Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.61 KB, 42 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH.
1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD)
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD:
Đề cập đến kinh tế ngoài quốc doanh, Nghị quyết Đại hội trung ương Đảng
lần thứ V đã công nhận, trong hơn 10 năm thuộc thời kì đổi mới, khu vực kinh tế
tư nhân (kinh tế NQD) bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở hữu cá
nhân, kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới các loại hình khác nhau như công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH),..., kinh tế hộ gia đình, đã có những
bước phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp trên cả nước. Kinh tế NQD đã đóng góp
to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, thông qua việc huy động tối đa các
nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, cải thiện mức sống của người dân, đóng góp vào ngân sách nhà nước, góp
phần đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội trong nước và nhiều mặt tích cực khác.
Như vậy rõ ràng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là một
chiến lược quan trọng lâu dài, phù hợp với qui luật vận động của nền kinh tế và
nằm trong tổng thể các chiến lược chung của đất nước trong thời kì đổi mới.
Nhưng vấn đề chính chúng ta cần thảo luận trong phần này chính là khái niệm về
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị hay
tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền sở hữu
này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn vốn hoạt
động cho đơn vị kinh tế đó và được pháp luật thừa nhận. Điều này khác cơ bản với
các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước (DNNN), khi mà nguồn
vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà nước cấp, nghĩa là từ sự đóng
góp của toàn dân(nguồn thu từ thuế). Tuy nhiên, DNNQD không bao gồm tất cả
các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước. Trong nền kinh tế mở, các quốc
gia có sự thông thương nhất định, các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên
doanh được thành lập, nhưng rõ ràng là không nên xếp chúng vào doanh nghiệp
NQD. Thứ nhất, vì chúng không có tính đồng nhất về mặt sở hữu, một doanh
nghiệp liên doanh có thể là sự liên doanh giữa hai công dân thuộc hai nước khác


nhau, liên doanh giữa hai tổ chức hay liên doanh giữa hai chính phủ, còn doanh
nghiệp nước ngoài thì càng không thể khẳng định nó thuộc sở hữu nhà nước hay tư
nhân. Thứ hai, tính chất hoạt động và các ảnh hưởng của doanh nghiệp nước ngoài
khác so với các doanh nghiệp trong nước, chúng vận hành theo một bộ luật riêng
thường là luật đầu tư nước ngoài và ảnh hưởng lên một số khía cạnh đặc thù trong
nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, tài trợ xuất nhập khẩu v.v Vì
vậy, ở đây chúng ta không xếp các doanh nghiệp nước ngoài như một bộ phận của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Như vậy, DNNQD ở nước ta hiện nay chính là các doanh nghiệp hoạt động
theo luật doanh nghiệp đó là các đơn vị kinh tế tồn tại dưới các hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh và
doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do một hay nhiều người đứng ra làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình (hữu hạn hay vô hạn) về mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Tất nhiên cũng phải kể đến các hộ kinh doanh cá thể với mức
vốn pháp định thấp hơn vốn pháp định của doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình
kinh tế hộ gia đình kinh doanh trong một số ngành nghề như nông nghiệp, thủ
công, dịch vụ và buôn bán nhỏ. Nhìn chung, bộ phận chính, quan trọng nhất trong
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là các công ty bao gồm Công ty TNHH,
Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó thành
viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp (trách nhiệm hữu
hạn). Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân số lượng thành viên không quá 50 và
không được quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở
hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp và cũng không được quyền
phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần

- Doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành cổ phần, số lượng cổ đông tối
thiểu là 3 và chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi
số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng
khoán ra công chúng.
Công ty hợp danh
- Là loại doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành
viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải là cá nhân,
có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công ty (trách
nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên lượng vốn góp của
mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành chứng khoán.
Doanh nghiệp tư nhân
- Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, khu vực kinh tế NQD hay khu vực kinh tế tư nhân còn có thể được
phân chia theo hiến pháp bao gồm các hình thức kinh tế sau:
- Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một
cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động
của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
- Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều
hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao
động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn
của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty
cổ phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật
Doanh nghiệp.
Trên đây là một số cách phân loại khác nhau về các bộ phận cấu thành nên
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở dĩ có những sự phân chia hơi khác nhau như
vậy là vì mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức, một cách tiếp cận khác nhau.

Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp NQD là các doanh
nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước, và tất nhiên là không phải các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài (như đã trình bày ở trên). Đây là một bộ phận không thể
thiếu trong nền kinh tế thị trường, một phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta. Phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhiệm vụ quan
trọng để đi đến thắng lợi cuối cùng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế:
Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh
tế, tất nhiên trừ một số ít lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền để kiểm soát tình
hình an ninh quốc phòng và ổn định chính trị trong nước.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục có những đóng
góp tích cực và vô cùng quan trọng cần thiết trong công cuộc phát triển đất nước.
- Góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế chung, đổi
mới bộ mặt kinh tế xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội.
- Là lĩnh vực chính thu hút lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho người
lao động.
- Giải phóng sức lao động và huy động tối đa các nguồn lực trong dân cư
vào công cuộc phát triển kinh tế.
- Tạo môi trường cạnh tranh, nâng cao tính năng động hiệu quả cho nền kinh
tế.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mặc dù có những vai trò tích cực và quan trọng như đã kể trên, nhưng trong
quá khứ và ngay cả hiện tại vẫn có những quan điểm không thống nhất về những
đóng góp của khu vực kinh tế NQD. Nhiều quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân gắn
liền với bóc lột, là nguyên nhân của sự phân hoá giàu nghèo, vì vậy phải cải tạo,
thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Tuy nhiên, một nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền
điều hành nền kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ
chênh lệch về thu nhập cũng như sự bóc lột sức lao động. Cần phải quán triệt khu
vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với

kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa tư bản khác nhau về căn bản. Vì thế sẽ là không
thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư nhân hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ
nghĩa tư bản và là đối tượng phải cải tạo của CNXH. Ngược lại, các hình thức kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đóng góp quan trọng
lâu dài vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Vấn đề chính
yếu là để phát huy được hết tính tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến
trình phát triển chung của đất nước, nhà nước phải có những định hướng đúng đắn,
nhất quán và những chính sách, đường lối chỉ đạo phù hợp mà cơ chế quản lý tài
chính, vấn đề được nghiên cứu ở đây chính là một bộ phận không thể thiếu.
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD:
a) Đặc điểm :
- Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu đều là
vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh nghiệp tư
nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty hợp danh, Công ty
cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội chủ nghĩa như ở nước ta,
nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả năng tài chính hạn hẹp, chưa phát
huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ lẻ, sự vụ, thiếu những định hướng
chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn định, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực
công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, hàng thủ công. Sau đó là trình độ khoa
học kĩ thuật lạc hậu, đây là một trong những thiệt thòi của doanh nghiệp tư nhân so
với doanh nghiệp nhà nước. Trong khi doanh nghiệp nhà nước được cung cấp thiết
bị công nghệ tiên tiến, do nguồn vốn lớn từ ngân sách và tài trợ nước ngoài thì các
doanh nghiệp tư nhân sử dụng công nghệ lạc hậu hơn, có một số máy móc đã quá
cũ kĩ, hết thời gian sử dụng, thậm chí có một số là do doanh nghiệp nhà nước
thanh lý. Tiếp theo phải nói đến trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập trong
khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân thường có kiến thức và khả
năng kinh doanh rất hạn chế, những hiểu biết về khoa học kinh tế hay nghiệp vụ
kinh doanh rất sơ sài, bên cạnh đó là nhận thức và kiến thức về pháp luật, thông tin
thị trường ngay trong nước chứ chưa nói đến quốc tế còn nhiều thiếu sót và yếu
kém. Tất nhiên, tình trạng trên cũng một phần là do các nguyên nhân khách quan

