Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

luận văn thạc sĩ phật giáo kiên giang đối với công tác từ thiện xã hội giai đoạn hiện nay​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN THANH LÂM

PHẬT GIÁO KIÊN GIANG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC

TỪ THIỆN XÃ HỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội - 2020

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------------------------

NGUYỄN THANH LÂM

PHẬT GIÁO KIÊN GIANG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC

TỪ THIỆN XÃ HỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số : 60 22 03 09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG:

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN HỒNG DƢƠNG

PGS. TS. TRẦN THỊ KIM OANH

Hà Nội - 2020

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
cá nhân tơi.
Luận văn này được thực hiện sau quá trình học tập ở Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và qua quá trình
nghiên cứu, khảo sát tình hình thực tiễn trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, đặc biệt
là tìm hiểu tại cơng tác từ thiện xã hội tại 76 chùa Phật giáo trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang. Luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS Trần Thị Kim Oanh.
Các số liệu, tài liệu nghiên cứu, các đánh giá, nhận định, hình ảnh trong
luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và gắn liền với thực tiễn của Phật
giáo Kiên Giang với công tác từ thiện xã hội giai đoạn hiện nay, luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
Kiên Giang, ngày …. tháng …. năm 2020
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thanh Lâm


3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn khoa học với đề tài “Phật giáo Kiên
Giang đối với công tác từ thiện xã hội giai đoạn hiện nay”, tôi đã được sự
giúp đỡ, hỗ trợ của nhiều người, nhiều tổ chức, đơn vị. Quan trọng hơn là tình
cảm, sự động viên của người thân, gia đình, các sư huynh đệ, Phật tử và q
thầy cơ.
Do đó, tơi xin gửi lời cảm ơn đến: Chư tôn đức lãnh đạo Hội Đoàn Kết
Sư Sãi Yêu Nước tỉnh Kiên Giang, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Kiên
Giang, Chư tôn Thượng tọa, Đại đức tăng, ni và tín đồ Phật tử ở các chùa Phật
giáo tỉnh Kiên Giang. Tất cả đã tận tình giúp đỡ tơi trong lúc đi sưu tầm, tìm
tư liệu, khảo sát thực tế. Cơng trình này khơng chỉ có ích và là tâm huyết của
tơi, mà cịn là lời tri ân sâu sắc của tôi đối với tất cả mọi người đã giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian viết luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn đến Bộ môn Tôn giáo học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tiếp thu kiến thức tại trường.
Đặc biệt, tơi xin dành sự kính trọng và cảm ơn chân thành đến PGS.TS.
Trần Thị Kim Oanh, người đã tận tình hướng dẫn tơi trong thời gian nghiên
cứu và thực hiện luận văn khoa học này, cô không chỉ là người trực tiếp hướng
dẫn cho tơi mà cịn định hướng những vấn đề cần nghiên cứu, giúp tôi vượt
qua những khó khăn trong q trình thực hiện luận văn của mình.
Kiên Giang, ngày …. tháng …. năm 2020
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Lâm


4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT LÀ

ĐỌC LÀ

CTTTXH

Công tác Từ thiện xã hội

GHPGVN

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

HĐTTXH

Hoạt động từ thiện xã hội

HĐTS TƯGH

Hội đồng trị sự trung ương giáo hội

HĐCM GHPGVN

Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật Giáo Việt Nam

UV HĐTS TƯGH


Ủy viên Hội Đồng trị sự Trung ương giáo hội

5


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TỪ THIỆN XÃ HỘI CỦA
PHẬT GIÁO VÀ PHẬT GIÁO KIÊN GIANG...................................................9
1.1. Lý luận chung về công tác từ thiện xã hội của Phật giáo....................9
1.1.1. Một số khái niệm................................................................................... 9
1.1.2. Quan điểm của Phật giáo về công tác từ thiện xã hội......................11
1.1.3. Ý nghĩa và giá trị công tác từ thiện xã hội của Phật giáo ................15
1.2. Khái quát chung về Phật giáo Kiên Giang.......................................... 22
1.2.1. Khái lược quá trình du nhập, phát triển Phật giáo Kiên Giang.......22
1.2.2. Phật giáo Kiên Giang giai đoạn hiện nay.......................................... 24
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................... 31
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỪ THIỆN XÃ HỘI CỦA PHẬT
GIÁO KIÊN GIANG HIỆN NAY....................................................................... 32
2.1. Thực trạng tổ chức quản lý trong công tác từ thiện xã hội của Phật
giáo Kiên Giang............................................................................................... 32
2.1.1. Mơ hình quản lý trong công tác từ thiện xã hội của Phật giáo Kiên
Giang............................................................................................................... 32
2.1.2. Phương thức tổ chức triển khai hoạt động trong công tác từ thiện xã
hội của Phật giáo Kiên Giang....................................................................... 32
2.2. Thực trạng các hoạt động thực tiễn trong công tác từ thiện xã hội
của Phật giáo Kiên Giang.............................................................................. 34
2.2.1. Thực trạng hoạt động về an sinh xã hội của Phật giáo Kiên Giang 34


2.2.2. Thực trạng hoạt động phúc lợi xã hội của Phật giáo Kiên Giang .. 43
Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................... 52

