Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN bền VỮNG các KHU CÔNG NGHIỆP ở TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.86 KB, 83 trang )

2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU
11

1.1.

CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững các khu

11

1.2.

công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
Thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh

23

Chương 2

Bình Dương
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở


43

2.1.

TỈNH BÌNH DƯƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI
Những quan điểm chỉ đạo phát triển bền vững các

43

2.2.

khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
Giải pháp phát triển bền vững các khu công
nghiệp ở tỉnh Bình Dương trong thời gian tới

51
76
78

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khái niệm “Phát triển bền vững” chính thức xuất hiện năm 1987 trong
báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Hội đồng thế giới về môi trường và phát
triển (WCED) như là: “Sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại,

nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
được ba mặt: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Chính vì
những mục tiêu như vậy mà phát triển bền vững đã trở thành những nhu cầu cấp
bách, là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Cùng với quá trình hội nhập sâu hơn, rộng hơn với nền kinh tế thế
giới, Đảng ta xác định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược” [21, tr.98]. Phát
triển bền vững ở Việt Nam là chiến lược toàn diện, giữ vị trí vai trò quan
trọng trong xây dựng mục tiêu, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, của từng địa phương trên các ngành, các lĩnh
vực của đời sống xã hội trong đó có phát triển bền vững các KCN.
Bình Dương là tỉnh thuộc Miền đông Nam bộ nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Liên tục trong nhiều năm, Bình Dương là tỉnh có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao với sự phát triển mạnh mẽ của các KCN cả về số lượng và chất
lượng. Sự phát triển của các KCN và sức lan tỏa của nó đã tạo ra cho Bình Dương
một sức sống mới với tốc độ đô thị hóa nhanh, thu hút lượng lao động lớn trong
và ngoài tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Bình Dương trở
thành điểm sáng, địa phương dẫn đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, sự phát triển của các KCN ở Bình Dương chưa thực sự
vững chắc, việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN chưa đồng bộ, chưa gắn chặt
với yêu cầu bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm, vai trò thúc đẩy chuyển giao


4
công nghệ còn yếu, liên kết kinh tế và hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp trong KCN chưa cao, khả năng tạo việc làm, thu hút lao động vẫn còn
chứa đựng những yếu tố lạc hậu. Đời sống khó khăn của người lao động trong
các KCN và những hệ lụy xã hội đang ngày một trở thành rào cản cho sự phát
triển của các KCN và của chính nền kinh tế ở địa phương. Vì thế, cần xây dựng

một hệ thống tiêu chí đánh giá các KCN theo yêu cầu phát triển bền vững, từ
đó, đưa ra các giải pháp đảm bảo sự phát triển bền vững các KCN ở Bình
Dương. Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào luận
giải vấn đề phát triển bền vững KCN ở tỉnh Bình Dương, địa bàn gắn bó với tác
giả trong quá trình công tác, tác giả chọn vấn đề “Phát triển bền vững các khu
công nghiệp ở Bình Dương” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Phát triển bền vững KCN là một nội dung, một lĩnh vực của phát triển
bền vững, là mối quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước.
Phát triển bền vững trở thành diễn đàn, đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa
học: Triết học, Kinh tế học, Kiến trúc, Xã hội học, Môi trường… Ở Việt Nam
đã có nhiều công trình công bố, điển hình như:
TS. Trần Anh Phương, (2008), “Phát triển bền vững trong lĩnh vực
kinh tế ở Việt Nam và những tác động chính trị-xã hội”, Kỷ yếu hội thảo
“Phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, H. 2008. Đây là bài
viết điển hình, sâu sắc tập trung giải quyết trên 4 nội dung sau:
Phát triển bền vững là yêu cầu cấp bách và xu thế tất yếu của toàn cầu; Việt
Nam trong tiến trình hội nhập, phát triển đã và đang tích cực hưởng ứng xu thế này;
Một số thành tựu nổi bật về phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế
của Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua;
Một số tác động chính trị - xã hội cơ bản từ thành tựu phát triển bền
vững trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam;


5
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn một số biểu hiện chưa bền vững nhưng
chúng ta có thể vượt qua và vững tin vào tương lai nếu có các giải pháp phát
triển đúng đắn, năng động.
PGS.TS Phan Huy Đường, (2008),“ Hội nhập kinh tế quốc tế với phát
triển bền vững và độc lập tự chủ”, Kỷ yếu hội thảo “Phát triển bền vững ở Việt

Nam”, Nxb Khoa học xã hội, H. 2008. Bài viết làm rõ thực chất vấn đề toàn
cầu hoá kinh tế quốc tế, xu thế mở cửa và hội nhập, vấn đề phát triển bền vững
về kinh tế. Tác giả nhấn mạnh nội dung của phát triển bền vững mà các quốc gia
đang theo đuổi hiện nay đó là: Bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và duy trì tốc độ
ấy trong một thời gian dài; môi trường sinh thái được bảo vệ một cách tốt nhất;
đời sống xã hội được bảo đảm hài hòa.
Tác giả Trần Văn Thọ “Điều kiện để Việt Nam phát triển bền vững”, báo
Tia sáng, Bộ khoa học và công nghệ ra ngày 03/10/2008. Bài viết đề cập đến 3
điều kiện để Việt Nam phát triển bền vững: bảo đảm tính dân chủ trong việc
hoạch định các chiến lược, chính sách; ý kiến của chuyên gia, giới kỹ trị
không bị chính trị chi phối; phải có đội ngũ quan chức giỏi thật sự để quá
trình đặt ra các chính sách và thực hiện chính sách có hiệu quả. Về chính sách
cụ thể, tác giả chỉ ra: cần sớm chấm dứt tàn dư của chiến lược cải cách tiệm
tiến, cụ thể là phải triệt để cải cách khu vực DN Nhà nước; để phát triển bền
vững trong giai đoạn tới, nhất là thời kỳ cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt,
phải có cơ chế xây dựng, nuôi dưỡng các ngành có lợi thế so sánh để ngày
càng chuyển dịch cơ cấu lên cao hơn.
Xung quanh vấn đề KCN, phát triển KCN theo hướng bền vững một số
công trình khoa học cũng đã đề cập như:
PGS.TS Ngô Thắng Lợi, ThS. Bùi Đức Tuân, ThS. Vũ Thành Hưởng,
Ths. Vũ Cương, (2007),“Vấn đề phát triển bền vững các KCN của Việt Nam”
Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam 03/2007. Bài viết tập trung làm rõ những