mang lại, đó là chiến tranh, thời kỳ bị bao vây cấm vận, thời kì thực hiện nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và một số điều kiện kinh tế xã hội
khác. Và cũng không phải toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân đều lâm vào tình cảnh
trên, không thiếu những doanh nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả cao, vươn lên là
những điển hình tiêu biểu là tấm gương để các doanh nghiệp khác noi theo phấn
đấu. Trình độ phát triển yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân như trên chính là
một giai đoạn mà nhiều nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang phát triển như nước ta
vẫn thường trải qua. Và việc thiết lập một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn cho khu
vực kinh tế này chính là một phương cách để rút ngắn thời gian, đẩy nhanh quá
trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Đặc điểm thứ hai cần nhắc đến ở đây là do doanh nghiệp tư nhân là thuộc
sở hữu tư nhân, không phải sở hữu nhà nước, quyền sở hữu này được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ. Cá nhân hay nhóm cá nhân được quyền tổ chức hoạt động
cho doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình, và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách
nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp theo những gì pháp luật quy định. Cũng
chính vì thế mà doanh nghiệp tư nhân không chịu sự điều tiết một cách trực tiếp
theo cơ chế mệnh lệnh hành chính của nhà nước. Nhà nước không thể can thiệp
quá trực tiếp hay thô bạo đến quá trình vận hành và tổ chức hoạt động của các
DNNQD. Điều này không giống với các DNNN, và càng khác biệt rõ rệt với
những gì mà cơ chế cũ đã thể hiện. Nhưng như vậy không có nghĩa rằng nhà nước
không có vai trò gì đối với sự phát triển của DNNQD. Ngược lại, nhà nước ảnh
hưởng sâu xắc đến sự phát triển của các DNNQD trên mọi phương diện thông qua
các chính sách, định hướng và đường lối chỉ đạo, thông qua hệ thống pháp luật mà
cơ chế quản lý tài chính cũng là một bộ phận trong đó. Đây cũng chính là đặc điểm
cần hết sức lưu ý khi nghiên cứu để thiết lập một cơ chế quản lý tài chính DNNQD
b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai:
Xét về mặt định lượng, cơ cấu nền kinh tế theo các khu vực kinh tế đang
thay đổi và chắc chắn sẽ còn thay đổi mạnh.
Số liệu của Tổng cục thống kê về các "thành phần kinh tế" (không tính lĩnh
vực nông nghiệp) cho thấy tình hình như sau:


Các khu vực sở hữu
Đơn vị 1992 1994 1995 1996
Số cơ sở Cơ sở 1514615 1558627 2078125 224558
DNNN " 7060 6264 5873 5790
DN tập thể " 3231 2275 1867 1760
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
" 515 1054 1399 1648
DNNQD " 5158 15893 18727 21360
Cá thể 1000
cơ sở
1498,6 1533,1 2050,2 2215
Lao động
1000
người
4706,5 5453,4 6368,5 6903,2
DNNN % 38,7 30,3 28,3 26,7
DN tập thể % 3,0 2,5 1,6 1,4
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
% 1,1 1,8 2,3 3,0
DNNQD
(cả Cá thể)
% 57,2 65,4 67,8 68,8
Nguồn: Tổng cục thống kê:"Báo cáo phân tích thực trạng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước và tư
bản tư nhân sau 10 năm đổi mới", tháng 6-1997
Theo các số liệu trên, năm 1996 so với khu vực nhà nước thì khu vực tư
nhân mới là nơi chủ yếu thu hút lao động xã hội.. Theo các số liệu mới nhất cho
thấy trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 1998 (tính theo giá hiện hành),

