Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LĨNH VỰC Y TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.11 KB, 19 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI LĨNH VỰC Y TẾ
1.1.Vai trò, đặc điểm của y tế
1.1.1. Vai trò của y tế
Khái niệm về y tế: y tế là các hoạt động phòng, chữa bệnh và chăm sóc sức
khoẻ con người như: các hoạt động khám và điều trị các bệnh; các hoạt động
phòng bệnh, điều dưỡng, chăm sóc sức khoẻ và thẩm mỹcủa con người. Mục tiêu
của ngành y tế được xác định là tập trung vào bảo vệ sức khoẻ người dân thông
qua các hoạt động phòng chống và kiểm soát hữu hiệu các bệnh không truyền
nhiễm cũng như các bệnh truyền nhiễm đồng thời đảm bảo sự công bằng trong việc
tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng cao ( đặc biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn
thương như trẻ em, người nghèo)
Đối tượng chăm sóc của y tế la con người - trung tâm của quá trình phát
triển ở mỗi quốc gia. Vì vậy y tế có tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước.
1.1.1.1 Vai trò của y tế với sự phát triển kinh tế
Thứ nhất, con người sử dụng công cụ lao động tác động tới đối tượng lao
động nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu của mình. Để đạt được
năng suất lao động cao, bản thân người lao động phải luôn học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm nâng cao tri thức, kỹ năng kỹ ảo ở mọi lĩnh vực. Muôn thực hiện được điều
đó, trước tiên con người phải có sức khoẻ cả về mặt thể cấht lẫn tinh thần. Hệ
thống y tế với hai dịch vụ chủ yếu là phòng và chữa bệnh cho con người giữ vai trò
quyết định tới chất lượng sức khoẻ của mọi thành viên và xã hội. Một hệ thống y tế
tốt sẽ đảm bảo cho người dân có sức khoẻ tốt, trí tuệ minh mẫnvà qua dó góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế. Bởi chính con người tạo ra của cải vật chất làm phát
triển nền kinh tế của đất nước. Một khi con người có sức khoẻ, có trí tuệ thì sẽ tạo
ra nhiều của cải cho xã hội hơn, làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển hơn. Do
đó y tế với mục tiêu chính là chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của mọi người dân giữ
vai trò quan trọn gián tiếp đến sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Thứ hai, y tế có vai trò rất quan trọng trong việc phòng và chống bệnh dịch,
làm giảm sự thiệt hại cho nền kinh tế. Phòng bệnh là một trong hai hoạt động chính


của sự nhgiệp y tê, Nhờ thực hiện tốt công tác phòng bệnh mà nhiều quốc gia đã
tiêt kiệm được một chi phí lơn do ngăn chặn được nhiều dịch bệnh bùng nổ. Như ta
đã biết gần đây trên thế giới và cả ở Việt nam liên tục xảy ra những bệnh dịch nguy
hiểm, gây thiệt hai lớn cho nền kinh tế như dịch bệnh Sars, bệnh cúm. Những căn
bệnh này khi đã mắc phải thường đòi hỏi chi phí chữa trị rất tốn kém , thậm chí
gây ra tử vong dẫn đến thiệt hịa lớn về người và của. Nhưng sau đó ngành y tế của
các quốc gia đã tiến hành nghiên cứu, tích cực thực hiên “phòng bệnh hơn chữa
bệnh” đã làm giảm đán kể những thiệt hai về kinh tế và con người, để tập trung
nguồn lực dành cho phát triển kinh tế. Tõ ràng nhờ sử dụng tối đa nguồn nhân lực
con người và nguồn lực tài chính đeer thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển,
gần đây, ở Việt nam tuy phải đương đầu với hai dại dịch lớn là Sars và cúm gà
nhưng ngành y tế cũng như toàn dân đã hết ức nỗ lực trong công tác phòng dịch
nên thiệt hại về kinh tế và con người mà ta phải gqnáh chịu đã được hạn chế tối đa.
1.1.1.2. Vai trò của y tế với xã hội
Phần trên ta đã phân tích vai trò đặc biệt của y tế đối với lĩnh vực kinh tế,
sau đây chúng ta sẽ phân tích vai trò đặc biệt của y tế đối với lĩnh vực kinh tế, Sau
đây chúng ta sẽ phân tích đối với lĩnh vực xã hội.
Trong thời đại ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế đời sống con người
ngày càng được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhưng trong khi phát triển
kinh tế con người đã tác động tới môi trường tự nhiên làm thay đổi môi trường
sống của chính chúng ta, kết quả là ngày càng nhiều bệnh dịch mới và nguy hiểm
xuất hiện không chỉ ở phạm vi khu vực qýôc gia mà còn trên toàn thế giới. Y tê có
vai trò toàn cầu trong phồng chống các bệnh dịch này, nên các cơ quan y tế của các
quốc gia cần phải có sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong việc chữa bệnh, phòng
bệnh. Tổ chức y tế thế giới (WTO) giữ vị trí quan trọng trong công tác nay. Như
vậy, ở một qóc độ nào đó thì y tế cũng góp phần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa
các quốc gia trên thế giới.
Với việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em tốt, y tế tạo ra nguồn lực
cơ bản cho phát triển xã hội trong tương lai. Trẻ em hôm nay à thế giớ ngày mai.
Với những chính sách y tế cung cấp nên tuổi thọ con người ngày càng được nâng