6
tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững KCN, đề ra một số định hướng phát
triển các KCN ở Việt Nam. Tác giả cho rằng, cùng với quá trình phát triển các
KCN thì những hệ lụy về mặt xã hội đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Khắc
phục những hệ lụy này, nhóm tác giả đề xuất những tiêu chí đánh giá tính chất
bền vững của một KCN, phương hướng và giải pháp khắc phục. Tuy nhiên,

các giải pháp này thiên về mặt kinh tế học phát triển thuần túy, các giải pháp
về mặt chính trị xã hội, văn hóa và môi trường chưa được đề cập.
TS Lê Thế Giới, (2008), “Các KCN Việt Nam qua hệ thống đánh giá phát
triển bền vững” Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng số 4(27). Bài
viết này tập trung trình bày lịch sử phát triển KCN Việt Nam, đề xuất hệ thống
các tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững KCN và các giải pháp tăng cường
tính bền vững trong phát triển các KCN Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh vấn đề
quy hoạch KCN có vị trí vai trò quan trọng trong phát triển các KCN ở Việt
Nam, tuy nhiên tác giả chưa đưa ra được mô hình chuẩn cho sự phát triển KCN
theo hướng bền vững, khó áp dụng cho một địa phương cụ thể.
Tác giả Nguyễn Thị Thuỷ, (2009), “Phát triển bền vững các KCN ở
Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước” Thông tin tư
liệu chuyên đề Phát triển KCN theo hướng bền vững, nghiên cứu các KCN ở
Bắc Ninh số 3/2009, Thư viện Quân đội 33(V)5 T22479. Tác giả đánh giá
KCN và vai trò của KCN từ đó đặt ra một số bài học về công tác quản lý nhà
nước đối với các KCN theo hướng bền vững (Công tác quy hoạch phát triển
KCN, công tác quản lý đầu tư, đảm bảo đời sống người dân KCN, quản lý lao
động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, công tác quản lý môi trường).
Tác giả Đỗ Thị Vinh, (2009), “Mô hình KCN sinh thái-Một giải pháp
phát triển bền vững các KCN” Thông tin tư liệu chuyên đề Phát triển KCN
theo hướng bền vững, nghiên cứu các KCN ở Bắc Ninh số 3/2009, Thư viện
Quân đội 33(V)5 T22479. Tác giả đã đề cập đến một khái niệm khá mới mẻ ở


7
Việt Nam đó là KCN sinh thái. Theo đó KCN sinh thái có nhiều lợi ích như
lợi ích kinh tế, lợi ích về môi trường và lợi ích cho chính phủ.
Ths.Nguyễn Văn Hùng, (2009), “Một số vấn đề về đổi mới công tác quy
hoạch phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường ở nước ta”, Tạp chí
Khu công nghiệp ra ngày 24/09/2009. Tác giả đề cập đến vấn đề quy hoạch

KCN ở nước ta hiện nay, chỉ ra những hạn chế trong quy hoạch nhất là gắn vấn
đề quy hoạch với bảo vệ môi trường, một trong những vấn đề nóng bỏng được
nhiều người quan tâm trong quá trình phát triển các KCN, tác giả cũng đã nêu ra
những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề này.
Ths.Vũ Thành Hưởng, (2009), “Phát triển bền vững về kinh tế các Khu
công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Thực trạng và các khuyến nghị
chính sách”, Tạp chí Khu công nghiệp ra ngày 02/12/2009. Qua nghiên cứu
các nhân tố thiếu bền vững về kinh tế ở các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc
bộ như: Vị trí các KCN, tỷ lệ lấp đầy KCN, quy mô diện tích các KCN, liên
kết phát triển trong nội bộ KCN và với bên ngoài KCN, trình độ công nghệ
của các DN tác giả Vũ Thành Hưởng khuyến nghị chính sách phát triển bền
vững về kinh tế các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
TS Nguyễn Hữu Dũng, (2008) ,“Phát triển khu công nghiệp với vấn đề
lao động - việc làm ở Việt Nam”, tạp chí cộng sản số 5(149) năm 2008. Tác giả
đã đánh giá những thành tựu nổi bật của quá trình phát triển các KCN ở Việt
Nam từ năm 1991 đến nay nhấn mạnh những thành tựu và hạn chế của vấn đề
lao động và việc làm từ đó đề xuất một số giải pháp vĩ mô như giáo dục đào tạo,
phát triển hệ thống các trung tâm dạy nghề, gắn nhà trường với các nhà máy
trong KCN. Bên cạnh đó tác giả còn nhấn mạnh vấn đề an sinh xã hội đối với
lao động trong các KCN, một vấn đề đang được các nhà nghiên cứu quan tâm,
các tổ chức chính trị xã hội trên cơ sở đó hoạch định các chính sách nhằm nâng
cao đời sống người lao động tại các KCN và lân cận KCN.