6


Chương 3. PHẬT GIÁO KIÊN GIANG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỪ THIỆN
XÃ HỘI HIỆN NAY: NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG THỜI GIAN TỚI........................ 53
3.1. Những thành tựu và hạn chế của công tác từ thiện xã hội Phật giáo
Kiên Giang........................................................................................................ 53
3.1.1. Những thành tựu đạt được trong công tác từ thiện xã hội của Phật
giáo Kiên Giang............................................................................................. 53
3.1.2. Những hạn chế trong công tác từ thiện xã hội của Phật giáo Kiên
Giang............................................................................................................... 57
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác từ thiện xã hội
Phật giáo Kiên Giang...................................................................................... 60
3.2.1. Giải pháp về nâng cao hiệu quả quản lý............................................ 60
3.2.2. Giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn....................... 63
Tiểu kết chƣơng 3........................................................................................... 67
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 71
PHỤ LỤC

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, thuộc vùng kinh
tế trọng điểm đồng bằng sơng Cửu Long có vị trí chiến lược quan trọng. Dân
số gần 1,8 triệu người, diện tích tự nhiên hơn 6.348 Km 2, có đường biên giới
trên bộ giáp Campuchia dài 56,8 Km, có vùng biển rộng trên 63.000 Km 2,
chiếm 21% diện tích Vịnh Thái Lan; trên 140 hịn đảo lớn nhỏ (trong đó có 43
đảo có dân sinh sống). Bức tranh đời sống tơn giáo, tín ngưỡng của tỉnh Kiên
Giang rất đa dạng và phong phú. Hiện tồn tỉnh có 11 tơn giáo được Nhà nước
cơng nhận về mặt tổ chức; có 1.587 chức sắc, nhà tu hành, 3.580 chức việc,
gần 600 ngàn tín đồ chiếm hơn 33% dân số, với 22 tổ chức, hệ phái gồm: Phật
giáo, Công giáo, Tin lành (6 hệ phái), Cao Đài (6 chi phái và 1 pháp mơn),
Phật giáo Hịa Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
Nam Tông Minh Sư đạo, Baha’I, Hồi giáo, Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn, có
399 cơ sở thờ tự; tín đồ sống ở khắp địa bàn 145 xã, phường, thị trấn của 15
huyện, thị xã, thành phố.
Hoạt động tơn giáo diễn ra bình thường, đúng quy định pháp luật. Các
tổ chức tôn giáo tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết
tôn giáo, hoạt động đúng Hiến chương, đường lối hành đạo. Chức sắc, chức
việc, nhà tu hành, tín đồ các tơn giáo đồng hành cùng cấp ủy, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp, tuyên truyền, vận động quần chúng, tín đồ
tích cực thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, hăng hái lao động, sản xuất, tham gia tích cực các phong trào
thi đua yêu nước và các hoạt động từ thiện, nhân đạo – xã hội, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, theo phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”; góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ ở từng địa phương.

1


Trong bức tranh đa sắc màu các tôn giáo của tỉnh Kiên Giang, Phật giáo
nổi lên như một gam màu đậm nét. Phật giáo tỉnh Kiên Giang bao gồm đầy đủ

các hệ phái và mỗi hệ phái đều có nhiều đóng góp tích cực vào cơng tác Phật
sự tỉnh nhà. Trong thời gian qua, Phật giáo Kiên Giang đã đạt được nhiều
thành tựu đáng ghi nhận, tự hào, trong đó nổi bật là công tác từ thiện xã hội.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và
Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Kiên Giang, trong những năm qua Ban Từ thiện xã
hội Phật giáo Kiên Giang đã đạt được những kết quả đáng kể trong các mặt từ
thiện xã hội nhân đạo như xây nhà Đại đoàn kết, Nhà An cư Lạc nghiệp, xây
dựng cầu đường, lộ giao thông nông thôn, nuôi dạy trẻ em mồ côi (từ cấp
mầm non đến trung học) khám và cấp thuốc, mổ mắt, tặng học bổng … kinh
phí vận động cho các mặt từ thiện nhân đạo nêu trên hơn một thập niên qua
được xác định hơn 500 tỷ đồng. Việc làm này được Trung ương Giáo hội, các
ngành các cấp tuyên dương và đánh giá cao, đề nghị cần được phát huy mạnh
mẽ hơn để phát triển công tác từ thiện trong tỉnh Kiên Giang ngày càng vững
mạnh.
Bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động xã hội nhân đạo của Phật giáo
ở Kiên Giang cũng cịn số ít mang tính tự phát, tổ chức cứu trợ hoặc hoạt động
từ thiện mà khơng có sự kết hợp và khơng thông qua sự chỉ đạo, giúp đỡ của
Ban Từ thiện xã hội Phật giáo tỉnh dẫn đến Công tác từ thiện xã hội gặp nhiều
khó khăn, bất cập, hiệu quả chưa cao, cần phải có giải pháp cụ thể để phát huy
các yếu tố tích cực, hạn chế những khó khăn. Đây là một trong những vấn đề
vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược trong cơng tác tôn giáo hiện nay...
Như vậy, nghiên cứu thực trạng CTTTXH của Phật giáo Kiên Giang để
đề xuất một hệ giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy những hiệu quả và giảm

