Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

THỰC TRẠNG NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬPNKINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.06 KB, 38 trang )

THỰC TRẠNG NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬPNKINH TẾ QUỐC
TẾ ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1 VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM VÀ ĐÁNH GIÁ
CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong phạm vi nghiên cứu của Khoá luận bao
gồm ngân hàng Nhà nước (NHNN), các ngân hàng thương mại (NHTM) : 6
NHTM quốc doanh gồm Ngân hàng Công thương Việt nam, Ngân hàng Ngoại
thương Việt nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam, Ngân hàng nông
nghiệp Việt nam, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng nhà ở đồng bằng
sông Cửu Long; 48 NHTM cổ phần; 5 NHTM liên doanh và 26 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài.
1.1. Ngân hàng Nhà nước.
Theo luật NHNN Việt Nam tháng 12/1997: NHNN Việt Nam là cơ quan của
Chính phủ và là ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là
ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và ngân hàng làm dịch vụ tiền
tệ cho Chính phủ.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập (9/1945) mọi hoạt
động thuộc lĩnh vực tài chính tiền tệ đều do Bộ Tài chính phụ trách. Đến 6/5/1951
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh 15/SL quyết định thành lập Ngân hàng quốc gia
Việt Nam để phát hành giấy bạc, làm nhiệm vụ quản lý tiền tệ và thi hành chính
sách tín dụng, nhằm phát triển kinh tế, tăng nguồn thu tài chính trên cơ sở đó chấm
dứt tình trạng lạm phát.
Trong giai đoạn từ ngày thành lập 6/5/1951 đến khi miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng 10/1954, hệ thống tổ chức của ngân hàng được xây dựng phù hợp với
hoàn cảnh của kháng chiến. Hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng quốc gia nhằm
vào công cuộc phục vụ kháng chiến, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường mối quan hệ
giữa Nhà nước dân chủ nhân dân với các tầng lớp nhân dân.
Trong giai đoạn từ 1954 đến 1988 hệ thống tổ chức của ngân hàng quốc gia
được sắp xếp lại phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hoạt động của
ngân hàng quốc gia đã góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ


nghĩa, cải tạo các thành phần kinh tế, xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể, phục vụ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngày 21/1/1960 ngân hàng quốc gia Việt Nam đổi tên thành ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Tổ chức của NHNN là tổ chức của ngân hàng một cấp với các
chức năng tương đối tổng hợp phù hợp với yêu cầu của cơ chế quản lý kế hoạch
hoá tập trung bao cấp. Đặc điểm cơ bản của của mô hình tổ chức này là: Nằm trong
hệ thống tổ chức của ngân hàng, Nhà nước thống nhất hình thành một tổ chức bao
gồm các ngân hàng chuyên doanh như Ngân hàng công nghiệp, Ngân hàng thương
nghiệp, Ngân hàng ngoại thương trực thuộc ngân hàng Nhà nước. Nó chỉ có bộ
máy ở Trung ương mà không có các tổ chức ở cơ sở. Hệ thống tổ chức của NHNN
trong thời kỳ này là ngân hàng một cấp mang đầy đủ chức năng của mô hình cũ.
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 quyết định hệ thống NHNN được tổ
chức lại, hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, tách bạch rõ chức năng quản lí Nhà
nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Theo đó NHNN là cơ quan của
Chính phủ, có chức năng quản lí Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân
hàng trong cả nước nhằm làm ổn định giá trị đồng tiền, thực hiện chức năng vai trò
của một Ngân hàng Trung ương. Các ngân hàng chuyên doanh tách ra khỏi hệ
thống tổ chức của NHNN, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập, tự
chủ về tài chính.
Ngày 12/12/1997 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, kì họp thứ hai khoá 10
đã thông qua Bộ luật NH: Luật NHNN Việt Nam và luật các TCTD. Luật NHNN
Việt Nam xác định NHNN là cơ quan của chính phủ, là ngân hàng Trung ương của
nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện chức năng quản lí Nhà nước về tiền tệ và
hoạt động NH, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và làm dịch
vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của NHNN Việt Nam nhằm làm ổn định giá
trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các
TCTD, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN. NHNN là pháp
nhân có vốn pháp định thuộc sở hữu Nhà nước, có trụ sở chính tại Hà Nội.
1.2. Ngân hàng thương mại.
Trước khi hệ thống ngân hàng chuyển từ 1 cấp sang 2 cấp vào năm 1988, Nhà