8
TSKH. Nguyễn Văn Minh, (2011), “Đánh giá tác động của khu công
nghiệp tới kinh tế xã hội vùng lân cận”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 47
(6/2011). Tác giả đã có phương pháp tiếp cận, đánh giá tác động của khu công
nghiệp tới kinh tế xã hội vùng lân cận rất khoa học và có sự thâm nhập thục tế
một số khu công nghiệp ở phía Bắc. Theo tác giả, trước hết cần phải lựa chọn

và soạn thảo bộ tiêu chí đánh giá trình độ phát triển bền vững nội tại của các
KCN. Sau khi định hình được năng lực nội tại của KCN, sẽ tiến hành xác định
cơ chế tác động. Về cơ bản tác động diễn ra theo hai hướng: tích cực và tiêu
cực. Vấn đề quan trọng là phải xác định được cơ chế lan tỏa của hai chiều
hướng này. Theo tác giả đó là các lớp tác động: môi trường sống, đời sống
tinh thần, đời sống kinh tế của người dân. Trên cơ sở đánh giá tác động tác giả
đã chỉ ra muốn phát triển bền vững chúng ta cần nhanh chóng có các giải
pháp để hạn chế mặt tác động tiêu cực và thúc đẩy mặt tích cực, tiến tới hình
thành các KCN hoạt động hiệu quả và đi xa hơn nữa là xây dựng một hệ sinh
thái kinh doanh thân thiện với môi trường.
Tóm lại, các công trình khoa học trên đã đề cập đến những khía cạnh,
đối tượng, phạm vi khác nhau, là những tài liệu quan trọng để tác giả tham
khảo, kế thừa nghiên cứu trong luận văn này. Một số công trình nghiên cứu về
phát triển KCN theo hướng bền vững, song với cách tiếp cận của kinh tế
ngành, thiên về lý luận và phương pháp nghiên cứu thiếu tính thực tế, đặc biệt
là nghiên cứu mô hình, giải pháp chưa toàn diện. Ngoài ra còn nhiều bài viết,
tham luận nghiên cứu những nội dung về phát triển bền vững trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Hầu hết những nội dung kể trên là các bài viết, bài
tham luận khoa học, thông tin chuyên đề của các tác giả, các nhà khoa học,
nhà chính trị. Đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề
“Phát triển bền vững các KCN ở tỉnh Bình Dương” vì vậy luận văn không
trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố.


9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích :
Lµm râ cơ sở lý luận và thực tiễn vÒ phát triển bền vững các KCN ở
tỉnh Bình Dương, trªn c¬ së đó ®Ò xuÊt quan điểm và giải pháp phát
triển bền vững các KCN ở tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ :
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về phát triển bền vững
các KCN ở Bình Dương;
Đánh giá tính chất bền vững trong phát triển các KCN ở tỉnh Bình
Dương theo hướng bền vững trong những năm qua và một số vấn đề rút ra từ
quá trình phát triển các KCN ở tỉnh Bình Dương;
Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển bền
vững các KCN ở Bình Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển bền vững các KCN ở tỉnh Bình Dương
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu sự phát triển bền vững các KCN trên địa
bàn của một đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc Trung ương-Bình Dương
- Về thời gian: Đề tài tập trung phân tích, nghiên cứu trong giai đoạn
hình thành và thu hút đầu tư vào các KCN Bình Dương. Trọng tâm là giai
đoạn từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận:
Dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, các quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực phát triển bền vững và phát triển bền vững
các KCN, các lý luận liên quan khác để tiếp cận đối tượng, luận giải các
nhiệm vụ của luận văn


10
*Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Hệ thống phương pháp nghiên cứu nền tảng là Phương pháp Duy vật
biện chứng và Phương pháp Duy vật lịch sử.

- Phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế chính trị cùng các
phương pháp phân tích thống kê, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa…
- Phương pháp điều tra nghiên cứu, tham khảo ý kiến của các chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả quán triệt và thực thi đường lối
phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững của Đảng, trên cơ sở đó tham gia
đề xuất một số giải pháp để phát triển bền vững các KCN ở Bình Dương dưới
góc độ nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liêu tuyên truyền,
nghiên cứu tham khảo trong thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các
KCN ở các địa phương đặc biệt là BQL các KCN ở tỉnh Bình Dương. Luận
văn còn có thể dùng trong nghiên cứu và giảng dạy Kinh tế chính trị ở các
Học viện, Nhà trường trong và ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và các phụ lục


11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững các khu công nghiệp ở
tỉnh Bình Dương
1.1.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm khu công nghiệp
KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển
vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ở Việt Nam KCN ra đời
cùng với đường lối đổi mới, mở cửa do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1986 khởi xướng. Từ đó đến nay, phát triển KCN được
xem là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Theo đó, vấn đề phát triển các KCN đã được đầu tư, quan tâm
thỏa đáng cả về lý luận và thực tiễn. Theo quy chế KCN, KCX, KCNC ban
hành kèm theo Nghị định số 29/CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ có đưa
ra định nghĩa về KCN, KCX, KCNC như sau:
“KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ
hoặc Thủ tướng quyết định thành lập. Trong KCN có doanh nghiệp chế xuất.”
“KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu; có ranh giới địa lý xác định, không
có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng quyết định thành lập.”
“KCNC là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên
cứu, triển khai khoa học công nghệ; đào tạo và các dịch vụ có liên quan; có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng quyết định thành lập. Trong KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất.”


12
Như vậy, có thể hiểu KCN là một tổ chức không gian kinh tế xã hội rộng
lớn, có ranh giới địa lý xác định, trong đó có những điều kiện thuận lợi về cơ
chế chính sách, cơ sở hạ tầng (hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng KT-XH) nhằm tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư phát triển các DN sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp.
Theo số liệu mới nhất hiện nay Việt Nam có 223 KCN, có thể phân loại KCN
nằm trong phạm vi, đối tượng điều tiết của Nghị định 29/CP thành ba nhóm chính sau:
Nhóm 1: Các KCN mang tính truyền thống, được thành lập một cách
phổ biến ở Việt Nam. Các KCN này có những đặc điểm chung như sau:
Là khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ và có
phạm vi ảnh hưởng không chỉ ở một khu vực địa phương;
Là khu vực được kinh doanh bởi công ty cơ sở hạ tầng (công ty phát

triển KCN, công ty dịch vụ KCN...), công ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ
tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong suốt thời gian tồn tại;
Trong KCN không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài KCN phải có hệ
thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở KCN;
Là khu vực được quy họach riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và
ngoài nước thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp cũng như
hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cho sản xuất công nghiệp;
Sản phẩm của các DN trong KCN có thể tiêu thụ trong nước hoặc bán
ra nước ngoài.
Nhóm 2: Khu chế xuất
Theo Nghị định 29-CP, KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu; có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng
quyết định thành lập.


