Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TỔNG QUAN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.9 KB, 26 trang )

TỔNG QUAN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 LỢI NHUẬN VÀ Ý NGHĨA CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1 Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
a- Doanh nghiệp
Nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đang tiếp tục đổi mới cơ chế
chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động mang lại
hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu
doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận và phát triển.
Ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động. Có thể phân loại
doanh nghiệp căn cứ vào ngành nghề, hình thức sở hữu. Dựa vào hình thức sở hữu,
các doanh nghiệp được chia thành:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp Nhà nước: Theo Điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước “Doanh
nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức
quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao cho. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách
pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”. Doanh nghiệp
Nhà nước hoạt động kinh doanh là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là Doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính
sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.


Công ty (Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần): là doanh nghiệp trong
đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp của mình và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi phần góp của mình.
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do
hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc
là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh
nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước
ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
b - Hoạt động của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả năng
nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao thu
nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, góp
phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Để sản
xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên nhiên liệu, các
bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và
ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có mối quan hệ tương hỗ
với các thành viên khác trong nền kinh tế.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu giải quyết các vấn đề ssau đây:
- Chiến lược đầu tư:
- Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh;
- Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo trạng thái cân

bằng tài chính.
- Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định thu chi cho phù
hợp.
Các hoạt động trên nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản xuất kinh
doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển.
c- Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước chiếm địa vị thống trị trên hầu hết các
lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong điều
kiện được bao cấp của Nhà nước như:
- Mua vật tư theo giá hạ;
- Được cấp vốn, trang bị máy móc thiết bị và vay vốn theo lãi suất thấp;
- Được trả lương không đầy đủ cho người lao động, phần còn lại được Nhà
nước bao cấp ngoài lương;
- Được bao tiêu sản phẩm…
Do vậy, trên sổ sách lợi nhuận và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước
có thể có hoặc có thể rất lớn. Nhưng nếu tính đủ chi phí như tính đủ nguyên giá tài
sản cố định và khấu hao tài sản đủ tỷ lệ quy định; Tính đủ giá nguyên vật liệu,
động lực, ngoại tệ nhập khẩu; Tính đủ tiền lương không bao cấp bằng hiện vật
bằng bù lỗ bên ngoài của Ngân sách Nhà nước thì thực chất đó là lãi giả, lỗ thật.
Ngược lại, cũng có trường hợp đơn vị được Nhà nước bù lỗ, song trên thực tế thì
có lãi vì việc bù lỗ không căn cứ vào hoạt động xác thực của doanh nghiệp mà căn
cứ vào định mức được duyệt.
Thực hiện đường lối cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đổi mới cơ chế, chính
sách, tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện để các doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu qủa. Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế Nhà nước, phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
nhiều thành phần. Đó là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong sự
nghiệp đổi mới kinh tế đất nước theo quy định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ cuối năm 1994 Nhà nước tiếp tục đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, các

doanh nghiệp Nhà nước đã tổ chức, sắp xếp lại theo quy mô lớn trên cơ sở tập
trung để tạo tiền đề tích tụ trong hoạt động kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ đã
thành lập 17 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh
lớn theo Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là
Tổng công ty 91) và uỷ quyền cho các Bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quyết định thành lập 76 Tổng công ty Nhà nước hoạt động
theo mô hình Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt
là Tổng công ty 90).
Các Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90 được thành lập đã nắm trọn các ngành
kinh tế kỹ thuật trọng yếu của quốc gia như: hàng không, hàng hải, bưu chính viễn
thông, xi măng, sắt thép, xăng dầu, than, điện…Sau khi được sắp xếp lại, hiệu quả
hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước đã từng bước được nâng lên rõ rệt. Tuy
nhiên đối với những Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh kém hiệu quả,
Nhà nước xét thấy thực sự không cần phải giữ lại thì thực hiện cổ phần hoá, bán
đấu giá, khoán, cho thuê hoặc giải thể.
1.1.2- Lợi nhuận và nguồn hình thành lợi nhuận
1.1.2.1- Lợi nhuận
a. Các quan điểm về lợi nhuận :
Từ trước tới nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Ta có thể
thấy được điều này qua các quan điểm về lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận của doanh nghiệp: là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ với chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán
thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường
do quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định.
+ Lợi nhuận: là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động SXKD, là chỉ tiêu
chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu qủa kinh tế các hoạt động SXKD của doanh
nghiệp.
+ Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ
trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất (chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền
thuê nhà cửa, tiền mua vật tư ... ) thuế hàng hoá và các thứ thuế khác hầu như

còn lại được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua biểu sau :
Biểu 1 : Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận.

