Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.15 KB, 23 trang )

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH
Một doanh nghiệp dù quy mô lớn, trung bình hay nhỏ hoạt động sản xuất kinh doanh ở
bất kỳ lĩnh vực nào để tồn tại và phát triển đều phải hoạt động có hiệu quả. Để biết được thực
trạng hoạt động của doanh nghiệp, vấn đề phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh mang một
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ kết quả phân tích chính xác, các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ
có được những quyết định đúng đắn đưa doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
1.1Tổng quan về hiệu quả kinh doanh
Trong cơ chế kinh tế thị trường, mục tiêu bao trùm và lâu dài của mọi doanh nghiệp
kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu lớn nhất này, doanh nghiệp phải xác
định chính xác kinh doanh phù hợp trong từng giai đoạn thích ứng với những thay đổi của môi
trường kinh doanh, phải phân bổ và quản trị hiệu quả các nguồn lực và luôn luôn kiểm tra
đánh giá xem quá trình đang diễn ra có hiệu quả không.
1.1.1Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị trường có quan hệ
với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn, máy móc, nguyên
vật liệu... nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của
quá trình kinh doanh có hiệu quả. Khi đề cập đến hiệu quả kinh doanh nhà kinh tế dựa vào
từng góc độ xem xét để đưa ra các định nghĩa khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp để đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh cần phải trú trọng
đến điều kiện nội tại, phát huy năng lực hiệu quả của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi
phí. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải sử dụng các yếu tố đầu
vào hợp lý nhằm đạt được kết quả tối đa và chi phí tối thiểu. Tuy nhiên để hiểu rõ bản chất của
hiệu quả cũng cần phân biệt khái niệm hiệu quả và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh .
Ta có thể rút ra khái niệm về hiệu quả như sau: “ Hiệu quả là sự so sánh kết quả đầu ra
và yếu tố nguồn lực đầu vào”. Sự so sánh đó có thể là sự so sánh tương đối và so sánh tuyệt
đối.
Kết quả đầu ra thường được biểu hiện bằng GTTSL, DT, LN
Yếu tố nguồn lực đầu vào là lao động, chi phí, tài sản và nguồn vốn
Bên cạnh đó người ta cũng cho rằng “ Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế theo
chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí nguồn lực đó trong


quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh”. Hiệu quả sản xuất kinh doanh
ngày nay càng trở lên quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá
việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Hiệu quả tuyệt đối được xác định như sau:
A = K - C
Chỉ tiêu hiệu quả tương đối được xác định như sau:
C
K
A
=
Trong đó:
• A: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
• K: Kết quả kinh doanh (bằng các chỉ tiêu sau: GTTSL, Tổng DT, LN...)
• C: Nguồn lực đầu vào (bao gồm: Lao động, chi phí, vốn, thiết bị ...)
1.1.2 Phân biệt giữa kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động thiết bị máy móc, nguyên nhiên liệu
và tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu, mong muốn mà doanh nghiệp đề ra.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ tổ chức và được xác định bằng tỷ số
giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó là thước do ngày càng quan
trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao
càng có điều kiện mở mang và phát triển đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nâng cao đời sống
cho người lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước.
Ngoài ra chúng ta cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh
và kết quả kinh doanh.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là số tuyệt đối phản ánh quy mô đầu ra của hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ kinh doanh. Trong quá trình sản xuất
kinh doanh thì kết quả cần đạt được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết
quả bằng chỉ tiêu định lượng như số lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận... và cũng