13
Như vậy ngoài những đặc điểm chung giống như các KCN truyền
thống, các KCX còn có một số đặc điểm riêng, đó là: được quy hoạch
phân tách khỏi phần nội địa bằng tường rào kiên cố, việc ra vào khu phải
thông qua sự kiểm soát của hải quan và các cơ quan chức năng; quan hệ
thương mại giữa các DN trong KCX và nội địa được điều chỉnh bằng
hợp đồng ngoại thương, theo các thủ tục xuất, nhập khẩu, các DN trong
KCX chỉ được bán tối đa 20% giá trị sản phẩm của mình vào thị trường
nội địa; các DN trong KCX được hưởng những ưu đãi đặc biệt về các
loại thuế như: miễn thuế xuất, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt, được hưởng thuế thu nhập DN ở mức ưu đãi 10% và
không phải chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước.
Nhóm 3: Các khu công nghệ cao
Đây là KCN trong đó tập trung các DN công nghiệp kỹ thuật cao và các

đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, có ranh giới xác định
và do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong
KCNC có thể có DN chế xuất. Ngoài những đặc điểm chung của KCN,
KCNC có những nét riêng biệt:
Có hoạt động chính của các DN sản xuất và dịch vụ có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao như: nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo
và thực hiện các dịch vụ có liên quan. Bản thân các DN thường có quá trình
đổi mới liên tục về công nghệ và sản phẩm;
Các DN trong khu công nghệ cao đều có đầu tư lớn cho nghiên cứu và
phát triển, có năng suất cao, được điều hành bởi các nhà khoa học và công
nhân có trình độ, kinh nghiệm cao;
Công nghệ sử dụng trong KCNC mang tính tiên phong đi trước thời
đại, phát triển kinh doanh của DN trong nhiều trường hợp được coi là mạo
hiểm và có khả năng được bù đắp cao;
Trong KCNC, còn tiến hành các dịch vụ nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ, thực hiện chức năng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao.


14
1.1.2. Quan niệm phát triển bền vững và phát triển bền vững các khu
công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
* Quan niệm và tiêu chí của phát triển bền vững
Những ý tưởng có hàm ý về phát triển bền vững sớm xuất hiện trong xã
hội loài người, nhưng phải đến thập niên đầu của thế kỷ XX, những hàm ý
này mới phát triển, chuyển hoá thành hành động và cao hơn là phong trào xã
hội. Tiên phong cho các trào lưu này, phải kể đến giới bảo vệ môi trường ở
Tây Âu và Bắc Mỹ. Các tổ chức này, đã phối hợp chặt chẽ trong việc tìm hiểu
diễn biến môi trường tự nhiên, từ đó đưa ra chương trình hành động hướng
các quốc gia phát triển theo mô hình bền vững.
Thập kỷ 70, 80 thuật ngữ xã hội bền vững tiếp tục xuất hiện trong các

công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây, với công trình của Barry
Cômmner “Vòng tròn khép kín” (1971), Herman Daily “Kinh tế học nhà nước
mạnh” (1973) và công trình “Những con đường sử dụng năng lượng mềm: về
một nền hoà bình lâu dài” của Amory Lovins (1977). Khái niệm phát triển
bền vững tiếp tục được đề cập và bổ sung với những đóng góp quan trọng thể
hiện trong các tác phẩm của Maurice Strong (1972), và Ignacy Sachs (1975).
Đặc biệt khái niệm này, được đề cập toàn diện nhất trong công trình của
Laster Brown “Xây dựng một xã hội bền vững” (1981). Tuy nhiên, khái niệm
này chính thức phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo Brundrland
(1987). Theo Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn
những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ tương lai”.
Như vậy, khái niệm “Phát triển bền vững” được đề cập trong báo cáo
Brundtland với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải kinh
tế và môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường. Nội dung khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị xã


15
hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là “tiếng
chuông” hay nói cách khác là “tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài
người trong thế giới đương đại.
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào những
khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù, xuất hiện ở Việt Nam khá
muộn, nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ: Bền vững về mặt kinh
tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt
kỹ thuật. Phát triển bền vững đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhau với số lượng tham gia đông đảo của các nhà khoa học:
kinh tế, chính trị, xã hội, kiến trúc, môi trường… ở Việt Nam.
Như vậy, "Phát triển bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong

đó đều có một ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển bền vững, là mỗi địa
phương, vùng, quốc gia… không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành
tố kia. Vấn đề là, áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội.
Nhận thức vấn đề này, trên cơ sở phương pháp luận của khoa học Kinh
tế chính trị, chúng tôi đưa ra quan niệm về phát triển bền vững như sau:
“Phát triển bền vững, là mô hình phát triển mới trên cơ sở sử dụng
hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu
của con người thế hệ hiện này, mà không làm hại cho thế hệ mai sau”.
Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Như đã trình bày, khái niệm “phát triển bền vững”
có nội hàm rất rộng, chính vì vậy, mà hệ tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
cũng hết sức phong phú và phức tạp. Bằng phương pháp trừu tượng hóa khoa
học- phương pháp đặc thù của Kinh tế chính trị học, dưới đây tác giả đề xuất
hệ các tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững
Một là, nhóm tiêu chí về kinh tế: tiêu chí về kinh tế của sự phát triển
bền vững được tính trên giá trị tổng sản phẩm được tạo ra trong nước (GDP)