2


thiểu những hạn chế, tiêu cực trong hoạt động này sẽ đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
cả về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Hơn nữa, học viên với vai trò là một tu sĩ Phật giáo, rất tâm huyết với

cơng tác từ thiện xã hội. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Phật giáo Kiên Giang
đối với công tác từ thiện xã hội giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sĩ. Hy vọng, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nhỏ vào cơng tác
nghiên cứu lý luận về Phật giáo nói riêng, tơn giáo nói chung và thực tiễn hoạt
động từ thiện xã hội của Phật giáo Kiên Giang.
2. Tình hình nghiên cứu
CTTTXH của tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là đề tài đang
nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu vì những kết quả thực tiễn
mà CTTTXH mang lại cho cộng đồng. Chính vì vậy, thời gian gần đây, có
nhiều các cơng trình nghiên cứu về CTTTXH của Phật giáo được cơng bố với
nhiều hình thức khác nhau: cuốn sách, bài báo, tạp chí, bài tham luận Hội
thảo, báo cáo về HĐTTXH nhân đạo của Phật giáo và các tấm gương tiêu biểu
trong hoạt động này.
Nguyễn Minh Ngọc (2014), “Vài nét về hoạt động từ thiện xã hội của
các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”, bài viết đề cập đến các tổ chức từ thiện tôn
giáo, hệ thống khám chữa bệnh (bệnh viện, trung tâm y tế, phòng khám), hệ
thống các nhà dưỡng; cơ sở dạy nghề (các lớp mẫu giáo, lớp học tình thương:
Trung tâm tư vấn, nuôi dưỡng người nhiễm HIV/AIDS và các hoạt động cứu
trợ khác).
Cuốn sách Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề hiện đại, của tác
giả Dr. Đỗ Kim Thêm, Nhà xuất bản Hồng Đức là cơng trình sưu tầm và phiên
dịch công phu các bài nghiên cứu đặc sắc về quan điểm của Phật giáo về các
vấn đề đáng quan tâm ở xã hội hiện đại. Trong cơng trình này, người đọc sẽ
tìm thấy quan điểm của Phật giáo với các vấn đề như: chiến tranh và

3


hịa bình, đạo đức kinh tế, nhân quyền và tự do tôn giáo, phát triển khoa học,
vấn đề dân số, tiêu thụ và mơi trường,… Trong các bài viết đó, vấn đề từ thiện

xã hội của Phật giáo cũng được đề cập gián tiếp khi trình bày các vấn đề trên,
ví như khi trình bày Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, các tác giả
đề cập đến rằng: Phật giáo kêu gọi lịng hào phóng, bng bỏ và từ bi, thái độ
đạo đức của Phật tử đối với tài sản sẽ có những ảnh hưởng tốt đẹp đến việc
phát triển kinh tế xã hội.
Liên quan trực tiếp đến đề tài, cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học “Phát
huy vai trị Phật giáo tham gia xã hội hóa cơng tác xã hội, từ thiện” của TS.
Lê Bá Trình, PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh, TS. Trần Văn Anh (đồng chủ biên)
(2017), Nxb Tôn giáo. Trong các bài viết đăng trong kỷ yếu có rất nhiều bài
viết đề cập trực tiếp đến nhiều góc cạnh của vấn đề chung Phật giáo Việt Nam
với công tác xã hội, từ thiện. Từ công tác quản lý nhà nước đến các hoạt động
cụ thể của công tác xã hội, từ thiện mà Phật giáo thực hiện như: giáo dục mầm
non, giáo dục tự viện, an sinh xã hội, khám chữa bệnh,… Dưới nhiều góc
nhìn, khía cạnh khác nhau, có rất nhiều giải pháp được đưa ra nhằm phát huy
vai trò của Phật giáo trong công tác từ thiện, xã hội. Trong phần 2 của Kỷ yếu
Hội thảo: Công tác xã hội, từ thiện của giáo hội Phật giáo Việt Nam tại một số
địa phương và cơ sở, có rất nhiều bài viết của Ban Từ thiện xã hội Giáo hội
Phật giáo Việt Nam các tỉnh đưa ra một bức tranh phong phú về công tác từ
thiện, xã hội của Phật giáo Việt Nam khắp mọi miền đất nước. Trong đó có bài
viết về công tác từ thiện, xã hội của Phật giáo Kiên Giang: “Hoạt động từ
thiện – xã hội của Liên Tông Tịnh độ Non Bồng”, “Trung tâm từ thiện xã hội
Phật Quang, một mơ hình nhập thế của Phật giáo Kiên Giang”,…
Đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội (số 10 (107), 2016), tác giả Dương
Quang Điện có bài viết “Hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo Việt Nam”,