nước đã thống nhất hình thành một tổ chức bao gồm các ngân hàng chuyên doanh.
Các ngân hàng này chỉ có bộ máy ở Trung ương mà không có tổ chức ở cơ sở. Do
đó hoạt động của chúng mang tính chất như là một vụ chức năng của NHNN. Sau
khi hệ thống ngân hàng chuyển từ 1 cấp sang 2 cấp thì các ngân hàng chuyên
doanh được tách ra khỏi hệ thống của NHNN, hoạt động kinh doanh theo nguyên
tắc hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính. Đến 12/12/1997 Quốc hội đã
thông qua luật các TCTD, luật này điều chỉnh hoạt động của các TCTD, trong đó
có các NHTM.
Các NHTM Việt Nam sau khi có luật điều chỉnh được phát triển theo hướng:
-Đa dạng hoá.
-Đa sở hữu.
-Xây dựng hệ thống ngân hàng vừa chuyên doanh vừa kinh doanh tổng hợp và đa
năng. Ngoài các ngân hàng chuyên doanh còn phát triển các ngân hàng kinh
doanh tổng hợp và đa năng, nhằm tạo khả năng kinh doanh dịch vụ đa sản phẩm,
đáp ứng đòi hỏi ngày càng đa dạng của thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
-Phục vụ đa thành phần khách hàng.
-Thực hiện đa lĩnh vực đầu tư.
-Thực hiện kiểm soát gián tiếp thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
-Xây dựng cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng tự do hoá có kiểm soát, làm cho
đồng Việt Nam được tự do chuyển đổi.
1. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt nam (HTNHVN) đã có nhiều nỗ
lực và thực tế đã đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận trong quá trình hoạt
động của mình chuẩn bị cho hội nhập và tự do hoá quốc tế.
Về lĩnh vực ngoại hối, từ nửa cuối những năm 80, trước nhu cầu đổi mới của
đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ, phát triển kinh tế quốc dân, góp
phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài NHNN cùng
phối hợp với Hội đồng bộ trưởng đã ra nghị quyết 161 chính thức dỡ bỏ thế độc

quyền về kinh doanh ngoại hối tại Việt nam. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra
môi trường và điều kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối có tổ chức, hình
thành một sân chơi có yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước sự đòi
hỏi phát triển các hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế, NHNN đã lần lượt cấp giấy phép kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế...
cho các ngân hàng Thương mại hoạt động tại Việt nam. Năm 1991 là năm đánh
dấu lịch sử cho việc thành lập nền móng đầu tiên của thị trường ngoại hối Việt
Nam, đó là việc Thống đốc NHNN ra quyết định số 107 –NH/QĐ ngày 16/08/1991
ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của hai trung tâm giao dịch và ngoại tệ tại
Hà nội và thành phố Hồ chí Minh. Đó là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống Ngân
hàng trong quá trình đổi mới thực hiện theo cơ chế thị trường. Thông qua hoạt
động mua bán tại hai Trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN
đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền
tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào
các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Với sự can thiệp của NHNN, trong một thời
gian dài từ năm 1992 đến 1993, tỷ giá được duy trì ổn định đã tạo tâm lý ổn định
cho thị trường và thu hút được một lượng kiều hối và đầu tư nước ngoài khá lớn
vào Việt nam; mặt khác việc duy trì lãi suất thực dương của VND cao đã khuyến
khích các tổ chức cá nhân bán ngoại tệ để gửi bằng VND. Cả hai yếu tố trên đã
đồng thời ảnh hưởng đến sự ổn định giá trị VND và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia.
Việc ổn định tỷ giá có ảnh hưởng tốt đến mặt bằng giá trong nước dẫn đến chỉ số
lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều hướng giảm, trong khi
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam qua các năm không ngừng tăng lên. Năm
1991 lạm phát là 67,6%, tăng trưởng kinh tế là 6,0%, đến năm 1993, lạm phát giảm
còn 5,2%, tăng trưởng kinh tế tăng thành 8,1%. (Theo Lịch sử kinh tế quốc dân,
GS. PTS Nguyễn Chí Dĩnh)
Ngày 20/9/1994, theo quyết định số 203/ QĐ-NH9 thị trường Ngoại tệ liên
ngân hàng được thành lập. Từ đây, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân
hàng thương mại đã được thực hiện trong một hành lang pháp lý chặt chẽ, từng
bước đi vào nề nếp theo chuẩn mực quốc tế, các nghiệp vụ kinh doanh ngày càng