cao, con người có điều kiẹn để phát triển ngày càng hoàn thiện hơn.
Ngày nay khi xem tới sự phát triển nói chung của một quốc gia, người ta
không chỉ xem xét tới sự phát triển kinh tế như tổng sản phẩm quốc nội … mà còn
quan tâm nhiều tới các chi tiêu phát triển con người như chỉ tiêu HDI, chỉ số Gini.
Điều này là hoàn toàn đúng đắn bởi vì một quốc gia chỉ phát triển kinh tế mà
không chú ý đến con người xã hội thì sự phát triển của quốc gia đó không thể coi là
sự phát triển bền vững. Đến một lúc nào đó, quốc gia đó sẽ phải đối mặt với những
khủng hoảng xã hội nghiêm trọng. Hiện nay tuổi thọ trung binhg của người dân các
quốc gia ngày càng được cảit thiện. đạt dược kết quả đó công đầu tiên phải kể đến
là ngành y tế thông qua hoạt động phòng bệnh và chữa bệnh.
Cùng với một số lĩnh vực lkhác như: giáo dục và văn hoá y tế luôn là sự
quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội nói chung sẽ được đảm
bảo. Nhờ đó người dẫn sẽ có được cuộc sống lành mạnh, có cảm giác an toàn và
tin tưởng vào chế độ xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của y tế:
1.1.2.1. Tính chất vừa là hàng hoá công cộng vừa là hàng hoá tư nhân
Khác với các ngành sản xuất vvật chất và cung cấp dịch vụ khác, sản phẩm
dịch vụ y tế vừa mang tính chất hàng hoá công cộng vừa mang tính chất hoàng hoá
tư nhân. Sản phẩm dịch vụ y tế mang tính chất hàng hoá công cộng vì nó có đầy đủ
tính chất của hang hoá công cộng là không thể loại trừ. Đặc điểm không muốn laọi
trừ thể hiện ở chỗ khi một dịch vụ y tế cong công được hưởng thụ kết quả đó. Việc
tăng thêm chi phí hoặc tăng lên rấ ít nhưng không làm giảm đi quyền được thụ
hưởng đầy đủ lợi ích từ chương trình của những người khác trong công cộng.
Đặc điểm không thể loại trừ thể hiện ở chỗ không thể loại trừ bất kỳ ai trong
cộng đồng không được thụ hưoiửng các kết quả của chườn trình, hay nói cách khác
việc thụ hưởng các dịch vụ y tế công cộng không bị phân chia theo khẩu phần.
Đứng trên giác độ kinh tế học thì chi phí cận biên của việc cung cấp dịch vụ y tế
công cộng là bằng không khi có thêm người sử dụng dịch vụ.
Với tính chất hàng hoá công cộng của sản phẩm dịch vụ y tế, nếu như để thị
trường tư nhân cung cấp thì có thể có mốt số dịch vụ y tế sẽ không được thị trường