4


bài viết đã nêu lên những thành tựu nổi bật cuả hoạt động từ thiện xã hội của
Phật giáo Việt Nam trong thời gian qua, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động từ thiện của Phật giáo Việt Nam.
Nguyễn Hữu Tuấn có bài viết “Tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ
trương xã hội hóa y tế, từ thiện nhân đạo”, Tạp chí Cộng sản điện tử,
10/01/2015, trong đó, nêu lên sự tham gia của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
vào hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo đã góp phần làm đa dạng việc
huy động các nguồn lực xã hội cho cơng tác xã hội nói chung, chăm sóc y tế
nói riêng; chia sẻ gánh nặng với chính quyền địa phương, với Nhà nước và xã
hội.
Từ Thành Đạt (2016) có bài viết “Hoạt động giáo dục tại Trung tâm từ
thiện xã hội Phật Quang” đăng trong cuốn Đào tạo Tơn giáo học ở Việt Nam:
q trình hình thành và phát triển, bài viết đề cập đến khá chi tiết các hoạt
động giáo dục của một cơ sở từ thiện xã hội điển hình của tỉnh Kiên Giang…
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2017) phát hành cuốn tài liệu: “Phật giáo
Kiên Giang với hoạt động công tác xã hội từ thiện nhân đạo và giáo dục thanh
thiếu niên” chào mừng Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh Kiên Giang lần thứ IX
(nhiệm kỳ 2017 -2022), cuốn tài liệu gồm nhiều những bài viết tổng hợp có đề
cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của cơng tác từ thiện xã hội tỉnh Kiên
Giang như: Phật giáo Kiên Giang với tinh thần tiếp sức mùa thi; Phật giáo
Kiên Giang với công tác từ thiện; Phật giáo Nam tông Khmer Kiên Giang với
hoạt động từ thiện, an sinh xã hội; Phật giáo Kiên Giang với hoạt động giáo
dục thanh thiếu niên;...
Ngồi ra cịn nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu khác đề cập đến vấn
đề công tác từ thiện xã hội của Phật giáo theo từng mức độ và các góc độ khác
nhau.

5


Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu cho thấy các cơng trình trên
dưới các khía cạnh khác nhau đã đề cập đến một phần của vấn đề nghiên cứu,

tuy nhiên có những cơng trình đề cập đến góc độ rộng công tác xã hội từ thiện
của Phật giáo Việt Nam nói chung, có cơng trình lại đề cập đến các khía cạnh
cụ thể của cơng tác từ thiện xã hội của Phật giáo Kiên Giang, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu đầy đủ về công tác xã hội từ thiện của Phật giáo ở Kiên
Giang, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do vậy đề tài này không trùng lắp với
các cơng trình đã được cơng bố.
Hơn nữa, vấn đề CTTTXH của Phật giáo ở nước ta vẫn còn nhiều khó
khăn chưa giải quyết được thì việc nghiên cứu, làm rõ về lý luận và thực tiễn
CTTTXH của Phật giáo Việt Nam nói chung và của tỉnh Kiên Giang nói riêng
cần phải được tiến hành thường xuyên; nghiên cứu một cách cụ thể để đưa ra
những giải pháp hợp lý.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở khái quát những vấn đề chung về lý luận, luận văn làm rõ
thực trạng công tác từ thiện xã hội của Phật giáo tỉnh Kiên Giang và đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả CTTTXH của Phật giáo
tỉnh Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Khái quát lý luận về công tác từ thiện xã hội của Phật giáo nói chung
và khái quát chung về Phật giáo Kiên Giang.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng CTTTXH của Phật giáo Kiên Giang
+ Trên cơ sở sự phân tích ở trên đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả của công tác từ thiện xã hội của Phật giáo Kiên Giang.

6


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Phật giáo tỉnh Kiên Giang
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát công tác từ thiện xã hội của Phật giáo Kiên Giang
giai đoạn hiện nay, chủ yếu từ năm 2012 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về tôn giáo, Hiến chương của Trung ương Giáo Hội
Phật giáo Việt Nam và những chủ trương, định hướng của Phật giáo Kiên
Giang về Hoạt động từ thiện xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những nguyên lý, phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như: kết hợp logíc và lịch sử, phân tích và tổng
hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn… có tham khảo một số các lý thuyết và
những quan điểm, đường lối đổi mới trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam, văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang, tham khảo, kế thừa,
chọn lọc một số kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã được cơng
bố.
Các số liệu được sử dụng trong luận văn chủ yếu được thu thập qua
nguồn dữ liệu thông qua Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban MTTQ Việt
Nam tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang và các cơ quan khác có liên quan.

7


6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan
CTTTXH của Phật giáo với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên
Giang nói riêng và của đất nước nói chung .

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả đạt được, luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về Phật
giáo với CTTTXH ở Kiên Giang nói riêng và Phật giáo với CTTTXH nói
chung, từ đó giúp cho người đọc nhận thức đúng hơn về vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
cơ quan chức năng ở Kiên Giang trong công tác lãnh đạo, quản lý nhằm phát
huy hiệu quả của Phật giáo phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của Tỉnh; làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác Phật giáo ở địa phương; đồng thời làm cơ sở phát triển
việc nghiên cứu ở tầm mức cao hơn những nội dung liên quan đến đề tài.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.