kinh tế nhà nước chiếm 40%, kinh tế tư nhân chiếm 38%, khu vực sở hữu hỗn hợp
chiếm 22%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 10%, kinh tế
tập thể và liên doanh trong nước chiếm 12%. Thêm nữa, tốc độ tăng trưởng trong
mấy năm gần đây của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực kinh tế nhà
nước, nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, do phần lớn các
cơ sở kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, trang thiết bị giản đơn, phần nhiều là lao
động thủ công, nên khu vực kinh tế tư nhân có năng suất lao động thấp. Trong
tương lai, nếu được khuyến khích phát triển đúng mức, khu vực kinh tế tư nhân
chắc chắn sẽ có năng suất lao động cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong
và ngoài nước. Nếu tính rằng năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân và
kinh tế nhà nước xấp xỉ như nhau, thì với cơ cấu lao động như hiện tại (20% trong
khu vực kinh tế nhà nước, còn lại 80% trong khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp),
cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân tương ứng là 20% khu vực kinh tế nhà nước và
80% khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp. Tất nhiên những giả định hay con số nêu
trên là không hoàn toàn hợp lý, nhưng đó cũng là những cơ sở nhất định để khẳng
định vai trò vị trí ngày càng quan trọng cũng như những triển vọng phát triển ngày
một lớn của khu vực kinh tế tư nhân.
1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD:
1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính:
Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiểu một cách chung nhất là tổng thể
các hình thức và phương pháp tác động lên hoạt động tài chính của doanh nghiệp,
nhờ đó mọi nguồn lực của doanh nghiệp (Vốn, lao động, tài nguyên) được kết hợp
chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh giúp cho doanh nghiệp phát triển tốt nhất,
thực hiện được các mục tiêu của riêng doanh nghiệp cũng như mang lại lợi ích
chung và thực hiện các mục tiêu chung của xã hội.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm
các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc sự biểu
hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các mối quan hệ đó là
những quan hệ về giá cả được biểu hiện dưới các sắc thái khác nhau. Hình thức
biểu hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là hết sức đa dạng và linh

động, phụ thuộc nhiều yếu tố. Cũng chính vì thế, cơ chế quản lý tài chính doanh
nghiệp nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ cũng bao hàm rất nhiều thành tố. Tât cả những
vấn đề như : Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và phương pháp quản lý vận
hành doanh nghiệp đều nằm trong một khái niệm đó là Cơ chế quản lý tài chính
doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta có thể tách cơ chế quản lý tài chính
doanh nghiệp thành hai phần cơ bản, dựa trên hai giác độ tiếp cận khác nhau đối
với việc quản lý tài chính doanh nghiệp đó là giác độ quản lý nhà nước và giác độ
quản lý trong doanh nghiệp.
Trên giác độ quản lý nhà nước, người ta đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề
đầu tiên đó là Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Xây dựng pháp luật về tài
chính và tổ chức thực hiện nó chính là nhà nước đã tạo ra một môi trường chính
thức, bình đẳng và công khai cho các doanh nghiệp hoạt động. Thông qua đó, nhà
nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên các hoạt động tài chính của tất cả
các doanh nghiệp nói chung hay một hoặc một nhóm các doanh nghiệp nói riêng.
Với những điều chỉnh thích hợp về pháp luật trong từng thời kì, từng hoàn cảnh
điều kiện nhất định, nhà nước có thể tạo nên những thay đổi rất căn bản trong cơ
chế quản lý tài chính doanh nghiệp hướng đến những mục tiêu: đảm bảo các
doanh nghiệp phát triển đúng hướng, nâng cao hiệu quả và đóng góp của các doanh
nghiệp đối với đất nước, tạo điều kiện phát triển và hạn chế những tiêu cực trong
quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế. Và xét cho cùng, nhà nước là thể chế duy
nhất thực hiện chức năng quản lý đất nước bằng pháp luật, pháp luật chính là công
cụ vô cùng hữu hiệu mà chỉ nhà nước mới có và dùng được.
Trên giác độ doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện chức năng quản lý
tài chính của mình thông qua việc ra các quyết định tài chính như huy động vốn,
quản lý thu chi, đầu tư v.v Trong đó mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hoá nguồn
vốn chủ sở hữu. và tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để thực hiện được các
mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp có thể có những cách làm khác nhau, một chiến
lược riêng, một phương pháp quản lý và hoạt động riêng biệt. Công tác quản lý tài
chính trên giác độ này do đó rất đa dạng, linh hoạt phụ thuộc vào những đặc điểm
riêng của từng doanh nghiệp.