cung cấp hoặc thị trường có cung cấp nhưng không đầy đủ, không đáp ứng được
nhu cầu của xã hội. Vì về nguyên tắc thị trường tư nhân chỉ cung cấp những hàng
hoá, dịch vụ có lãi. Vì vậy thị trường sẽ chỉ cung cấp những sản phẩm dịch vụ y tế
có thể bán được trên thị trường và chỉ cung cấp cho những đối tượng có khả năng
thanh toán chi phí. Như vậy đối vứi những sản phẩm dịch vụ y tế là hàng hoá công
cộng thuần tuý, tuy có giá trị và có ảnh hưởng lớn đối với xã hội nhưng không có
khả năng thu hồi vốn cho nhà đầu tư thì sẽ không được thị trường cung cấp. Còn
đối với những sản phẩm dịch vụ y tế mà bán được trên thị trường thì sẽ loại trừ khả
năng thụ hưởng của những người có thu nhập thấp, gnười nghèo không có khả
năng thanh toán thì việc cung cấp của thị trường sẽ dẫn tới việc thiếu những dịch
vụ y tế cơ bản, không đáp ứng được nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ toàn dân, hiệu
quả xã hội bị giảm sút. Do vậy tính chất hàng hoá công cộng của sản phẩm dịch vụ
y tế đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nước với vai trò là nhà cung cấp những
dịch vụ y tế cơ bản, những sản phẩm dịch vụ chênh lệch trong sử dụng các dịch
cũng như tình trạng sức khoẻ người dân giữa các khu vực địa lý, trình độ giáo dục,
thu nhập, dân tộc, giới tính.
Bên cạnh đó, sản phẩm dịch vụ y tế còn mang tính chất hàng hoá tư nhân.
trái ngược với tính chất của hàng hoá công cộng là không thể loại trừ và không
muốn loại trừ, tính chất hàng hoá tư nhân thể hiện ở chỗ sản phẩm dịch vụ y tế sẽ
bị mất đi khi có một cá nhân sử dụng và khi một cá nhân sử dụng dịch vụ y tế
đó .Tính chất này thể hiện rõ trong các trường hợp cung cấp dịch vụ khám chặn,
chữa bệnh cho cá nhân. Tính chất này của sản phẩm dịch vụ y tế đòi hỏi người sử
dụng phải trả chi phí cho việc đã sử dụng dịch vụ y tế nhằm bù đắp chi phí, tái sản
xuất, tái cung cấp sản phẩm dịch vụ y tế. Nhưng do sản phẩm dịch vụ y tế là một
loại hàng hoá đặc biệt, đối tượng phục vụ là sức khoẻ con người nên nhà nước phảI
tham gia vào việc định hướng thị trường và kiểm soát giá cả sản phẩm dịch vụ y tế
nhằm đảm bảo được sự công bằng về y tế giữa mọi người dân.
1.1.2.2. Tính nhân đạo
Ngành y tế sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật để can thiệp vào việc
bảo vệ, cứu chữa con người. ở các nước có nền kinh tế phát triển thì sự can thiệp