8


Chƣơng 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TỪ THIỆN XÃ HỘI
CỦA PHẬT GIÁO VÀ PHẬT GIÁO KIÊN GIANG
1.1. Lý luận chung về công tác từ thiện xã hội của Phật giáo
1.1.1. Một số khái niệm
"Từ" (Mettà): “Một trong những đức hạnh cao quý trong Phật giáo,
thường được gọi chung với lòng – Bi là Từ Bi. Từ được xem là lịng thương
u chúng sinh nhưng khơng có tính chất luyến ái. Từ là một trong những đối
tượng thiền định của Thượng tọa bộ được dùng để phát huy lòng thương yêu
và đối trị sân hận” [1, tr. 714].
Từ cũng có nghĩa là lịng lành giúp ích cho người, lịng thương yêu,
thường đem vui cho tất cả chúng sinh. “Tâm từ" là cái gì làm cho lịng êm dịu,
là lịng mong ước cho tất cả chúng sinh đều được an lành vui vẻ. Tâm từ là

lòng mong mỏi chân thành của người bạn hiền muốn cho bằng hữu mình được
an vui hạnh phúc [Xem 34].
Thiện là điều tốt. “Từ thiện” là một hành động trợ giúp người yếu kém.
Hoạt động từ thiện có thể thơng qua hình thức qun góp, hiến tặng bằng tiền,
vật phẩm, thời gian hay là cứu trợ nhân đạo, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
sức khỏe hay là những hành động trợ giúp tinh thần như an ủi [Xem 35].
Từ thiện được chuyển theo nghĩa là sự giúp đỡ những người có hồn
cảnh khó khăn, thường được hiểu là một hệ thống biếu tặng tiền bạc, thức ăn,
giúp đỡ những người đang cần giúp đỡ vì họ đang bệnh hoạn, nghèo khổ,
không nơi nương tựa… Trong ý nghĩa này, từ thiện là sự thể hiện của Từ bi.
Từ bi khơng chỉ có nghĩa là thương u chúng sinh mà cịn có nghĩa là thể
hiện lịng thương u ấy bằng hành động, bằng việc làm cụ thể, tức là từ thiện.
Vậy từ thiện hay Thiện tâm xuất phát từ Từ bi, là tướng của cái thể Từ bi;
trong ý nghĩa sâu xa là Thiện tâm.

9


Công tác từ thiện xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp thực tế
vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động
bất thường về kinh tế, xã hội và mơi trường, vừa góp phần khơng ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Khái niệm Công tác từ thiện xã hội có mối quan hệ gắn kết với khái
niệm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Trong đó, an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết hữu cơ giữa quyền lợi và trách nhiệm
của mỗi người với mỗi đơn vị, cộng đồng và toàn xã hội.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “an sinh xã hội” được xuất hiện vào những năm
70 trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả Sài
Gòn. Sau năm 1975, thuật ngữ này được dùng nhiều hơn và đặc biệt là từ
những năm 1995 trở lại đây nó được dùng rộng rãi hơn. An sinh xã hội là sự

bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thơng qua một loạt các biện
pháp cơng cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và
trợ cấp cho các gia đình đơng con [Xem 36].
Như vậy, về mặt bản chất, an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập
và đời sống cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông
qua các biện pháp cơng cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành
viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc, và đây
cũng là tư tưởng muốn hướng tới của Adam Smith nêu trên - hướng tới sự
hưng thịnh và hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội.
Phúc lợi xã hội, là những biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm khắc
phục những “thất bại”, khiếm khuyết của thị trường. Bản chất của PLXH là
làm giảm thiểu sự bất công bằng trong xã hội, đảm bảo cho các thành viên
trong xã hội đều có thể thụ hưởng những cái “chung” của xã hội.

10


Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi nghiên cứu công tác
từ thiện xã hội Phật giáo với nội hàm là hệ thống công tác quản lý và các giải
pháp hoạt động thực tiễn cụ thể của Phật giáo nhằm góp phần bảo vệ mức
sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về
kinh tế, xã hội và mơi trường, vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Và Công tác từ thiện xã hội góp phần
khơng nhỏ vào an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Khái niệm An sinh xã hội và phúc lợi xã hội bao gồm nhiều khía cạnh
nhưng trong luận văn chúng tơi đề cập đến các khía cạnh sau: An sinh xã hội
về đời sống vật chất và an sinh xã hội về mặt tinh thần; Phúc lợi xã hội chúng
tôi chủ yếu đề cập đến hai vấn đề cơ bản là y tế và giáo dục.

1.1.2. Quan điểm của Phật giáo về công tác từ thiện xã hội
Thuyết Nhân quả, Nghiệp báo của Phật đã hình thành một nhân sinh
quan tin vào một chủ thể thánh thần có khả năng nhìn thấu nhân gian, Trời Phật có mắt, gieo nhân xấu ắt gặt quả xấu, gieo nhân tốt gặt quả tốt. Người
Việt Nam rất tin tưởng vào triết lý nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật. Phật
giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng của triết lý vô ngã. Vô ngã trong quan
niệm nhà Phật không chỉ bó hẹp trong cái ta của con người cá nhân, của tơi
hay của anh mà là khơng có cái ngã tuyệt đối ở tất cả các sự vật, hiện tượng
của vũ trụ nói chung.
Phật dạy tín đồ phải nhìn sự vật, hiện tượng bằng con mắt vơ ngã để có
thể quán chiếu được lẽ không của vạn vật, để từng bước diệt khổ, có nghĩa là
từng bước đạt được sự giải thốt. Chính vì vậy, theo quan niệm của nhà Phật,
“Vơ ngã” cũng có nghĩa là “Niết bàn”.
Coi trọng một nếp sống đạo đức, Đức Phật đã đưa ra một hệ thống các
phạm trù đạo đức như Lục độ, Lục hoà, Thập thiện, Tứ ân…