được mở rộng, doanh số giao dịch ngày một lớn, nhiều ngân hàng đã tổ chức kinh
doanh ngoại tệ theo mô hình của một ngân hàng hiện đại. Cùng với nó là sự ban
hành Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng 12/1997 nhằm đưa Thị trường tiền
tệ liên ngân hàng phát triển ở trình độ cao hơn, chặt chẽ hơn.
Cùng với việc hoàn thiện dần thị trường ngoại hối, cơ chế điều hành tỷ giá
cũng đang dần đuợc sửa đổi theo hướng phù hợp hơn với việc liên tục tiến hành
những cải cách về tỷ giá. Bắt đầu từ năm 1988, NHNN công bố tỷ giá chính thức
gần với tỷ giá thị trường tự do, đồng thời chấm dứt chế độ hai tỷ giá là mậu dịch và
phi mậu dịch. Tiếp theo là vào năm 1991, công bố tỷ giá chính thức dựa vào tỷ giá
hình thành tại hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Ngoài việc ấn định tỷ giá chính thức, NHNN còn điều chỉnh biên độ dành
cho các Ngân hàng Thương mại xác định tỷ giá kinh doanh của mình, đặc biệt là
tháng 2/1997, biên độ dao động được nới rộng dần cho đến tháng 8/1998 NHNN
đã 3 lần nới rộng biên độ với mức cao nhất là +/-10 %. Song các bước cải cách này
chỉ mang tính chất điều chỉnh giá trị của VND so với USD chứ không làm thay đổi
cơ chế điều hành của tỷ giá.
Tháng 2/1999, với sự ra đời của Quyết định 64/QĐ-NHNN7 ngày 25/02/99,
cơ chế tỷ giá Việt Nam có bước cải cách triệt để hơn. NHNN đã bãi bỏ việc công
bố tỷ giá chính thức và thay vào đó là việc công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các ngân hàng Thương mại được phép xác định
tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với USD không được vượt quá 0,1% so với tỷ giá bình
quân giao dịch liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày.
Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện nay là không ấn định một cách cứng
nhắc bằng mệnh lệnh hành chính, chênh lệch nhiều với tỷ giá thực tế giao dịch trên
thị trường mà là tỷ giá thực tế hình thành khách quan trên thị trường có tổ chức và
thị trường tự do. Thay thế việc quản lý mang nặng tính chỉ đạo của NHNN (định tỷ
giá chính thức và biên độ giao dịch tối đa cho cả một thời kỳ dài) bằng một cơ chế
mềm dẻo hơn, ít mang tính áp đặt hơn, dựa vào công cụ kinh tế là chính nhưng
không buông lỏng thả nổi tỷ giá một cách tuỳ tiện.
Việc dần dần loại bỏ các quy định mang tính hành chính cũng được áp dụng

