Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

De cuong mon PHAN TICH VA BINH GIA TAC PHAM VAN HOC (lop Bien kich)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.29 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỀ CƯƠNG </b>



<b>PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN HỌC </b>


GV: Nguyễn Thành Trung


Thời lượng: 60 tiết (11 +1)
<b>CHƯƠNG KHÁI QUÁT </b>


0.1. Chức năng
0.2. Nhiệm vụ
0.3. Yêu cầu
0.4. Mục tiêu
0.5. Lịch sử


0.6. Giáo trình, tài liệu
_Đề cương của giáo viên


_Hà Minh Đức (1997), <i>Lí luận văn học</i>, NXB GD, Hà Nội
0.7. Cấu trúc chương trình


<b>CHƯƠNG 1 – PHÂN TÍCH, BÌNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT – </b>
<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG </b>


1.1. Hệ thống thuật ngữ


1.1.1. Nghệ thuật – tác phẩm nghệ thuật
1.1.2. Văn học - tác phẩm văn học
1.2. Tính chất phân tích và bình giá


1.3. Thao tác phân tích và bình giá tác phẩm văn học



<b>CHƯƠNG 2 – LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH, BÌNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN HỌC </b>
2.1. Thế giới


2.1.1. Marxist


2. 1.2. Duy ý chí (Voluntarism)


2. 1.3. Văn hóa – lịch sử (Cultural- historical school)
2. 1.4. Hình thức (Formalism)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

2. 1.6. Mỹ học tiếp nhận (Receptive esthetics)
2. 1.7. Hiện tượng luận (Phenomenology)
2. 1.8. Cấu trúc (Structuralism)


2. 1.9. Mỹ học phân tích (Analitic esthetics)
2. 1.10. Phê bình huyền thoại <i>(</i>Myth criticism)
2.1.11. Nữ quyền luận (Feminism)


2.1.12. Thuyết đồng tính (Queer Theory)
2.1.13. Hậu thực dân (Postcolonialism)
2.1.14. Hậu hiện đại (Postmodernism)


2.1.15. Tân duy sử (New Historicism) và Duy vật văn hoá (Cultural Materialism)
2.2. Ở Việt Nam


<b>CHƯƠNG 3 – THỰC HÀNH PHÂN TÍCH, BÌNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN HỌC </b>
Vấn đề thể loại


_Phân định thể loại của Aristote



_Xác định phương pháp: tự sự, trữ tình, kịch
3.1. Phân tích bình giá tác phẩm tự sự


3.1.1. Các thành tố nghệ thuật
_Lớp ngơn ngữ


_Lớp hình tượng
_Lớp cấu trúc
_Lớp ý nghĩa
3.1.2. Bài tập


Từ truyền thuyết <i>Trọng Thủy Mỵ Châu</i> đến vở <i>Chiếc áo Thiên nga</i>
3.2. Phân tích bình giá tác phẩm trữ tình- thơ


3.2.1. Khái quát về thơ
3.2.2. Thao tác phân tích thơ


3.2.3.Ứng dụng lý thuyết hiện đại để phân tích, bình giá thơ – Lý thuyết thi pháp học
Roman Jakobson


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

_Kết cấu thơ
_Ngơn ngữ thi ca


3.2.4. Phân tích bài thơ <i>Long Thành cầm giả ca</i>
3.2.5. <i>Long Thành cầm giả ca</i> từ thơ ca đến điện ảnh
3.3. Phân tích bình giá tác phẩm kịch


3.3.1. Khái quát kịch


3.3.2. Phương pháp phân tích và bình giá kịch


3.3.3. Bài tập


3.3.3.1. Phê bình đánh giá bài báo về <i>Vũ Như Tơ </i>


3.3.3.2. Giới thiệu trong vịng 300 từ vở kịch <i>Dạ cổ hoài lang</i> của Thanh Hoàng
3.4. Mối quan hệ văn học và điện ảnh


3.4.1. Văn học, điện ảnh – vấn đề thể loại
3.4.2. Nghệ thuật phim hài Châu Tinh Trì


<i>_Vua hài kịch, Quốc sản 007, Tế cơng, Đội bóng Thiếu lâm, Tuyệt đỉnh kungfu… </i>


TÀI LIỆU: Vũ Như Tô từ kịch bản đến vở diễn


Vũ Như Tô là vở kịch đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng, được viết ra từ mùa thu năm
1941; hai năm sau (1943) mới công bố trên tạp chí Tri Tân. Nhưng có thể nói, đây là sáng
tác hàm chứa bản tuyên ngôn nghệ thuật, và thuộc vào loại tiêu biểu cho cả sự nghiệp văn
chương của Nguyễn Huy Tưởng.


Hơn một lần nhiều nghệ sĩ sân khấu ôm ấp dự định đưa kịch bản nhiều chất kịch này
lên sàn diễn mà vì nhiều lý do, khơng sao biến khả năng đó thành hiện thực. Không những
thế, sự nhận thức, đánh giá về vở kịch, nhất là về nhân vật Vũ Như Tô lại phân cực thành
hai luồng trái chiều. Người khen, kẻ chê với rất nhiều những chứng lý, xem ra khó bắt bẻ!
Vũ Như Tơ, rút lại là đáng thương hay đáng giận? Hoặc đi sâu hơn vào mâu thuẫn nội tại
của hình tượng nhân vật này, kết luận rằng đó là loại người phức tạp, đa diện vừa có mặt
khả thủ lại vừa có nét đẹp bất cập vốn khá hiếm hoi trên sân khấu và văn học của ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đã hồn tất, nó cũng tồn tại như một sinh thể, có cuộc sống riêng độc lập với ngay người
sáng tác ra nó, cũng như cảm nhận của cơng chúng...