Tuy nhiên, chúng ta phải luôn khẳng định rằng, giữa việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và quản lý trong mỗi doanh nghiệp có mỗi quan hệ tương
hỗ vô cùng mật thiết và chặt chẽ. Một doanh nghiệp nói riêng và cả khu vực kinh
tế nói chung chỉ có thể phát triển tốt, thực hiện được các mục tiêu do doanh nghiệp
và do xã hội đề ra khi và chỉ khi chúng được hoạt động trong một môi trường pháp
luật lành mạnh và phù hợp, cũng như doanh nghiệp có những định hướng phát
triển và phương pháp quản lý đúng đắn. Pháp luật có những ảnh hưởng quyết định
lên việc ra quyết định của mỗi người đứng đầu doanh nghiệp và ngược lại những
quyết định của người đứng đầu trong doanh nghiệp phản ảnh những nhu cầu những
thay đổi thích nghi trong từng thời kì của nền kinh tế và qua đó tác động trở lại đối
với người hoạch định chính sách, xây dựng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp
cấp nhà nước. Đâu là mối quan hệ hai chiều biện chứng tác động qua lại với nhau
rất chặt chẽ.
1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp
NQD:
Trên giác độ quản lý nhà nước, một cơ chế quản lý tài chính đối với các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng được hình
thành thông qua việc quy định và quản lý các mặt sau:
+ Sự thành lập và đăng kí kinh doanh
+ Quản lý vốn và tài sản
+ Quản lý doanh thu chí phí
+ Quản lý lợi nhuận và phân phối lợi nhuận
+ Chế độ kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính
1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh:
Việc thực hiện quản lý sự thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các
doanh nghiệp là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với mọi hoạt động của doanh
nghiệp đó. Thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, nhà nước có thể quy định và
điều chỉnh những ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động mà doanh nghiệp có
thể hoạt động. Khuyến khích những ngành nghề có lợi cho sự phát triển chung của
đất nước, hay hạn chế những ngành nghề chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện

tại của đất nước. Do đó, những quy định về cấp giấy phép kinh doanh cho doanh
nghiệp cần được quy định thành pháp luật, trong đó có những điều khoản nhất định
về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi đã được pháp luật thừa nhận. Vấn đề
đáng lưu ý khi xây dựng một cơ chế cho việc thành lập doanh nghiệp là tình hình
phát triển của khu vực kinh tế đó, nhu cầu của đất nước, triển vọng phát triển và
trình độ quản lý hiện tại của nhà nước đối với nền kinh tế.
1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản:
Vốn và tài sản là hai mặt chính yếu và quan trọng nhất trong sự tồn tại của
bất cứ một doanh nghiệp nào, đây là hai mặt của một quá trình thống nhất không
thể tách rời. Vốn là nguồn lực cho mọi hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp
chỉ có thể tồn tại và hoạt động được khi có vốn. Phía bên kia, tài sản lại chính là sự
biểu hiện hình thái và hiện trạng của vốn được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD:
Cơ chế quản lý vốn đối với doanh nghiệp NQD chính là việc xác định và
điều chỉnh các hình thức huy động vốn và cơ cấu vốn trong doanh nghiệp. Xét một
cách tổng thể trong DNNQD có thể có những hình thức vốn sau:
a) Nguồn vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tư nhân bao
gồm các bộ phận sau:
Vốn góp ban đầu
Lợi nhuận không chia
Phát hành cổ phiếu
+ Vốn góp ban đầu:
Đây là loại vốn được hình thành tại thời điểm đầu tiên khi doanh nghiệp được
thành lập. Khi nói đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem
xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất
và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đăng kí thủ tục
thành lập và xin cấp giấy phép kinh doanh, bao giờ cũng phải có một lương vốn tối
thiểu theo quy định của pháp luật đó là vốn pháp định. Ngoài ra, doanh nghiệp
hoàn toàn có thể có một luợng vốn lớn hơn vốn pháp định mà những chủ sở hữu