đối với lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) để từng
bước tiến tới một cơ chế lãi suất có tính thị trường hơn. Đặc biệt, từ ngày 01-06-
2002, lãi suất đồng nội tệ gần như chính thức được tự do hoá hoàn toàn khi NHNN
cho phép thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận. Theo cơ chế này, “tổ chức tín dụng
xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam trên cơ sở cung cầu vốn trên thị
trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các tổ chức pháp nhân và cá
nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam” ( Điều
1, Quyết định 546/20022/QĐ-NH ngày30/05/2002 của Thống đốc NHNN).
Về hoạt động thanh toán, việc đưa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
vào hoạt động từ ngày 02/05/2002 là một thành công lớn của HTNHVN. Đến nay
đã thực hiện được bình quân 7000 món chuyển tiền /ngày, có ngày lên tới 12000
món với doanh số trên 3000 tỷ đồng. (Báo Thị trường tài chính tiền tệ 15/5/2003,
trang 29). Sau hơn 1 năm hoạt động, doanh số thanh toán qua hệ thống thanh toán
điện tử liên ngân hàng đã đạt hơn 1.000.000 món chuyển tiền với số tiền là hơn
600.000 tỷ đồng. Tuy mới chỉ là kết quả ban đầu, nhưng hệ thống điện tử liên ngân
hàng đã chứng minh ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng.
Bên cạnh đó các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng quan tâm đến việc cải
thiện hệ thống công nghệ thông tin ở các ngân hàng mình, việc đầu tư phát triển
công nghệ mới trở thành một cuộc chạy đua giữa các ngân hàng. Tiện ích cho
khách hàng được mở rộng thông qua dịch vụ ngân hàng điện tử đang được đầu tư
lớn taị các ngân hàng như ACB,Vietcombank, Sacombanhk, Techcombank,
Eximbank, ...
Trong thời gian gần đây, việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
cũng đã thu hút sự quan tâm cuả nhiều ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng đã
mạnh dạn đưa ra nhiều nghiệp vụ mới ở Việt Nam, đơn cử như nghiệp vụ quyền
lựa chọn ngoại tệ (Option), và sắp tới là nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, nghiệp vụ bán
lẻ cũng được các ngân hàng khai thác mạnh bằng việc ngày càng mở ra nhiều dịch
vụ đáp ứng các nhu cầu tài chính cá nhân...
Nhìn lại thực trạng hoạt động trong những năm qua, có thể nhận thấy

HTNHVN đã có những bước đi đúng đắn và tích cực trong việc đưa hoạt động
ngân hàng Việt Nam ngày càng tiến dần đến những chuẩn mực quốc tế, tạo nền
tảng cho việc hội nhập vào ngân hàng thế giới.
Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, do xuất phát từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, từ một nền kinh tế có bước xuất phát điểm thấp, lại trải qua chiến tranh
liên miên, cộng với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác, vẫn còn rất nhiều
vấn đề tồn tại đòi hỏi HTNHVN cần phải giải quyết, khắc phục, đặc biệt là giờ đây
phải đối phó với cuộc cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng hiện đại trên thế giới
với một bề dày thành tích và kinh nghiệm lâu năm .
Theo điều tra tại một cuộc hội thảo gần đây về hoạt động chuẩn bị cho hội
nhập của các ngân hàng Việt Nam cho thấy các NH Việt Nam đã tiến hành hội
nhập nhưng không mấy lạc quan. Các NH trong nước được ghi nhận là có lợi thế
cạnh tranh hơn do đã hình thành được một mạng lưới các chi nhánh rộng khắp, đã
sẵn có các mối liên hệ với khách hàng từ nhiều năm nay, nhưng theo một nhận xét
của một quan chức ngân hàng “Mạng lưới rộng nhưng nếu không nối kết được với
nhau thì cũng chỉ là hàng ngàn những ốc đảo trơ trọi. Trong khi đó các NH nước
ngoài với thế mạnh đi trước về công nghệ cũng có thể tổ chức cung cấp dịch vụ
khắp nơi và tức thời”. Đó là lợi thế cạnh tranh duy nhất chúng ta có nhưng xem ra
nó cũng thật mong manh nếu chúng ta không biết tận dụng và phát triển nó, điều
đó chứng tỏ năng lực cạnh tranh của các ngân hàng chúng ta còn rất kém thể hiện ở
quy mô nguồn vốn còn quá nhỏ bé so với tỷ trọng vốn vay trong tổng vốn, tỷ lệ
cho vay không hiệu quả chiếm tỷ lệ rất cao, theo đánh giá của IMF, tỷ lệ cho vay
không hiệu quả của các NHTM cổ phần ở Việt Nam là 40%, của các NHTM quốc
doanh là 25%.
Bên cạnh đó, tình trạng nợ quá hạn rất cao. Đến 30/06/2000, tình trạng nợ quá
hạn chiếm khoảng 6,13% tổng dư nợ, số nợ quá hạn này chưa tính nợ đã khoanh và
nợ chờ xử lý. (Theo tài liệu hội thảo về chủ động hội nhập tài chính của Việt nam -
Tác giả: Phạm Phan Dũng, Phó vụ trưởng Vụ tài chính ngân hàng, Bộ tài chính).
Trình độ quản lý điều hành và tác nghiệp của cán bộ NH còn kém, trang thiết bị và
công nghệ còn lạc hậu so với khu vực và thế giới. Do tác động của khủng hoảng