16
hoặc thu nhập được sử dụng trong nước (GNI). Liên quan đến sự bền vững,
các chỉ tiêu này được đánh giá cả về mặt tốc độ tăng trưởng trong một khoảng
thời gian dài. Nó cũng liên quan đến mô hình và công nghệ sản xuất theo
hướng sạch hơn, duy trì lối sống của xã hội gần gũi, thân thiện với môi trường
và tài nguyên thiên nhiên. Quy mô, số lượng gắn với trình độ của sự phát
triển. Kết quả của sự phát triển đồng thời được chuyển hóa phục vụ nhu cầu
toàn diện của con người cả về vật chất lẫn tinh thần.
Hai là, nhóm tiêu chí về xã hội: Phát triển bền vững đòi hỏi sự công
bằng về các quyền lợi xã hội đối với mỗi công dân như: được học tập, được
tạo mọi điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân, có công ăn việc làm, có thu

nhập ổn định, được đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần, mọi công dân và
các tổ chức chính trị, xã hội có quyền lợi và nghĩa vụ tham gia vào các quỹ
phúc lợi xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo... Nhà
nước phải có một hệ thống luật pháp đồng bộ đủ sức điều chỉnh các quan hệ
xã hội, đảm bảo dân chủ, công bằng, đáp ứng với yêu cầu của hội nhập kinh
tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay và cả trong tương lai.
Ba là, nhóm tiêu chí về tài nguyên - môi trường: Tiêu chí về môi trường
của sự phát triển bền vững có thể đánh giá thông qua chất lượng các thành
phần môi trường như: môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước,
môi trường sinh thái; mức độ duy trì, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên không tái tạo; nguồn vốn xã hội dành cho các hoạt động bảo vệ môi
trường; khả năng kiểm soát của các cấp chính quyền đối với các hoạt động
kinh tế xã hội, những vấn đề chứa đựng các yếu tố tiềm ẩn tác động tiêu cực
đối với môi trường, ý thức bảo vệ môi trường của người dân.
Những tiêu chí trên có mối quan hệ biện chứng, tác động ràng buộc qua
lại lẫn nhau không nên xem nhẹ hay nhấn mạnh yếu tố nào. Phát triển bền vững
cần được đánh giá một cách toàn diện trên cơ sở tổng hợp các tiêu chí.


17
* Quan niệm phát triển bền vững các KCN ở tỉnh Bình Dương
Phát triển bền vững, như đã trình bày là một nhu cầu cấp bách và là xu thế
tất yếu trong tiến trình phát triển KT- XH của đất nước. Ở Việt Nam, để thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững đất nước theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, X, XI đề ra và thực hiện những cam kết quốc tế, Chính phủ Việt Nam
đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững. Đây là chiến lược khung,
bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương các tổ
chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động. Mục tiêu phát triển
bền vững đất nước trong thế kỷ XXI chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực
hiện chiến lược phát triển bền vững trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa

phương trong đó có phát triển bền vững KCN.
Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa và phát triển các khái niệm về KCN và phát
triển bền vững, chúng tôi đưa ra quan niệm về “ Phát triển bền vững các khu công
nghiệp ở tỉnh Bình Dương ” như sau:
Phát triển bền vững các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương là quá trình
Đảng bộ, Chính quyền và các cơ quan, ban ngành chức năng vận dụng một
cách sáng tạo những nguyên lý chung về phát triển bền vững, đường lối, chủ
trương và chính sách của Đảng, Chính phủ vào thực tiễn tỉnh nhà nhằm đảm
bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, kết hợp phát triển hài hòa về mặt xã hội, an
ninh quốc phòng nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động trên cơ sở
khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao
chất lượng môi trường trong và ngoài khu công nghiệp.
Phát triển bền vững KCN ở tỉnh Bình Dương được đặt ra trong khuôn
khổ quan niệm về phát triển bền vững, có chú ý đến những yếu tố đặc thù của
các KCN và tỉnh Bình Dương. Theo cách hiểu và tiếp cận của tác giả như vậy,
phát triển bền vững KCN Bình Dương là việc các chủ thể Đảng bộ tỉnh,
Chính quyền, các cơ quan ban ngành có chức năng sử dụng các công cụ,


18
chính sách tác động vào KCN nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, đạt
hiệu quả ngày càng cao trong bản thân các KCN, gắn liền với việc bảo vệ và
nâng cao chất lượng môi trường sống, cũng như những yêu cầu về ổn định xã
hội, an ninh quốc phòng trong khu vực có KCN. Như vậy, bảo đảm phát triển
bền vững KCN tỉnh Bình Dương phải được xem xét trên hai góc độ: một là,
bảo đảm duy trì tính chất bền vững và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và dịch vụ của bản thân KCN tỉnh Bình Dương; hai là, tác động lan toả
tích cực của KCN đến hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường của địa
phương, khu vực có KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
* Hệ thống tiêu chí (nội dung) đánh giá phát triển bền vững KCN

Có thể xem xét tiêu chí đánh giá phát triển bền vững KCN dưới
nhiều góc độ khác nhau nhưng từ khái niệm và cách triển khai quan niệm
phát triển bền vững các KCN ở Bình Dương, tác giả chia thành hai
nhóm: đánh giá sự bền vững nội tại của KCN và đánh giá tác động lan
toả của KCN đến khu vực có KCN.
Nhóm một, nhóm tiêu chí đánh giá phát triển bền vững nội tại của KCN
Phát triển bền vững nội tại KCN là yêu cầu quan trọng nhất, vì nó đảm
bảo duy trì sự hoạt động “khỏe mạnh” của các khu này. Chính sự hoạt động
“khoẻ mạnh” của bản thân KCN sẽ là cơ sở để nó gây ảnh hưởng lan toả tích cực
đối với địa phương có KCN và đối với toàn bộ nền kinh tế.
Cơ sở để đánh giá tính bền vững nội tại KCN, là dựa vào các dấu hiệu,
các tiêu chí thể hiện trên ba vấn đề cơ bản: một là, tính chất phù hợp về vị trí đặt,
cơ cấu bố trí các bộ phận trong KCN so với khả năng đất đai; hai là, tính hiệu
quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trong KCN và khả năng
duy trì, nâng cao hiệu quả trong tương lai; ba là, chất lượng hoạt động của các
KCN như: trình độ công nghệ, trình độ lao động, điều kiện môi trường hoạt
động, tính chất chuyên môn hóa sản phẩm, tính tổng hợp liên ngành và sự liên