bằng các phương tiện kỹ thuât vào con người ngày càng nhiều hơn. nếu ngành y tế
không mang tính nhân đạo, không có tinh thần trách nhiệm coa thì dễ gây tử vong
cho con người. hồ Chủ Tịch dã nhắc nhở cán bộ ngành y tế nước ta là “lương y như
từ mẫu” đối với người bệnh. Đây không chỉ là trách nhiệm của ngành y tế đối với
người bệnh mà còn là truyền thống, nhân cách của nười thầy thuốc Việt nam .
1.1.2.3.Tính công bằng và hiệu quả
Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ không có nghĩa là ngang bằng công
bằng có nghĩa là ai cũng có nhu cầu nhiều hớn, còn ngang bằng có nghĩa là mọi
người có nhu cầu ít hay nhiều hơn, có nhu cầu chăm sóc sứckhoẻ nhiều hơn nhưng
lại ít khả năng chi trả. Như vậy, nói đến công bằng trong y tế tức là phải có sự ưu
tiên cho vùng ngheo, người nghèo, ngươig có công với cách mạng, cho các đối
tượng thiệt thòi. Quan điểm công bằng trong chăm sóc sức khoẻ nói lên quyền của
người nghèo, người có công với nước phải đợơc chăm sóc, không phải là lòng
thương hại, không phải là sự ban ơn. Công bằn thường đi đôi với đạo đức trong y
tế, đòi hỏi trách nhiệm cao của cán bộ y tế đối với người bệnh, ứng xử với người
nghèo cũng như với người giàu.
Thực hiện công bằng trong chăn sóc sức khoẻ, người dân được tạo điều iện
để tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế cơ bản ngay tại cơ sở và coi đó là quyền của
người dân về chắn sóc sức khoẻ. Ngành y tế và các cơ quan chức năng đa nghiên
cứu và xây dựng các chỉ tiêu trong chắm sóc sức khoẻ cần đạt được trên các mặt
khám chữa bênh, vệ sinh phòng bệnh, chă sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em… và phấn
đấu thực hiện nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong việc cung cấp các sản
phẩm dịch vụ y tế.
1.2. NSNN với việc đảm bảo y tế
1.2.1 Khái niệm và bản chất của NSNN
Trong hệ thống tài chính thống nhât, NSNN là khâu tài chính tập trung giữ
vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được ình thành sớm nhất, nó ra đòi,
tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát
triển của kinh tế hàng hoad, tiền tệ. Cho đến nay, thuật ngữ “Ngân sách nhà nươc”
được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Xong, quan

niệm về NSNN thì lại chưa được thống nhất. Trên thực tế, người ta đã đưa nhiều
nghĩa thuộc các trường phái kinh tế khác nhau hoặc tuỳ theo mục đích nghiên cứu
khác nhau.
Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là một
văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính hủ được thiết lập hàng
năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
NSNN. Các nhà kionh tế Nga cho ràng: NSNN là bảng iệt kê các khoản thu, chi
bằng tiền trong mọi giai đoạn nhất định của nhà nước.
Luật NSNN đã được quốc hội nước CHXHCN Việt nam khoa X, kỳ họp thứ
10 thông qua ngày 16- 12 - 2002 cũng có ghi: NSNN là toàn bộ các khoản thu chi
của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
và được thực hiện trong môt năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước ( điều 1)
Trong một chừng mực nào đó các định nghĩa trên đây có những sự khác biệt
nhất định. Tuy nhiên cungs đều thể hiện bản chất của NSNN là:
- Xét về phương diện pháp lý: NSN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi
băng tiền của nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. đạo luật
này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành.
- Xét về bản chất kinh tế: mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân
phối các nguồn tài nguyên quốc gia ( phân phối lần đầu và tái phân phối ). Và vì
vậy, về nội dung kinh tế, NSNN thể hiện các mối quan hệ kinh tế giữa một bên là
nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp dân cư.
- Về tính chất xã hội: NSNN luôn luôn là một công cụ kinh tế của nhà nước,
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chắc năng, nhiệm vụ ủa nhà nước. Nhờ có
NSNN nên nhà nước có nguồn tài chính để thực hiện những công việc của mình
trong mọi lĩnh vực nhằm đưa đất nước phát triển đúng định hướng đã lựa chọn.
1.2.2. NSNN với sự phát triển y tế
Chi NSNN cho sự nghiệp y tế có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển
kinh tế – xã hội. Vai trò này được bắt nguồn từ vai trò của hoạt động y tế đối với

con người – yếu tố quyết định tới quá trình phát triển đất nước. Chất lượng, hiệu
quả của hoạt động y tế ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người. Vai trò của
NSNN đối với sự nghiệ y tế thể hiện:
- Chi NSNN cho sự nghiệp y tế là một trong những công cụ quản lý vĩ mô nền
kinh tế của nhà nước đối với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Thông qua việc

×