11


Riêng Lục độ hay còn gọi là 6 hạnh Ba la mật, bao gồm: Bố thí, trì giới,
tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Người tu hành đắc được 6 hạnh này thì
độ được mình và độ được người sang bờ bên kia của bến mê, có nghĩa là đạt
giải thốt. Lục độ là phép mơn tu Bồ tát thừa. Theo tinh thần này, bất kỳ là ai,
dù người mới nhập pháp môn tu hành hay đến các vị Bồ tát, Phật đều phải vừa
độ mình, độ người để giúp mình và giúp người cùng ra khỏi bến mê.
Như vậy, giải thốt theo tinh thần của Lục độ thì bản thân cá nhân mỗi
người phải làm thiện, sau đó giúp người làm thiện. Và cuối cùng, việc giúp
mình, giúp người trở thành lẽ tự nhiên trên con đường thực hiện giải thốt.
Như vậy Bố thí (Từ thiện) là một trong những phương pháp tu tập hữu
ích trong việc nhiếp hóa chúng sinh (tứ nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành,
đồng sự) và là phương tiện nhập thế hữu hiệu của Phật giáo. Xuyên suốt từ khi

Đức Phật còn tại thế, cho đến nay, pháp bố thí được Phật giáo đồ khắp nơi trên
thế giới sử dụng để chuyển hóa tâm, đem lại niềm vui cho mọi người.
Bố thí theo Phật giáo bao gồm: Tài thí, Pháp thí và Vơ úy thí, được gọi
là Bố thí Ba la mật.
Đối với Tài thí là việc đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho.
Tài thí có hai loại: Nội tài và Ngoại tài.
Đối Pháp thí là việc dùng lời của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo các
chúng sinh, sống đúng theo chánh pháp. Theo Phật giáo thì Pháp thí có giá trị
hơn cả tài thí, vì tài thí chỉ giúp người khác được túng thiếu về phương diện
vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng
pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về phương diện tinh thần, khơng riêng gì đối
với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; khơng phải chỉ có
ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về
sau.

12


Đối Vơ úy thí là việc làm cho người khác khơng sợ, hết sợ. Vì bố thí Vơ
úy sẽ giúp cho chúng sinh sự bình an, bình tĩnh trước mọi việc.
Trong hệ thống giáo lý Phật giáo, bố thí hay từ thiện đều rất được coi
trọng. Điều đó thể hiện ở nhiều minh chứng cụ thể: Với mong muốn, trăn trở
luôn đem lại hạnh phúc, an vui cho chúng sinh, nên ngay từ khi thành lập giáo
đoàn, Đức Phật đã răn dạy các đệ tử của mình: “Hãy ra đi, các Tỳ kheo, đem
sự tốt đẹp lại cho nhiều người, đem hạnh phúc đến cho nhiều người. Vì lịng
từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc lại cho chư Thiên và nhân
loại” [15, tr. 25]. Trong hệ thống kinh sách Phật giáo cả Nam truyền và Bắc
truyền đều có nhiều trang đề cập đến vấn đề này. Lời dạy của Đức Phật về Bố
thí Kinh Tăng Chi Bộ: “Người có bố thí, khi được làm một vị trời hoặc được
làm người đều vượt qua người không bố thí trên năm phương diện, đó là thọ

mạng, nhan sắc, an lạc, danh xưng và tăng thượng” ; “Có người bố thí với
tâm khơng mong cầu, bố thí với tâm khơng trói buộc, bố thí khơng với ý nghĩ
“ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố
thí”. Vị ấy bố thí để trang nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại
mạng chung, được sinh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm chúng. Khi
nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh tiếng và uy quyền đoạn tận, vị ấy trở
thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này” [7, tr.351]. Kinh Hoa Nghiêm
có nói: “Bồ tát là nhà đại thí chủ, có bao nhiêu của cải bình đẳng thí cho
chúng sinh mà khơng hối tiếc, chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh vọng,
chẳng cầu sinh về chỗ tốt hơn, cẳng cầu lợi dưỡng. Bồ tát chỉ muốn cứu độ tất
cả chúng sinh, muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh, muốn học theo bổn
hạnh của các Đức Phât, muốn thọ trì bổn hạnh của các Đức Phật và muốn
khiến tất cả chúng sinh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo” [Xem 29]. Còn trong
kinh Kim Cang Bát nhã Ba la mật, Đức Phật dạy về cơng đức bố thí như sau:
“Nếu Bồ tát bố thí với tâm khơng trụ tướng, phước đức ấy chẳng thể suy

13


lường” (Nhược Bồ tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương)
[Xem 27]…
Từ những minh chứng trên cho thấy, trong hệ thống tư tưởng, giáo lý
của mình, Phật giáo ln coi bố thí hay cơng tác từ thiện là nội dung quan
trọng, là điều mà người xuất gia, người Phật tử, nói chung là người con Phật
nên làm. Bố thí hay từ thiện có nhiều phương thức khác nhau: tự mình phát
tâm thành các hành động cụ thể hay dù chỉ là thấy người khác làm từ thiện
mình phát tâm góp sức làm theo hoặc hỗ trợ cho họ cũng là điều nên làm, đem
lại lợi ích lớn: “Thấy người làm đạo bố thí vui vẻ giúp đỡ thì được phước rất
lớn” (Đỗ nhơn thí đạo, trợ chi hoan hỷ, đắc phước thậm đại). Và từ thiện, bố
thí khơng chỉ đem lại lợi ích cho người khác mà cịn đem lại lợi ích cho chính