19
kết kinh tế giữa các DN, các bộ phận trong KCN và giữa các KCN trong từng
địa phương và khu vực kinh tế với nhau
Từ những lập luận nêu trên, theo tác giả một KCN được gọi là phát
triển bền vững cần đáp ứng những tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, Vị trí đặt của KCN
Đây là dấu hiệu dẫn đến sự thành công của KCN. Dấu hiệu này thể
hiện: KCN đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như
đường sá, cầu cống, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn thông; điều kiện
về nguồn nhân lực dồi dào; tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư về vị trí và
điều kiện sinh hoạt. Tất cả những dầu hiệu này phải được xem xét trên khía

cạnh hiện tại và sự duy trì khả năng ấy trong tương lai.
Thứ hai, Quy mô đất đai, tính hợp lý của quy mô so với mục đích, tính
chất hoạt động của KCN và cơ cấu sử dụng đất trong KCN
Quy mô đất đai sẽ phụ thuộc vào mục đích hình thành KCN: mục đích
hình thành KCN để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thì quy mô có hiệu quả
nằm trong khoảng 200 - 300 ha (đối với các KCN nằm trong khu vực thành
thị và vùng kinh tế trọng điểm), còn 300 - 400 ha đối với KCN nằm trên các
tỉnh; nếu KCN được đặt ở địa phương có cảng biển và nguồn nguyên liệu lớn,
hình thành với tính chất chuyên môn hoá sản xuất ổn định một số sản phẩm
hàng hoá công nghiệp nặng thì quy mô KCN từ 300-500 ha; với các KCN
nằm ở xa đô thị, xa cảng biển, với tính chất hoạt động là tận dụng lao động thì
KCN sẽ có quy mô hợp lý là 50-100 ha.
Cơ cấu sử dụng đất trong KCN: Nội dung này có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất trong KCN và là cơ sở cho sự phát
triển bền vững KCN. Tiêu chí này do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định nhằm đảm bảo phát triển bền vững của KCN. Theo quy
định 07/2003/NĐ-CP ngày 30/1/2003 của Chính phủ về việc ban hành Quy


20
chế quản lý vốn đầu tư và xây dựng, cơ cấu sử dụng đất trong KCN có các bộ
phận như sau: Khu vực sản xuất công nghiệp thường chiếm 55-62%; khu vực
DN hỗ trợ chiếm 5-7%; khu vực DN dịch vụ chiếm 3-5%; khu trung tâm điều
hành, công trình công cộng, dịch vụ (nhà hàng, khu giới thiệu sản phẩm,
trưng bày hàng hoá, tổng kho trung chuyển, trạm xăng, bảo dưỡng ô tô) chiếm
3-5%; khu vực các công trình kết cấu hạ tầng (đường giao thông, các công
trình đầu tư hạ tầng kỹ thuật) chiếm 21-34%, so với tổng diện tích KCN. Lưu
ý rằng: các tỷ lệ này cần phải thay đổi theo xu hướng phát triển của KCN.
Thứ ba, Tỷ lệ lấp đầy KCN
Tiêu chí này được đo bằng tỷ lệ diện tích KCN đã cho các DN và dịch

vụ thuê so với tổng diện tích KCN. Tỷ lệ lấp đầy KCN được đánh giá theo
từng giai đoạn cụ thể. Giai đoạn đầu là thời kỳ thực hiện xây dựng kết cấu hạ
tầng khoảng 4-5 năm, tiếp sau đó là giai đoạn từng bước hoàn thiện chính sách
và thủ tục với mục tiêu là thu hút các nhà đầu tư vào KCN nhanh chóng “làm
sống” KCN để thu hồi chi phí xây dựng, tạo lập việc làm cho người lao động.
Thứ tư, hiệu quả hoạt động của DN trong KCN
Tiêu chí này đánh giá thực chất vấn đề về hiệu quả tài chính, kinh tế
trong hoạt động của các DN, quyết định khả năng sống còn của các DN trong
KCN. Tiêu chí này bao gồm: tổng doanh thu; tổng giá trị gia tăng; tổng lao
động thu hút; tổng vốn kinh doanh; tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng doanh thu;
doanh thu trên một đơn vị lao động (năng suất lao động tính theo doanh thu).
Đánh giá các chỉ tiêu này phải dựa trên quan điểm “động”, tức là mức và tốc
độ tăng trưởng của các con số đó. Điều đó cho phép kết luận về khả năng duy
trì bền bỉ và theo xu hướng ngày càng tăng lên của các chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả hoạt động của DN trong KCN.
Thứ năm, trình độ công nghệ của DN và các hoạt động triển khai khoa
học công nghệ vào sản xuất kinh doanh


21
Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh công nghệ của các DN trong
nội bộ KCN, giữa các KCN với nhau. Nó phản ánh khả năng duy trì hoạt động
sản xuất kinh doanh của DN và xu hướng hiện đại hoá, vận dụng các thành tựu
KHCN vào sản xuất kinh doanh. Tiêu chí này thể hiện bằng các chỉ tiêu: Số
lượng và cơ cấu máy móc thiết bị sử dụng trong KCN; tỷ lệ máy móc thiết bị
mới so với tổng số máy móc thiết bị sử dụng; độ tuổi trung bình của công nghệ
hoạt động trong DN; tỷ lệ vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
trong tổng vốn đầu tư của KCN, tỷ lệ doanh thu từ hoạt động nghiên cứu và
triển khai so với tổng quy mô hoạt động của DN và của toàn KCN.
Thứ sáu, thu nhập bình quân của người lao động.

Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó là dấu hiệu có tính chất quyết định đến khả
năng thu hút lao động vào KCN, đến việc duy trì đội ngũ lao động có tay nghề
cao. Nếu mức thu nhập thấp sẽ dẫn đến nguy cơ luân chuyển lao động không thể
kiểm soát được. Tiêu chí thu nhập được đo lường bằng mức thu nhập bình quân,
tốc độ tăng thu nhập bình quân và được xem xét trong sự so sánh giữa các DN
trong cùng khu và giữa các DN cùng ngành nghề ở các KCN khác nhau.
Nhóm hai, nhóm tiêu chí đánh giá tác động lan toả của KCN
Nhóm tiêu chí này phản ánh tác động lan tỏa của KCN đến các hoạt
động kinh tế, xã hội, và môi trường của địa phương có KCN. Đây là mối quan
hệ hai chiều, hỗ trợ phát triển lẫn nhau, có thể gọi là mối quan hệ “cộng sinh”.
Căn cứ vào tiêu chí của phát triển bền vững, dưới đây tác giả đề xuất các tiêu
chí thể hiện tác động lan tỏa của KCN trên ba vấn đề
Thứ nhất, tiêu chí về kinh tế
Ảnh hưởng của KCN đến lĩnh vực kinh tế đối với khu vực, địa phương
có KCN, được thể hiện bằng các chỉ tiêu đo lường chính: thu nhập bình quân
trên đầu người tính cho toàn khu vực hoặc địa phương; cơ cấu kinh tế của địa
phương có KCN; đóng góp của KCN cho ngân sách địa phương; số lượng và


22
chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội của địa phương có KCN;
đóng góp về kim ngạch xuất khẩu cho địa phương.
Thứ hai, tiêu chí về xã hội
Mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh tế là phải tạo ra những hiệu ứng
xã hội tốt. KCN hoạt động bền vững nếu xét theo góc độ mức lan tỏa ra bên
ngoài, phải thể hiện ở xu thế thay đổi tích cực trong các vấn đề xã hội của địa
phương có KCN mà trực tiếp là có lợi trực tiếp cho đối tượng hưởng lợi, đó là
dân cư trên địa bàn có KCN. Ở góc độ kinh tế, ảnh hưởng của KCN chính là
sự gia tăng trong thu nhập dân cư và khả năng được tiếp cận của dân cư đến
các cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội. Còn ở lĩnh vực xã hội thì ảnh hưởng của

KCN đến dân cư là việc tạo ra môi trường xã hội lành mạnh. Sự lành mạnh
của môi trường xã hội phụ thuộc rất lớn vào khả năng giải quyết việc làm của
KCN cho dân cư địa phương, nhất là những người dân bị mất đất do sự hình
thành KCN gây nên. Như vậy, tiêu chí phản ánh ảnh hưởng xã hội của KCN
được tập trung vào các chỉ tiêu phản ánh khả năng giải quyết việc làm của
KCN cho địa phương như là : sử dụng lao động địa phương; tỷ lệ hộ gia đình
(hoặc là số lao động) tham gia cung cấp sản phẩm - dịch vụ cho KCN nhưng
nằm ngoài KCN so với tổng số hộ của địa phương (hoặc so với tổng lao động
địa phương); cơ cấu lao động địa phương.
Thứ ba, tiêu chí về môi trường
Quá trình phát triển KCN phải gắn liền với vấn đề bảo đảm và nâng cao
chất lượng môi trường của địa bàn có KCN. Đánh giá việc bảo đảm môi
trường trong và ngoài hàng rào KCN phải dựa theo những tiêu chuẩn Việt
Nam hiện hành: mức độ ô nhiễm không khí, mức độ ô nhiễm nguồn nước,
mức độ ô nhiễm tiếng ồn và mức độ ô nhiễm rác thải. Tuy vậy, các tiêu chí
đánh giá về môi trường KCN, cần được hướng vào ba yếu tố thường được
nhấn mạnh trong các văn bản chiến lược bảo bệ môi trường, luật bảo vệ môi


23
trường và nghị quyết Bộ Chính trị về môi trường, đó là: khả năng duy trì vấn
đề đa dạng hóa sinh học; tiết kiệm tài nguyên; chống ô nhiễm môi trường
Những tiêu chí nêu trên là thực sự cần thiết cho việc đánh giá toàn diện sự
phát triển bền vững các KCN. Tuy vậy, cần có quan điểm lịch sử, cụ thể trong
nghiên cứu và đánh giá theo những tiêu chí nói trên, mục đích là vận dụng những
tiêu chí này phù hợp với từng giai đoạn xem xét, phù hợp với những yêu cầu khác
nhau của các KCN khác nhau, ở những địa phương, khu vực khác nhau.
1.2. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
1.2.1. Tổng quan chung về các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương
Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, phía đông giáp Đồng

Nai, phía nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía tây giáp tỉnh Tây Ninh và
thành phố Hồ Chí Minh, phía bắc giáp tỉnh Bình Phước, là tỉnh nằm trong
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cửa ngõ thông thương giữa các trung tâm
công nghiệp, đô thị lớn với các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Nam Tây
Nguyên. Bình Dương là trung tâm của các đầu mối giao thông huyết mạch, có
khả năng tiếp nhận các cơ sở công nghiệp từ đô thị chuyển ra đồng thời là
vành đai cung cấp hàng hóa cho các vùng đô thị đó. Với diện tích tự nhiên
269.522 ha (chiếm 0,83% diện tích cả nước), dân số 1.550.000 người, hệ
thống giao thông được phân bổ đều và thuận tiện, với trục lộ giao thông huyết
mạch của quốc gia quan trọng như quốc lộ 1A, 13, 14, tuyến đường sắt Bắc
Nam và tuyến đường xuyên Á. Hệ thống sông tạo thành mạng lưới giao thông
đường thủy thuận tiện như Sông Bé, Ðồng Nai, Sài Gòn và Thị Tính, đồng thời
đã và đang được khai thác để dùng cho thuỷ điện Trị An và hồ thuỷ lợi Dầu
Tiếng.
Năm 1997 Bình Dương được tách ra từ tỉnh Sông Bé, từ khi được tái
lập, tỉnh đã nhanh chóng kế thừa những kết quả về phát triển KCN của tỉnh
Sông Bé để lại. Đảng bộ, Chính quyền, nhân dân tỉnh Bình Dương kiên trì