trong công ty tự thoả thuận về số lượng và tỉ lệ góp vốn, đây là vốn điều lệ. Vốn
điều lệ nhìn chung là do tự những người sáng lập nên công ty thoả thuận với nhau
miễn là không nhỏ hơn vốn pháp định, tất nhiên đối với một số ngành nghề nhất
định, nhà nước cũng có những quy định riêng về lượng vốn điều lệ tối đa.
+Vốn từ lợi nhuận không chia:
Quy mô của số vốn tự có ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan
trọng, tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả, có lãi thì nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ được
mở rộng, đó là do nguồn vốn từ việc giữ lại lãi trong kinh doanh. Số lợi nhuận giữ
lại để tái đầu tư sẽ làm tăng thêm nguồn vốn của chủ sở hữu, tăng khả năng tài
chính của doanh nghiệp, được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Quy mô và tỷ lệ
vốn giữ lại từ lợi nhuận phụ thuộc vào tình hình kinh doanh, kết quả hoạt động của
thời kỳ đã qua và quyết định của chủ doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài chính
và khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm bớt được chi phí,
giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu
tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại
đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Tuy nhiên, nên lưu ý với trường hợp các công ty cổ phần, việc giữ lại lợi
nhuận có liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty giữ lại lợi nhuận mà
không chia cho cổ đông dưới hình thức cổ tức, thì quyền sở hữu vốn cổ phần của
các cổ đông sẽ tăng lên. Giá trị sổ sách của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc
tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ
phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kì
trước mắt, do cổ đông chỉ nhận được một lượng cổ tức nhỏ nhất định. Đấy là còn
chưa kể đến những rủi ro khi tỷ suất sinh lời của công ty giảm xuống, không đủ để
đáp ứng chi trả một tỷ lệ cổ tức phù hợp. Khi đó, giá cổ phiếu sẽ bị giảm sút hay
giá trị thị trường của công ty sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của
Công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như:

- Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
- Tỷ lệ cổ tức các năm trước
- Uy tín của cổ phiếu, tính ổn định và tâm lý công chúng trên
thị trường cổ phiếu
- Hiệu quả của việc tái đầu tư
+ Phát hành cổ phiếu:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở
hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động
tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhắc tới một số loại hình cổ
phiếu cơ bản sau:
Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế
trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường
chứng khoán. Cổ phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất là được trao đổi mua
bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng
của nó so với các công cụ tài chính khác.
Mặc dù phát hành cổ phiếu thường có nhiều ưu thế so với các phương thức
huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được cân
nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lý.
Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty được quyền phát hành là vốn cổ phiếu được cấp
phép. Đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng khoán nhằm quản lý và
kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều
nước, số cổ phiếu được phép phát hành được ghi trong điều lệ của công ty. Muốn
tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải
hoàn tất các thủ tục quy định khác.
Hầu hết, các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan
trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thường, một Công
ty có thể phát hành số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng
khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của Nhà nước và Uỷ ban chứng khoán nhà

nước. Ví dụ như ở nước ta hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán
mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo điều kiện tốt hơn cho
hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ các công ty hoạt động trong một thị trường
chứng khoán còn non trẻ như ở nước ta đang là một trong những nhiệm vụ quan
trọng để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và lâu dài cho thị trường chứng
khoán ở nước ta.
Cổ phiếu ưu tiên:
Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được
phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích
hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là thường có cổ tức ổn định. Người chủ sở hữu
của cổ phiếu này có quyền được thành toán lãi trước các cổ đông thông thường.
Nếu có lãi chỉ đủ chi trả cổ tức cho cổ đông ưu tiên thì cổ đông thông thường sẽ

×