bản thân mình (sẽ phân tích rõ hơn ở phần sau).
Phật giáo Bắc truyền với hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát với khả năng
biến hóa khơn lường, người hóa thân vào vơ số các hình tượng khác nhau (ba
mươi hai ứng hóa thân cả thảy) nhưng với vai trị và vị thế nào đều có khả
năng bố thí vơ úy, mang lại an vui cho người khác nếu như người đó có trí tuệ,
năng lực độ sinh và lịng từ bi như Bồ tát… là biểu tượng điển hình về tâm từ
bi, bố thí.
Liên quan đến Từ thiện, Phật giáo cịn có thuyết Tứ vơ lượng tâm “Từ,
bi, hỷ, xả”.
Tâm “Từ” là lịng từ ái vơ lượng, vơ biên, là cái đối trọng với tâm sân
hận. Theo quan niệm của nhà Phật, cái tâm sân hận không thể được dập tắt
bằng lịng thù ốn mà nó chỉ có thể hố giải được bằng tâm “từ”. Tâm “Bi” là
lịng xót thương vơ hạn, là sự rung động trước nỗi đau của người khác và nỗi
đau của nhân thế, là sự cảm thông vô hạn đối với con người, đối với mọi
chung sinh không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn, thân sơ. Tâm
“Bi” chính là cái đối trọng với hung bạo, hận thù nhưng nó hồn tồn khơng

14


phải là sự bi lụy. Đức Phật đã dạy rằng, hận thù không bao giời diệt được hận
thù, từ bi diệt hận thù đó là định luật nghìn thu.
Tâm “Hỷ” nghĩa là vui với niềm vui của người khác, buồn với nỗi buồn
của người khác, khơng hiềm khích ganh tỵ trước thành tựu của người khác.
Tâm “Xả” nghĩa là không luyến ái, khơng bực tức, nóng giận trong
phiền não.
Tóm lại khi thực hiện Từ thiện người tín đồ phải thực hiện và đạt được
Tứ vô lượng tâm “Từ, bi, hỷ, xả”. Biểu hiện của Tứ vô lượng là thái độ cùng
vui, cùng buồn với tất cả chúng sinh, là tư tưởng cứu khổ, cứu nạn. Nhờ đó
khi thực hành, tín đồ có thể điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với cái

thiện. Thực hành Tứ vô lượng tâm hay 4 tâm vô lượng này là để khắc phục cái
tâm thiên kiến như ích kỷ, hẹp hịi, cố chấp, phiến diện... là để vượt ra ngoài
giới hạn của Ta để đến với người khác với chúng sinh.
Khi thực hiện Bố thí, Phật giáo chia ra hai cách: Bố thí chấp tướng và
Bố thí khơng chấp tướng. Việc Bố thí chấp tướng là việc bố thí khơng thật
tâm, dụng tâm để cầu lợi cầu danh. Cịn việc Bố thí khơng chấp tướng với một
dụng ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của nó. Như vậy Bố thí với một tâm địa
trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới đúng là Bố thí Ba la
mật.
1.1.3. Ý nghĩa và giá trị công tác từ thiện xã hội của Phật giáo
Phân tích về ý nghĩa và giá trị của cơng tác từ thiện xã hội của Phật
giáo, chúng tôi phân tích theo hai góc độ, khía cạnh: thứ nhất, là ý nghĩa và
giá trị của công tác từ thiện xã hội theo quan điểm Phật giáo; thứ hai, ý nghĩa
và giá trị công tác từ thiện xã hội đối với Phật giáo nói chung.
Ở khía cạnh thứ nhất, như đã đề cập đến ở trên, quan điểm của Phật
giáo về vấn đề từ thiện xã hội, từ thiện xã hội đem lại lợi ích cả hai mặt: đối

15


với phương diện cộng đồng xã hội (khách thể tác động của hoạt động từ thiện)
và phương diện cá nhân (chủ thể của hoạt động từ thiện), cụ thể như sau:
Về phương diện cộng đồng xã hội: Cộng đồng xã hội là đối tượng trực
tiếp đón nhận những tác động của hoạt động từ thiện. Những hoạt động từ
thiện góp phần làm giảm thiểu những đau thương, mất mát, những thiếu hụt
của một hoặc nhiều cá nhân trong cộng đồng xã hội, để cộng đồng xã hội đó
trở nên cân bằng, tốt đẹp hơn. Ví như, những hành động từ thiện như cứu trợ
thiên tai của các cá nhân, tổ chức sẽ giúp cho những người chịu ảnh hưởng
trực tiếp, gián tiếp hậu quả của thiên tai đó khắc phục được phần nào đó hậu
quả của thiên tai, ổn địn cuộc sống; các hoạt động gây quỹ từ thiện giúp người