kinh tế trong khu vực và tình hình tài chính kinh tế trong nước có giảm phát đã tác
động một phần tới khả năng hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế và hoạt động bình
thường của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại có số
lượng lớn nguồn vốn ứ đọng trong ngân hàng không cho vay không đầu tư ra được.
Hệ thống tổ chức tín dụng Việt nam rất đa dạng về loại hình, về sở hữu. Các
TCTD tuy số lượng nhiều nhưng đang gặp khó khăn như quy mô nhỏ, số vốn điều
lệ thấp; mạng lưới chi nhánh và các sản phẩm dịch vụ còn kém; mức độ an toàn
thấp; điều kiện cung cấp tín dụng còn phân biệt theo khu vực kinh tế. Đối với
NHNN thì vẫn chưa thực sự thể hiện vai trò là một ngân hàng mẹ, can thiệp quá
sâu vào hoạt động của hoạt động của các ngân hàng. Đối với thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng, NHNN vừa tham gia với vai trò là NHTW, vừa là thành viên, vừa
là người tổ chức quản lý điều hành hoạt động.
Mặc dù đã có nhiều sửa đổi cải cách thích hợp, song thị trường ngoại hối Việt
Nam vẫn còn sơ khai, độ thanh khoản thấp, chưa thể đáp ứng cho nhu cầu hội
nhập, các giao dịch hối đoái chủ yếu vẫn là giao ngay (spot) đơn thuần, khối lượng
giao dịch ngoại tệ chưa cao, tình trạng đầu tư găm giữ ngoại tệ còn khá phổ biến,
dẫn đến việc đánh giá tình hình cung cầu ngoại tệ rất khó khăn, cơ chế điều hành
tỷ giá được xem là khá căn bản song chỉ là trong ngắn hạn, về lâu dài, nhất là khi
chúng ta đã trở thành thành viên cuả WTO thì phải hướng tới một tỷ giá linh hoạt
hơn, tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại
hối. Về chính sách lãi suất, gần đây xảy ra tình trạng lãi suất tăng cao đến mức báo
động là một minh chứng cho quyết định có lẽ hơi vội vàng của NHNN trong việc
thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận VND.
Bên cạnh đó, luật NHNN vẫn còn dáng dấp của cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, trong khi pháp lệnh ngân hàng đã bỏ lâu rồi, trong tổng số 63 điều luật
NHNN thì đã có đến 19 điều do Chính phủ quyết định.
Mặt khác, trong việc quản lý các ngân hàng thương mại, NHNN còn thiếu
tính cương quyết xử lý những NHTM cổ phần vi phạm những quy định về vốn
điều lệ, dự trữ bắt buộc, thành phần cổ đông, ... cấp phép cho các ngân hàng hoạt
động tràn lan, không tính đến các tiêu chuẩn về vốn, năng lực điều hành. Trong số