Vấn đề đặt ra từ hình tượng Vũ Như Tơ dường như vẫn cịn treo lại đó, chờ đợi sự lý
giải đủ sức thuyết phục và độ tin cậy cao làm cơ sở đưa nó lên sàn diễn sân khấu.


Và như vậy, Vũ Như Tô vẫn cứ phải sống “một cách nửa vời“ trong thế giới của những con
chữ dù có xao động đến đâu vẫn cứ là thầm lặng, “vô cảm“ suốt hơn nửa thế kỷ, mong mỏi
con mắt xanh tri âm tri kỷ kéo nó ra khỏi trang sách đầy lớp bụi thời gian, để dấn thân vào
cõi sống đích thực dưới quầng sáng kỳ diệu của nhà hát!


May mắn thay, Nhà hát Tuổi trẻ cùng với đạo diễn Phạm Thị Thành đã mạnh dạn
đảm nhận vai trò của “bà đỡ“ khiến Vũ Như Tơ có cơ may cất tiếng chào đời trên sân khấu
Hội diễn toàn quốc đợt 4 tổ chức tại Hà nội cuối năm 1995.


Vẫn trung thành với nguyên bản của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng khơng tự bó hẹp
làm nhiệm vụ minh họa – dịch chuyển từ câu – chữ của văn học sang hành động của các vai
diễn hay hình ảnh của các lớp diễn và khơng khí bao trùm lên sự kiện, mà hơn thế vở diễn
Vũ Như Tơ cịn muốn đóng góp một tiếng nói vào việc lí giải hình tượng Vũ Như Tơ bằng
ngơn ngữ tổng hợp của sân khấu.


Dưới ánh đèn sân khấu - Vũ Như Tô - do nghệ sĩ Anh Tú thể hiện một cách nhất
quán từ cảnh đầu cho đến màn kết thúc (Theo ý đồ được xác định của đạo diễn), đã trở
thành hình tượng cao đẹp của một người nghệ sĩ đầy tài năng, mang một hoài bão phi
thường xây dựng cho đất nước một cơng trình kiến trúc đồ sộ tráng lệ có thể sống mãi với
thời gian. Sự kiện Vũ Như Tô nhận lệnh vua Lê Tương Dực, bắt tay vào xây dựng Cửu
Trùng Đài được xử lý không phải như một sự khuất phục của người nghệ sĩ trước cường
quyền mà để thực thi ý đồ của chính nghệ sỹ; hơn nữa ý đồ này không chỉ đơn thuần thỏa
mãn khát vọng sáng tạo của riêng anh ta mà còn nhằm một mục đích lớn lao hơn vì sự
nghiệp tạo dựng cái đẹp cho đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Cũng từ ý tưởng nghệ thuật này, vở diễn đặc tả cảnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá ở
cuối vở kịch thật hoành tráng đến kinh rợn, nhưng lại làm lẫn đi cái kết thúc bi thảm của


chính nhân vật Vũ Như Tơ. Người xem khơng thấy hiện ra trước mắt cảnh hành hình người
nghệ sỹ mà chỉ thấy anh ta bị trói dẫn đi, trong tư thế hiện ngang như một anh hùng sẵn
sàng tử vì đạo, trong tiếng thét đau khổ tuyệt vọng của Đan Thiềm. Đây có thể chỉ là một
cách hiểu về Vũ Như Tô của đạo diễn và Nhà hát Tuổi trẻ.


Hình tượng nhân vật thứ hai, được vở diễn chú ý diễn tả là nhân vật Đan Thiềm (do
diễn viên Lê Khanh thể hiện). Nếu Vũ Như Tô là hiện thân của tài năng thì Đan Thiềm là
hiện thân của cái tình, của sự đồng cảm, giao cảm hay đúng hơn là sự tri ngộ, sự liên tài một
hình ảnh lý tưởng của tác giả. Đan Thiềm hiện ra trong vỏ bọc của một cung nữ thất sủng,
vì nàng là hiện thân của cái hồn thiện, hồn mỹ mà khơng được nhìn nhận, bị bỏ rơi. Sự
tương phùng giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm như là sự hội ngộ của tài và tình hay của tài và
sắc. Nhấn vào khía cạnh này, vở diễn đã tạo được những khoảng khắc trữ tình dạt dào trên
sàn diễn.


Lớp diễn Vũ Như Tơ sóng đơi cùng Đan Thiềm đi giữa ngổn ngang của cơng trình
nguy nga đang cịn dang dở hiện ra bằng hình ảnh của điện ảnh, chồng lên khơng gian sân
khấu cịn như một sự gián cách gợi liên tưởng về sự xuất hiện của Đan Thiềm hiện ra từ một
thế giới huyền ảo xa vời, phi thực, như là hiện thân giấc mơ của chính Vũ Như Tơ cơ đơn
khao khát được giao cảm.


Với những ưu điểm đó Vũ Như Tô của Nhà hát Tuổi trẻ nổi lên như một hiện tượng
của mùa hội diễn 1995. Thành công của vở diễn Vũ Như Tô làm ta vừa mừng, vừa chợt lo
ngại vì sự khan hiếm kịch bản hay của sân khấu hôm nay.


</div>

<!--links-->

×