Doanh thu bán hàng và dịch vụ
Lãi gộp
Chi phí biến
đổi
Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế
Tổng chi phí sản xuất Thuế
Lợi nhuận
thuần túy
b- Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp :
Trong doanh nghiệp, có nhiều loại hình lợi nhuận khác nhau, ta có thể khái
quát thành các loại lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận trước thuế.
+ Lợi nhuận sau thuế.
1.1.2.2- Các nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp :
Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong
phú và đa dạng, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Thứ nhất: Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là
khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm
hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính phụ của doanh
nghiệp.
Thứ hai : Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liên kết là số chênh lệch giữa
thu nhập phân chia từ kết qủa hoạt động liên doanh liên kết với chi phí của
doanh nghiệp đã chi ra để tham gia liên doanh.
Thứ ba: Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính là chênh lệch giữa các
khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ tư : Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác mang lại là lợi
nhuận thu được do kết quả của hoạt động kinh tế khác ngoài các hoạt động kinh
tế trên.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất
kỳ một doanh nghiệp nào. Vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế
thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là
doanh nghiệp đó phải tạo ra lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong
những đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động
của doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc.
Lợi nhuận của quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu qủa của qúa trình kinh
doanh, của tất cả các mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh ấy, nó phản ánh
cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, của hoạt động kinh
doanh. Công việc kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận nhiều từ đó lợi nhuận có
khả năng tiếp tục quá trình kinh doanh có chất lượng và hiệu quả hơn. Trong
trường hợp ngược lại doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ nếu
kéo dài có thể dẫn đến phá sản.
1.2- PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN VÀ PHÂN PHỐI LỢI
NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1- Các phương pháp xác định lợi nhuận của Doanh nghiệp
Như ta đã biết lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng của các
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào tổng mức tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá và chi phí đã chi ra để đạt được kết quả đó.
Ta có thể xác định được lợi nhuận theo công thức sau:
Tổng lợi
nhuận
trước
thuế

=
Tổng
doanh
thu
-
Tổng chi phí sản
xuất kinh doanh
Hay :
Tổng lợi
nhuận
trước
thuế
=
Tổng
doanh
thu
-
Chi phí
cố định
+

Chi
phí
biến
đổi
- Tổng doanh thu: là tổng số tiền thu được về bán hàng hoá và dịch vụ.
- Chi phí cố định: là những khoản chi phí không thay đổi theo khối lượng công
việc hoàn thành, không thay đổi khi sản lượng thay đổi như khấu hao tài sản cố
định, tiền thuê đất, máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, tiền lương, bảo
hiểm xã hội của cán bộ công nhân viên (lao động gián tiếp trong doanh nghiệp ).

- Chi phí biến đổi: là những chi phí tăng hoặc giảm cùng với sự tăng hoặc giảm
của sản lượng như tiền mua nguyên vật liệu, tiền lương công nhân trực tiếp sản
xuất. Chi phí biến đổi nói chung tỷ lệ với khối lượng hàng hoá sản xuất hay mua
vào để bán.
Tổng lợi
nhuận sau
thuế
=

Tổng
doanh
thu
-
Tổng chi phí
sản xuất kinh
doanh
+

Chi
phí
biến
đổi
Các khoản thuế phải nộp bao gồm :
- Thuế doanh thu = Tổng doanh thu x tỷ lệ thuế doanh thu phải nộp
- Thuế tài
nguyên (nếu
có)
=

Giá thành khối

lượng sản phẩm
x
Tỷ lệ thuế tài
nguyên
phải nộp
- Thuế xuất
nhập khẩu
(nếu có)
=
Doanh thu xuất
nhập khẩu
x
Tỷ lệ thuế
xuất nhập khẩu
- Thuế vốn =
Vốn sản xuất do
ngân sách nhà
nước cấp
x
Tỷ lệ thuế
vốn phải nộp
Ngoài ra doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận từ các hoạt động kinh
doanh khác không mang tính chất tiêu thụ hàng hoá.
Lợi nhuận từ các
hoạt động kinh
= Tổng thu
nhập
- Tổng chi phí
bỏ ra
doanh khác

Như vậy ta có thể xác định tổng lợi nhuận của doanh nghiệp như sau :
Tổng lợi nhuận
của doanh
nghiệp
=
Tổng lợi nhuận
từ sản xuất
kinh doanh
+
Lợi nhuận từ
hoạt động kinh
doanh khác
Khi đã tính toán được tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp ta còn phải xác
định số thuế lợi tức doanh nghiệp phải nộp.
Thuế lợi tức
phải nộp
=
Tổng số lợi
nhuận
x
Tỷ lệ thuế lợi tức
phải nộp
Số lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ đi thuế lợi tức được gọi là lợi nhuận thuần
túy của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết: Toàn bộ doanh thu, giá thành toàn bộ và thuế đều được
xác định dựa trên cơ sở khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá bán đơn vị, giá thành
đơn vị và mức thuế đơn vị sản phẩm tiêu thụ. Do đó tổng lợi nhuận tiêu thụ còn
có thể được tính theo công thức sau :
∑ln = [ ∑ (Qi x Gi ) - ( ∑ Zi + ∑Ti )]
∑ln : Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp

Qi : Sản lượng hàng hoá tiêu thụ
Gi : Giá bán hàng hoá loại i
Zi : Giá thành hàng hoá loại i
n mm
i=li=l i=l

×