31 ngân hàng cổ phần đô thị đã đựoc NHNN cấp phép hoạt động, có tới 19 ngân
hàng được điều chỉnh nâng cấp từ các quỹ tín dụng cũ (các quỹ tín dụng thành lập
và lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả những năm 1989-1990).
Công tác kiểm tra thanh tra của NHNN chưa kịp thời phát hiện những sai
phạm trong hoạt động của các ngân hàng, kể cả NHTM quốc doanh. Rất nhiều sai
phạm của các NH không phải do thanh tra NHNN phát hiện mà do cơ quan điều tra
phát hiện, điển hình là vụ NHTM cổ phần Minh Phụng EPCO. Việc cung cấp
thông tin, dự báo và phòng ngừa rủi ro chưa được thực hiện hiệu quả, mặc dù đã
thiết lập trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng đặt tại NHNNTW và các chi nhánh
NHNN.
Hệ thống tổ chức, cơ cấu còn bộc lộ nhiều thiếu sót, chưa thực sự hiệu quả
cho vai trò tự chủ của NHNN, chức năng của các cục, vụ cần được thay đổi lại.
2. THỰC TRẠNG NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐẾN NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
3.1 Tác động tới hệ thống pháp luật có liên quan.
Luật pháp và kỉ cương là nền tảng cơ bản cho sự ổn định và sự phát triển bền
vững của một quốc gia. Tuy nhiên xét một cách tổng quát thì hệ thống pháp luật
của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, thiếu ổn định, quá chung chung, chồng chéo và
mâu thuẫn nhau. Nhận thức pháp luật của người dân chưa cao, năng lực thực thi
pháp luật mới chỉ tập trung ở cấp Trung ương, còn ở cấp thấp hơn rất hạn chế. Đặc
biệt việc diễn giải pháp luật của Việt Nam không nhất quán, việc điều hành chủ
yếu bằng các văn bản pháp luật, mà trong hệ thống pháp luật còn có quá nhiều văn
bản chưa phù hợp cần phải rà soát, bãi bỏ, sửa đổi và bổ sung. Theo thống kê của
Bộ Nội vụ, đến thời điểm hiện nay đã phát hiện trong 7.000 văn bản pháp luật của
Chính phủ và các bộ có trên 2.000 văn bản huỷ bỏ, trên 1.000 văn bản cần bổ sung
và sửa đổi; trong số 54.000 văn bản của chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có 10.000 văn bản cần huỷ bỏ và xấp xỉ 1.300 văn bản
cần bổ sung, sửa đổi.
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các văn bản không còn phù hợp.
Hội nhập kinh tế quốc tế và các cam kết của Việt Nam liên quan đến lĩnh vực

ngân hàng trong HĐTM Việt - Mỹ, WTO và AFTA đòi hỏi công tác rà soát lại
toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về ngân hàng cần sớm được tổ
chức và triển khai để kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội sửa đổi, bổ sung, xây
dựng các văn bản cho phù hợp với các cam kết trong HĐ. Đây là một tác động lớn
nhất, bao trùm đến hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Giáo sư luật David
A.Gant (trường ĐHTH Arizona, Hoa Kỳ) đã nhận xét rất xác đáng rằng: “so với
một vài nước khác, Việt Nam có nhiều khó khăn hơn trong việc tiến hành sửa đổi
luật pháp của mình”. Ở Hoa Kỳ và Mehico, Nghị viện (Quốc hội) có thể ban hành
một đạo luật đơn lẻ mới, trong đó sửa đổi tất cả các đạo luật hiện hành có yêu cầu
phải sửa đổi để thực thi một HĐTM, ví dụ Luật thi hành Hiệp định tự do thương
mại Bắc Mỹ Hoa Kỳ. Hoặc cũng có thể đưa vào luật một điều khoản quy định:
“Luật này thay thế bất kì luật nào được ban hành trước đây mà nay không còn phù
hợp”. Ngược lại, do tính chồng chéo của các văn bản pháp luật hiện hành, Việt
Nam phải sửa đổi riêng rẽ từng đạo luật có yêu cầu phải sửa đổi để đảm bảo phù
hợp với một HĐTM.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số
5069/VPCP-TCQT ngày 21/11/2000 v/v yêu cầu các Bộ, ngành, tổ chức rà soát
toàn bộ văn bản pháp luật, kể cả văn bản pháp quy hiện hành về quan hệ kinh tế-
thương mại thuộc lĩnh vực mình quản lí, NHNN đã tiến hành rà soát các văn bản
pháp luật thuộc lĩnh vực ngân hàng và đối chiếu với các cam kết của ta trong
HĐTM Việt - Mỹ, cam kết trong AFTA và WTO, từ đó kiến nghị những văn bản
cụ thể cần sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới phục vụ cho viêc hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở các kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
ngân hàng, tháng 4/2002, NHNN Việt nam đã xây dựng “Kế hoạch sửa đổi, bổ
sung các văn bản theo những cam kết trong hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ đối với ngành ngân hàng và dịch vụ tài chính”. Bản kế hoạch này bao gồm nội
dung các công việc cụ thể để các vụ, cục có liên quan trong ngân hàng nhà nước
tiến hành triển khai công tác nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc soạn thảo các văn
bản mới có liên quan hoặc dự thảo các văn bản gửỉ các Bộ, Ngành có liên quan đến
các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng theo lộ trình của HĐTM Việt - Mỹ và các