nghèo, của cá nhân hay tổ chức nào đó giúp cho những người nghèo bớt nhọc
nhằn, khó khăn, giúp cho cộng đồng xã hội thêm phần ổn định, khoảng cách
giàu nghèo được thu hẹp hơn,...
Về phương diện cá nhân: Với thuyết nhân quả của Phật giáo “trồng dưa
được dưa, trồng đậu được đậu”, mỗi hành động của cá nhân mỗi người là
nguyên nhân của các kết quả gặt được về sau. Chính vì vậy, bố thí, làm việc
thiện là đang gieo nhân “lành” để hái được “quả ngọt” về sau. Vì sao lại vậy?
Trong Kinh Tăng Chi Bộ II, Đức Phật chỉ ra cho người đời năm lợi ích của
việc Bố Thí: “Có năm lợi ích của bố thí: được nhiều người ưa thích, mến mộ;
được Thiên nhân và các bậc chân nhân thân cận; tiếng đồn tốt đẹp được
truyền đi; khơng có sai lệch pháp của người gia chủ; khi thân hoại mạng
chung được sinh lên cõi lành, Thiên giới”. Như vậy, trong năm lợi ích đó, đã
có tới bốn lợi ích mà người bố thí nhận được ngay ở kiếp này, trong đời sống
hiện thực của mình: được nhiều người u q, được tiếng lành, khơng có sai
lệch pháp, được giúp sức bởi các bậc thiên nhân, chân nhân,… những điều đó
sẽ làm cho cuộc sống của mỗi cá nhân thêm phần tốt đẹp.

16


Bố thí là làm việc thiện, sẽ giúp cá cá nhân tránh xa được những việc
xấu, để giữ tâm lúc nào cũng thanh tịnh, an vui, là phương tiện để thực hành
hạnh xả ly, chuyển hóa được tâm tham, sân, si, tiến đến vô ngã, đạt đến chứng
ngộ vô ngã như lời Phật dạy.
Mỗi cá nhân đều tích cực bố thí, làm việc thiện thì nhiều cá nhân góp lại
sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn.
Thứ hai, đối với Phật giáo, Từ thiện xã hội còn là phương thức thể hiện
rõ nét chức năng xã hội của Phật giáo. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội,
chính vì vậy bản thân nó mang trong mình chức năng xã hội nhất định. Quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin chỉ ra các chức năng xã hội cơ bản của tôn giáo

bao gồm: chức năng đền bù hư ảo (bù đắp về mặt tinh thần), chức năng thế
giới quan, chức năng điều chỉnh, chức năng giao tiếp, chức năng liên kết. Sự
phân chia các chức năng như trên chỉ là sự phân chia mang tính chất tương
đối, trong đó mỗi chức năng lại có thể hàm chứa trong nó các chức năng khác,
chẳng hạn, mỗi chức năng có thể hàm chứa chức năng nhận thức, chức năng
đạo đức, chức năng văn hóa. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, chức năng xã hội
của tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng được thể hiện rất cụ thể như: tơn
giáo có thể coi là một nguồn lực của phát triển kinh tế, tôn giáo với sự phát
triển văn hóa, đạo đức,...
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, lời mở đầu có đoạn: “Trong
hơn hai nghìn năm hiện diện trên đất nước Việt Nam, đồng hành cùng dân tộc,
Đạo Phật đã trở thành tôn giáo của dân tộc. Suốt chiều dài lịch sử dựng nước
và giữ nước, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, cũng
như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay, Phật
giáo Việt Nam luôn là thành viên tin cậy và vững mạnh trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc”. Lý tưởng giác ngộ chân lý hịa hợp chúng, hịa bình và công
bằng xã hội của giáo lý Đức Phật, nhằm phục vụ dân tộc,

17


Tổ quốc và nhân loại chúng sinh, là tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo phương châm “Đạo pháp
– Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”, trên cơ sở kính ngưỡng, phụng hành giáo
pháp, Giới luật Phật chế và tuân thủ pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [Xem 13]. Từ khi thành lập Giáo hội Phật giáo năm 1981
đến nay, tiếp nối truyền thống hộ quốc an dân, thực thi lý tưởng Bồ tát với tinh
thần nhập thế tốt đạo, đẹp đời. Ban từ thiện từ Giáo hội Phật giáo trung ương
đến địa phương ra đời.
Tính từ thiện của Phật giáo nó khơng chỉ mang tính chất của tơn giáo,

mà dưới góc độ xã hội thì nó cịn là một chức năng hỗ trợ xã hội.
Ở góc nhìn Tơn giáo học, chức năng hỗ trợ xã hội được hiểu: “Dù ít
hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bai,
thiên tai, bệnh tật,…cái chết của những những người thân thuộc, yêu q và
cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống con
người rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con
người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tơn giáo cịn cung cấp cho con
người những biện pháp cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng
cúng bái thần linh trong niềm tin rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải
thiện được tình hình” [18, tr.14]
Việc chức năng ổn định xã hội không dừng chân lại việc các bài thuốc
chữa về sự bình an, khấn vái, cầu khẩn. Mà cịn nó mang tính thực tiễn qua
của cải vật chất của các tôn giáo, trong đó có Phật giáo.
Với ý nghĩa và giá trị như trên, Phật giáo Việt Nam luôn coi công tác từ
thiện xã hội là hoạt động trọng tâm.
Đạo Phật có lịch sử trên dưới hai ngàn năm đồng hành sắt son với dân
tộc, là tơn giáo chiếm được tình cảm và sự quy hướng của đại đa số người dân
nước Việt; sự thích nghi và hịa hợp của đạo Phật giữa lòng dân tộc, đã tạo

18


×