có thể phản ánh bằng chỉ tiêu định tính như uy tín, chất lượng sản phẩm.
Xét về bản chất hiệu quả và kết quả khác hẳn nhau. Kết quả phản ánh quy mô còn hiệu
quả phản ánh sự so sánh giữa các khoản bỏ ra và các khoản thu về. Kết quả chỉ cho ta thấy quy
mô đạt được là lớn hay nhỏ và không phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh. Có
kết quả mới tính đến hiệu quả. Kết quả dùng để tính toán và phân tích hiệu quả trong từng kỳ
kinh doanh. Do đó kết quả và hiệu quả là hai khái niệm khác hẳn nhau nhưng có mối quan hệ
mật thiết với nhau.
1.1.3 Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh
Theo nghĩa tổng quát thì hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ quản lý, đảm
bảo thực hiện có kết quả cao về nhiệm vụ kinh tế xã hội đặt ra với chi phí nhỏ nhất.
Phạm trù kinh tế được hiểu trên hai góc độ đó là định tính và định lượng.
Về định lượng: Hiệu quả kinh tế của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế xã hội biểu
hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Nếu xét tổng hợp thì người ta chỉ
thu lại được hiệu quả kinh tế khi kết quả thu về lớn hơn chi phí bỏ ra, chênh lệch càng lớn thì
hiệu quả càng cao.
Về mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh tế thu được phản ánh trình độ năng lực quản
lý sản xuất kinh doanh.
Hai mặt định tính và định lượng của hiệu quả kinh doanh không được tách rời nhau.
Hiệu quả kinh tế không đồng nhất với kết quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là phạm trù so
sánh, thể hiện mối quan tâm giữa cái bỏ ra và cái thu về. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để
phân tích đánh giá hiệu quả tự bản thân mình, kết quả chưa thể hiện được nó tạo ra ở mức độ
nào và chi phí nào, có nghĩa riêng kết quả chưa thể hiện được chất lượng tạo ra nó.
Bản chất hiệu quả kinh tế là thể hiện mục tiêu phát triển kinh tế và các hoạt động sản
xuất kinh doanh , tức là thoả mãn tốt hơn nhu cầu của thị trường. Vì vậy nói đến hiệu quả là
nói đến mức độ thoả mãn nhu cầu với việc lựa chọn và sử dụng các nguồn lực có giới hạn tức
là nói đến kết quả kinh tế trong việc thoả mãn nhu cầu.
Tóm lại: Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất xã hội và toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh khác là một yêu cầu cơ bản nhất của mục tiêu phát triển.
1.1.4 Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả là một phạm trù lớn mang tính tổng hợp vì vậy trong việc tiếp cận, phân tích

và đánh giá chỉ tiêu này cần nhận thức rõ về tính đa dạng các chỉ tiêu hiệu quả và phân loại các
chỉ tiêu hiệu quả theo các căn cứ sau:
Căn cứ theo yêu cầu tổ chức xã hội và tổ chức quản lý kinh tế của các cấp quản lý trong
nền kinh tế quốc dân: Phân loại hiệu quả theo cấp hiệu quả của ngành nghề, tiềm lực và theo
những đơn vị kinh tế bao gồm:
• Hiệu quả kinh tế quốc dân , hiệu quả kinh tế vùng (Địa phương)
• Hiệu quả kinh tế sản xuất xã hội khác.
• Hiệu quả kinh tế khu vực phi sản xuất (Giáo dục, y tế...)
• Hiệu quả kinh tế Doanh nghiệp (Được quan tâm nhất)
Căn cứ vào nội dung và tính chất của các kết quả nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
mục tiêu, người ta phân biệt hiệu quả kinh tế và các loại hiệu quả khác.
• Hiệu quả kinh tế.
• Hiệu quả xã hội.
• Hiệu quả kinh tế - xã hội.
• Hiệu quả kinh doanh.
Trong các loại hiệu quả trên, chúng ta quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì hiệu quả
kinh doanh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cũng là đối tượng
nghiên cứu của đề tài.
Đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp lại được chia ra:
• Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
• Hiệu quả kinh doanh bộ phận.
HIệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả
kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (hay một đơn vị bộ
phận của doanh nghiệp). trong một thời kỳ xác định.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh chỉ xét ở từng lĩnh vực hoạt động
cụ thể của doanh nghiệp (sử dụng từng loại tài sản, nguyên vật liệu, hoạt động kinh doanh
chính, liên doanh liên kết ..). Nó phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực cụ thể, không phản ánh
hiệu quả của từng doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn được chia ra theo tiêu thức thời gian:
• Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn.