cam kết khác trong AFTA và bản lời chào trong WTO.
Công tác rà soát văn bản pháp luật là một trong những nhiệm vụ thường
xuyên của NHNN và của các cơ quan quản lí nhà nước. Vừa qua NHNN đã thay
thế, huỷ bỏ, bãi bỏ 168 văn bản do NHNN ban hành từ ngày 1/10/1999 đến hết
năm 2001 (theo công văn số 282/NHNN ngày 21/3/2002).
Hiện nay có một số văn bản pháp luật hiện hành đang điều chỉnh hoạt động ngân
hàng cần phải chỉnh sửa, bổ sung và đã được các chi nhánh NHNN kiến nghị.
3.1.1.1. Luật NHNN Việt Nam.
NHNN đang xem xét và trình Quốc hội, Chính phủ chỉnh sửa một số nội dung
của luật NHNN trên các mặt sau:
- Về việc thực hiện chức năng của NHNN:
Pháp lệnh NHNN Việt nam, Pháp lệnh Ngân hàng- Hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính, ban hành theo lệnh số 37 và 38 - LCH/HĐNN 8 ngày 24/5/1990
của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đánh dấu một bước cải tổ cơ bản từ hệ thống
ngân hàng một cấp của nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyển qua hệ thống ngân
hàng hai cấp hoạt động theo cơ chế thị trường. Đến ngày 25/12/1997 lệnh 01-
L/cTN của Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Luật
NHNNVN và luật các TCTD nhằm nâng cao tính pháp lý để hoạt động. Hai luật
này tuy được quy định nhiều điều hơn hai Pháp lệnh (Luật NHNN có 63 điều/ Pháp
lệnh 55 điều; Luật các tổ chức tín dụng có 131 điều) trong đó có không ít điều lan
man không cần thiết, vẫn còn dáng dấp của nền kinh tế kế hoạch tập trung với
chính sách ưu đãi xin cho, thiếu các yếu tố pháp lý về tạo lập một môi trường bình
đẳng để làm động lực phát triển cho một nền kinh tế và chưa phù hợp với yêu cầu
hội nhập thương mại quốc tế.
Trong thực tế, vai trò của NHNN trong luật NHNN so với trong pháp lệnh bị
thụt lùi, rõ nhất là việc xoá bỏ một hội đồng quyền lực, tại điều 4, Pháp lệnh
NHNN: “Việc quản trị NHNN do hội đồng quản trị đảm nhiệm...”. Điều 11 Pháp
lệnh NHNN: “Hội đồng quản trị quyết định theo đa số phiếu...”. Theo thông lệ
quốc tế, NHTW ở các nước đều có một Hội đồng có quyền lực, mỗi nước gọi tên
Hội đồng này khác nhau: Hội đồng chính sách tiền tệ: Hội đồng ngân hàng; Uỷ ban

