăng được lãi suất cho vay. Hoặc ngân hàng ký hợp đồng cho vay
theo lãi suất thả nổi, khi đến kỳ hạn giải ngân vốn vay, lãi suất thị trường giảm
xuống nhưng chi phí bình quân lãi suất huy động vốn vẫn ở mức cao. Rủi ro lãi
suất còn được hiểu là do lãi suất thả nổi, đến kỳ giải ngân lãi suất tăng cao, gây rủi
ro trả nợ cho ngân hàng. Do đó trong quản trị điều hành rủi ro tín dụng cần hết sức
quan tâm đến rủi ro lãi suất.
2.2.3. Rủi ro hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác. Rủi ro
hối đoái là do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Trong nên kinh tế thị
trường, tỷ giá luôn biến động. Với biến đổi của tỷ giá hối đoái, bất kỳ một khoản
nợ nào dù thời hạn dài hay ngắn, đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo ra

cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Rủi ro hối đoái liên quan trực
tiếp đến hoạt động tín dụng khi khách hàng vay vốn ngoại tệ, bán đi lấy nội tệ,
hoặc kinh doanh nhập khẩu nhưng không cân đối được vốn ngoại tệ phải mua trên
thị trường, đến khi trả nợ thì tỷ giả tăng cao, gây rủi ro cho khách hàng và cho ngân
hàng. Trường hợp rủi ro hối đoái cũng liên quan trực tiếp đến tín dụng đối với ngân
hàng khi không cân đối được nguồn ngoại tệ để cho vay, ngân hàng thương mại
luôn ở trong trạng thái “ Trường” hay “ Đoản” về một loại tài sản ngoại tệ nào đó.
2.2.4. Rủi ro nguồn vốn
Rủi ro nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức:
- Rủi ro do ứ đọng vốn: Tức là nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng
không cho vay được, cũng như không thể chuyển sang được các loại tài sản sinh lời
khác.
Như chúng ta đã biết một trong các hoạt động của ngân hàng thương mại là “
đi vay để cho vay” nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nếu số tiền huy động ngân hàng
không sử dụng hết ( tức lượng tiền dự trữ vượt mức cần thiết mà không sinh lời )
thì đến kỳ hạn ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn huy động, các chi phí nghiệp
vụ và chi phí quản lý. Điều này dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh ngân hàng không
khắc phục có thể dẫn đến đóng cửa ngân hàng.
- Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn đến ngân hàng không đủ khả năng đáp ứng nhu
cầu thanh toán của khách hàng, nếu ngân hàng không có biện pháp kịp thời để đảm
bảo khả năng thanh toán mà không có cách giải quyết kịp thời để đảm bảo khả
năng thanh toán thì rất dễ dẫn đến rủi ro thanh toán và ngân hàng dễ phá sản.
2.2.5. Rủi ro thanh khoản
Trong nền kinh tế thị trường các NHTM luôn phải duy trì một mức dự trữ
nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán hiện tại, đột xuất nảy sinh trong tương
lai. Khi ngân hàng không đảm bảo khả năng thanh toán mà không có cách giải
quyết kịp thời dễ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền trong việc rút tiền và làm cho ngân
hàng có thể phá sản.
3. RỦI RO TÍN DỤNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG

×