24
thực hiện đường lối CNH, HĐH, đặc biệt là quá trình xây dựng và phát triển
các KCN để tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư làm bước khởi đầu cho
quá trình CNH, HĐH của tỉnh. Với lợi thế là một tỉnh nằm cạnh Thành phố
Hồ Chí Minh trung tâm công nghiệp, có cảng lớn, có sân bay quốc tế, hệ
thống giao thông thủy bộ thuận lợi là đầu mối quan trọng cho hàng hóa của
các KCN tỉnh Bình Dương lưu thông ra nước ngoài và các tỉnh thành phố
khác trong cả nước. Bên cạnh đó, Bình Dương là địa bàn có điều kiện thổ
nhưỡng đất đai thuận lợi cho việc xây dựng các công trình kiến trúc, kết cấu
hạ tầng KCN. Đảng bộ, Chính quyền các cấp và nhân dân tỉnh Bình Dương
quyết tâm triển khai phát triển các KCN, lấy đó làm cơ sở cho quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, rút ngắn quá trình CNH,
HĐH trên địa bàn tỉnh so với các địa phương khác trong cả nước.
Trên lĩnh vực kinh tế, trong 5 năm giai đoạn (2006 – 2010) tổng sản phẩm
(GDP) tăng bình quân hàng năm 14% gấp đôi so với mức tăng bình quân cả
nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng với tỷ trọng: năm 2010 công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp tương ứng là 63% - 32,6% - 4,4%. Nếu so với
thời điểm 2005, thì dịch vụ tăng 4,5%, công nghiệp giảm 0,5% và nông nghiệp
giảm 4,4%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 30,1 triệu đồng. Hàng năm giá trị
sản xuất công nghiệp tăng bình quân 20%; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân
22,9% /năm và đạt 8,5 tỉ USD (khu vực kinh tế trong nước chiếm 36%, khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 64%). Tỉnh phát triển thêm 13 KCN,
thành 28 khu, nâng tổng diện tích các KCN lên 8.751 ha, hiện có 24 khu đi vào
hoạt động với trên 1.200 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang sản xuất kinh
doanh. Tổng thu ngân sách tăng bình quân 24,3%/năm. Toàn tỉnh hiện có 1.922
dự án FDI với vốn hơn 13 tỉ USD, góp phần làm cho tỉnh đạt thứ hạng cao về chỉ
số năng lực cạnh tranh so với các tỉnh thành khác [24, tr.65].


25
Cùng với những lợi thế mà Bình Dương có được so với các tỉnh thành phố
khác, việc phát triển các KCN ở Bình Dương còn gặp những khó khăn đó là:
Thứ nhất, Bình Dương chưa có được những kinh nghiệm trong việc
thành lập các KCN so với thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, bởi vậy công tác
kêu gọi đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài còn hạn chế.
Thứ hai, Bình Dương không có thế mạnh về đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật, thiếu những công nhân lành nghề và có kỹ thuật cao, mà chủ yếu là
những lao động xuất thân từ nông nghiệp, trình độ tay nghề thấp.
Thứ ba, Bình Dương là một tỉnh có dân số thấp, việc cung ứng lao động
cho các KCN trong tỉnh gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, nền kinh tế của Bình Dương nói chung và các KCN của tỉnh nói

riêng so với cả nước trong những năm qua chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, vì vậy, quá trình phục hồi và phát triển cần có lộ trình
và thời gian nhất định.
Mục tiêu tổng quát phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015, do Đại hội đại
biểu Đảng bộ Tỉnh khóa IX xác định là: “Nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh gắn với
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện
trên các lĩnh vực, tập trung phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng ưu tiên phát triển dịch
vụ - công nghiệp gắn với quá trình đô thị hóa, đầu tư hợp lý để phát triển nông
nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng nông thôn mới. Nâng cao
hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, thực hiện tốt cải cách hành chính,
tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư. Cải thiện và không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ
môi trường. Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh, trật tự


26
an toàn xã hội. Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng KT-XH làm động lực cho phát
triển, sớm đưa Tỉnh thành đô thị văn minh, hiện đại” [24, tr.96, 97].
Với những điều kiện thuận lợi và khó khăn đó, vấn đề đặt ra cho Bình
Dương là làm thế nào để đẩy nhanh tiến độ đầu tư phát triển và phát triển bền
vững KCN. Đây là vấn đề mà Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương luôn quan
tâm và trăn trở. Phát triển bền vững KCN là một yêu cầu bức xúc trong tiến trình
thực hiện CNH, HĐH của tỉnh. Chính vì điều đó, trong nghị quyết của Đảng bộ
tỉnh, Nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh và chương trình công tác của UBND,
luôn quán triệt nhất quán phương châm “trải chiếu hoa để mời gọi các nhà đầu tư,
trải thảm đỏ để đón những nhà trí thức”. Đây là cơ hội, là điều kiện cần thiết để
phát triển và phát triển bền vững các KCN ở Bình Dương trong thời gian tới.
1.2.2. Đánh giá tính chất bền vững trong sự phát triển các KCN ở Bình Dương

* Đánh giá tính chất bền vững nội tại ở các KCN Bình Dương
Hiệu quả hoạt động của các DN trong KCN [Phụ lục 02].
Năm 1995, KCN Sóng Thần I đi vào hoạt động, là KCN đầu tiên của
tỉnh. Từ đó đến nay các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương không ngừng phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Bình Dương hiện có 24 KCN thuộc diện
tỉnh quản lý ( KCN Việt Nam - Singapore 1,2 do Chính phủ trực tiếp quản lý).
Các DN trong KCN đã đóng góp lớn vào quá trình phát triển và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của địa phương. Theo thống kê của BQL các KCN Bình Dương
năm 2010 các KCN Bình Dương có 1.086 dự án còn hiệu lực, bao gồm 746 dự
án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký 4,86 tỉ USD và 343 dự
án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 18.328 tỉ đồng [8, tr.2].
Doanh thu của các DN trong KCN tăng rất nhanh, năm 2006 là 2,17 tỉ USD thì
đến năm 2010 là 4,54 tỉ USD, dự kiến năm 2011 sẽ là 5 tỉ USD.
Xuất khẩu của các DN trong KCN ngày một tăng, đỉnh cao nhất trong gia
tăng xuất khẩu là năm 2006 tăng 61,22 % so với năm 2005, đạt 138,8 % so với


×