chính sách tiền tệ; Hội đồng quản trị... Quốc hội và Chính phủ giao quyền cho
NHTW không chỉ giao một mình thống đốc mà giao cho cả một tập thể lãnh đạo có
trí tuệ để hoạch định chính sách tiền tệ tín dụng, có đủ năng lực ứng phó kịp thời
trước những diễn biến phức tạp của thị trường. Lúc này, Chính phủ nên rút bớt sự
can thiệp quá sâu vào hoạt động ngân hàng cho phù hợp với nội dung cải cách
hành chính của Chính phủ, nhất là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
khẩn trương.
Loại bỏ những điều đã ghi trong Luật NHNN theo kiểu hành chính như một
bộ chủ quản, để trở về với vai trò của một NHTW thật sự, đặt mình là thành viên
của thị trường để sử dụng các phương tiện sẵn có biến nó trở thành các công cụ
chính sách uyển chuyển để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ một cách sắc bén
nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn. NHTW phải luôn luôn đứng ở vị trí là
người can thiệp cuối cùng, chuyển phương pháp quản lý trực tiếp hành chính sang
phương pháp quản lý gián tiếp. Đi sâu vào một số điều trong luật NHNN lại thấy
dáng dấp cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trở lại, trong tổng số 63 điều của luật
NHNN thì đã có 19 điều do Chính phủ quyết định. Điều 3.1 trong luật NHNN Quy
định: “Quốc hội quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm,
mục đích sử dụng số tiền này ...”; Điều 15.1: “Trách nhiệm NHNN... xây dựng kế
hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ ...”;
Điều 15.2: “... thực hiện đưa tiền ra lưu thông, ... theo tín hiệu thị trường trong
phạm vi lượng tiền cung ứng đã được chính phủ phê duyệt”, ... Nội dung của các
điều này là sản phẩm của nền kinh tế chỉ huy tập trung, các quyết định từ trên
xuống như các chỉ tiêu pháp lệnh, bắt buộc cấp dưới bất kỳ tình huống nào cũng
phải chấp hành nghiêm chỉnh. Nay nó không còn phù hợp nữa bởi cơ chế kinh tế
thị trường phải quyết định từ bên dưới, chính thị trường là người quyết định nên
phải tuân thủ theo quy luật của nó, thực tế các điều quy định trong Luật NHNN nêu
trên đây không còn phù hợp. Có chăng chỉ để cho nhà in ngân hàng chuẩn bị việc
in ấn tiền hàng năm mà thôi, liệu có quan trọng tới mức phải đưa ra Quốc hội để
quyết định? Cũng theo điều 15, 16 luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN là cơ
quan của Chính phủ và là ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam”

nhưng trên thực tế NHNN chủ yếu thực hiện chức năng quản lí nhiều hơn là thực
hiện chức năng của một ngân hàng Trung ương, bởi vì NHNN Việt Nam chưa độc
lập trong việc quyết định chính sách tiền tệ do vẫn chịu sự tác động của Chính phủ
trong khi lại phải chịu trách nhiệm chính về việc thực hiện chính sách tiền tệ.
NHNN vẫn phải ổn định tỉ giá đồng Việt Nam, đảm bảo thanh toán xuất nhập khẩu
nhưng nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu tài nguyên lại do Bộ Tài chính quản lí. Vì
vậy cần phải chỉnh sửa nội dung này để NHNN có thể thực hiện đúng chức
năng của một Ngân hàng Trung ương.
- Về việc điều chỉnh lãi suất:
Từ cuối năm 2002 đến giữa năm 2002, lãi suất huy động nội tệ của các ngân
hàng thương mại đã liên tục tăng trưởng, như là một cuộc chạy đua gay gắt về lãi
suất giữa các ngân hàng thương mại. Việc lãi suất liên tục bị đẩy lên cao có tác
động trực tiếp đến sự an toàn và hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Điều này
chứng tỏ việc quyết định thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận VND của chính phủ
có lẽ vội vàng, song có lẽ điều đáng nói hơn cả là khả năng can thiệp bằng các
công cụ gián tiếp của NHNN còn rất yếu kém. Việc điều tiết cung- cầu về vốn
thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu... hiệu
lực thấp do thị trường tiền thứ cấp còn sơ khai, hàng hoá của thị trường tiền tệ còn
thiếu và kém đa dạng... Chính vì vậy, khi lãi suất thị trường tăng cao, trong điều
kiện lãi suất cơ bản đã được tự do hoá, NHNN tỏ ra thụ động và rất thiếu sự can
thiệp kịp thời. Lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có tính tham khảo, không có
tác động đến việc xác định lãi suất của các NHTM. Muốn tiến tới tự do hoá lãi suất
cần có những bước đi thích hợp và thận trọng, đặc biệt là phải gắn liền với sự phát
triển của thị trường tiền tệ và khả năng sử dụng hiệu quả các công cụ gián tiếp
trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Vậy nên, các NHNN tỉnh và thành
phố kiến nghị NHNN Việt Nam nên công bố lãi suất tái cấp vốn để điều hành
chính sách lãi suất thay cho việc công bố lãi suất cơ bản như hiện nay bởi vì lãi
suất cơ bản do NHNN công bố chỉ là cơ sở để tham khảo cho việc quyết định mức
lãi suất thoả thuận của mình chứ chưa thực sự là lãi suất điều hành nền kinh tế theo
chính sách tiền tệ nới lỏng hoặc thắt chặt, đồng thời cần hoàn thiện và nâng cao

×