• Hiệu quả kinh doanh dài hạn.
Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá ở từng
khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng, quý, năm, vài năm…
Hiệu quả kinh doanh dài hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét đánh giá trong
khoảng thời gian dài gắn với các chiến lược, kê hoạch dài hạn, thậm chí người ta còn nói đến
hiệu quả kinh doanh lâu dài ngắn với quãng đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Giữa hiệu quả kinh doanh dài hạn và ngắn hạn có mối quan hệ biện chứng với nhau và
trong nhiều trường hợp còn mâu thuẫn với nhau. Đôi khi vì mục tiêu hiệu quả trong dài hạn
mà người ta có thể hy sinh hiệu quả trong ngắn hạn, chẳng hạn như xem xét đối với các tập
đoàn bán lẻ nổi tiếng trên thế giới đang thâm nhập vào thị trường Việt Nam như METRO
(Carh&Carry) và BIG C (Big Coral).
1.1.5 Sự cần thiết và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Sự cần thiết khách quan: Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường,
để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lãi. Để đạt được kết quả cao nhất
trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần xác định phương hướng mục iêu trong đầu
tư. Muốn vậy cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng của từng nhân tố
đến kết quả kinh doanh. Điều này chỉ thực hiện trên cơ sở phân tích kinh doanh.
Thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, sự tích tụ cơ bản dẫn đến sự tích tụ sản xuất, các Công ty ra
đời sản xuất phát triển cực kỳ nhanh chóng cả về quy mô lẫn hiệu quả, với sự cạnh tranh gay
gắt và khốc liệt. Để chiến thắng trong cạnh tranh, đảm bảo quản lý tốt các hoạt động của Công
ty đề ra phương án giải pháp kinh doanh có hiệu quả, nhà tư bản nhận thông tin từ nhiều
nguồn, nhiều loại và yêu cầu độ chính xác cao. Với đòi hỏi này công tác hạch toán không thể
đáp ứng được vì vậy cần phải có môn khoa học phân tích kinh tế độc lập với nội dung phương
pháp nghiên cứu phong phú.
Ngày nay với những thành tự to lớn về sự phát triển kinh tế – Văn hoá, trình độ khoa
học kỹ thuật cao thì phân tích hiệu quả càng trở lên quan trọng trong quá trình quản lý doanh
nghiệp bởi nó giúp nhà quả lý tìm ra phương án kinh doanh có hiệu quả nhất về Kinh tế0- Xã
hội – Môi trường.
Trong nền kinh tế thị trường để có chiến thắng đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường
xuyên áp dụng các tiến bộ khoa học, cải tién phương thức hoạt động, cải tiến tổ chức quản lý

sản xuất và kinh doanh nhằm nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả.
Tóm lại: Phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nhà quản lý đưa ra những
quyết định về sự thay đổi đó, đề ra những biện pháp sát thực để tăng cường hoạt động kinh tế
và quản lý doanh nghiệp nhằm huy động mọi khả năng tiềm tàng về vốn, lao động, đất đai...
vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Đối với nền kinh tế quốc dân: hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế quan trọng, phản
ánh yêu cầu quy luật tiết kiệm thời gian phản án trình độ sử dụng các nhuồn lực, trình độ sản
xuất và mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất trong cơ chế thị trường. Trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất càng hoàn thiện, càng nâng cao hiệu
quả. Tóm lại hiệu quả sản xuất kinh doanh đem lại cho quốc gia sự phân bố, sử dụng các
nguồn lực ngày càng hợp lý và đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
Đối với bản thân doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh xét về mặt tuyệt đối chính là lợi
nhuận thu được. Nó là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống cán bộ công nhân
viên. Đối với mỗi doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị
trường thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại
và sự phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra nó còn giúp doanh nghiệp cạnh tranh trên thị
trường, đầu tư, mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc sản xuất
kinh doanh.
Đối với người lao động: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là động lực thúc đẩy kích tích
người lao động hăng say sản xuất, luôn quan tâm đến kết quả lao động của mình. Nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống lao động thúc đẩy tăng
năng suất lao động và góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
Để đánh giá tổng quát về hiệu quả hoạt động kinh doanh, người ta thường sử dụng chỉ
tiêu doanh lợi. Các chỉ tiêu này phản ánh mức lời của doanh nghiệp. Ngoài ra còn sử dụng
nhiều chỉ tiêu khác để phản ánh hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp.
1.2.1 Nhóm các chỉ tiêu hiệu quả tổng quát
1.2.1.1 Hiệu quả sử dụng tổng tài sản

Sức sản xuất của tổng tài sản:
SXX
TS
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng tài sản bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì thu được bao nhiêu
đồng doanh thu thuần.
Sức sinh lợi của tổng tài sản (ROA):
SSL
TS
=
Lợi nhuận
= ROA
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng tài sản bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
1.2.1.2 Hiệu quả sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu
Sức sản xuất của nguồn vốn chủ sở hữu
SSX
VCSH
=
Doanh thu thuần
= ROE
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra kinh doanh thì đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu.
Sức sinh lợi của nguồn vốn chủ sở hữu (ROE):
SSL
VCSH

=
Lợi nhuận sau thuế
= ROE
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra kinh doanh thì đem lại bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
1.2.1.3 Hiệu quả sử dụng chi phí
Sức sản xuất của chi phí:
SXX
CP
=
Doanh thu thuần
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng chi phí bỏ ra trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh
thu.
Sức sinh lợi của chi phí:
SSL
CP
=
Lợi nhuận
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng chi phí bỏ ra trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.2.2 Nhóm các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận
1.2.2.1. Hiệu quả sử dụng lao động
Sức sản xuất của lao động bình quân::

×