Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: ‘’Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản’’.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.01 KB, 20 trang )

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thùy Linh.
Họ và tên sinh viên: Kim Tuấn Anh.
Mã sinh viên: 11186213.
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh 219_19.
BÀI TẬP LỚN MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: ‘’Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản’’.
I.

Cơ sở của luận điểm:
1. Bối cảnh lịch sử:
a, Bối cảnh thế giới:
_Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
thống trị ở Pháp, Anh và Đức cùng các nước Tây Âu. Để tạo ra nhiều
lợi nhuận, giới tư bản khơng ngừng bóc lột giai cấp vô sản, đẩy cuộc
sống của họ vào cùng cực, trong khi tầng lớp tư sản sống sung sướng
bằng máu của công nhân, nông dân. Trước mâu thuẫn ngày càng trở
nên gay gắt, phong trào đứng lên của giai cấp vô sản phát triển từ tự
phát sang tự giác. Để đáp ứng nhu cầu về lý luận dẫn dường cho cách
mạng, chủ nghĩa Mác ra đời bằng Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản(1848).
_ Cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần sang chủ nghĩa
đế quốc nhằm tìm thêm thị trường, ngun liệu, nhân cơng. Các nước
đế quốc thi nhau xâu xé, cướp bóc, thơn tính các nước châu Á, châu
Phi và châu Mỹ La tinh. Thế giới được chia làm hai phần: các nước tư
bản phát triển (phương Tây) và các nước nông nghiệp lạc hậu (phương
Đông).
_ Sang đầu thế kỷ XX, cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các
nước đế quốc đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -



1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên
gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các
nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc,
Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêxia,… Bão táp cách mạng với
"phương Đông thức tỉnh" là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong
giai đoạn này. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Lênin đã phân tích tình hình
cụ thể, tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vơ sản có thể thành cơng ở một số
nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình; đồng thời
nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự
đồn kết giữa giai cấp công nhân ở các nước tư bản và các dân tộc ở
các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế
quốc, thực dân. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lênin là đúng với
thắng lợi của cuộc Cách mang Tháng Mười năm 1917 dưới sự lãnh
đạo của Đảng Bơnsêvích Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối
với cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919,
Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc
tế Cộng sản - một tổ chức quốc tế của phong trào cách mạng thế giới.
Quốc tế Cộng sản ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất của
phong trào cách mạng vô sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc trên phạm vi thế giới.
b, Bối cảnh Việt Nam:
_ Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước
ta, giữa lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến trở nên
gay gắt. Trước hành động xâm lược của đế quốc Pháp, chế độ phong
kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn đã chọn con đường quỳ gối



đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam trước
đây đại biểu cho dân tộc, đến nay bộc lộ rõ sự thối nát, bất lực và phản
động.
_ Trước cảnh nước mất nhà tan, các sĩ phu yêu nước đồng loạt đứng
lên với các cuộc nổi dậy như phong trào Cần Vương- đại diện cho chế
độ phong kiến, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo, tuy nhiên đều có kết cục chung là thất bại. Qua đó thấy được, chế
độ phong kiến lạc hậu đã khơng cịn thích hợp cho cơng cuộc giải
phóng độc lập dân tộc, đất nước ta.
_ Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, rất nhiều phong trào yêu nước nổ
ra, lớp trước ngã lớp sau lại đứng dậy, hết sức kiên cường. Mặc dù
vậy, tất cả phong trào đó đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.
Các phong trào của các nghĩa sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
đã biết hướng ra bên ngoài, gây được tiếng vang nhưng không thành
công là do chưa hướng đúng vì mang tư tưởng cầu viện nước ngồi:
dùng Nhật kháng Pháp chẳng khác nào đuổi hổ cửa trước rước beo
cửa sau (phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng) hay xin
giặc rủ lòng thương ( phong trào cải cách dân chủ của Phan Châu
Trinh). Ngồi ra cịn các phong trào như Đông Kinh Nghĩa Thục của
Lương Văn Can, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Tất cả các phong
trào trên đều mang tư tưởng dân tộc dân chủ tư bản, được ảnh hưởng
bởi các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản trên thế giới dồn dập dội vào
nước ta: tư tưởng của Cách mạng Nga năm 1905 dưới tác động của
nước Nhật duy tân, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng
dân tộc, dân quyền của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tư tưởng
của Cách mạng tư sản Pháp, … Các phong trào ở Việt Nam nói trên
đều thất bại như một sự tất yếu do vẫn chưa tìm được con đường giải
phóng đúng đắn. Rõ ràng, đến đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam



diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo
sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng Việt Nam ở trong "tình hình
đen tối như khơng có đường ra".
Chính vì những lý do trên mà Hồ Chí Minh đã quyết định ra ngồi
thế giới để tìm hiểu, trả lời cho câu hỏi về con đường giải phóng phù
hợp cho tổ quốc, cho đồng bào ta.
2.

Cơ sở hình thành luận điểm:
a, Cơ sở thực tiễn:
_Cách mạng tư sản là không triệt để:
Điểm đến đầu tiên của Hồ Chí Minh là Pháp. Hồ Chí Minh muốn
tìm hiểu xem cái nơi sinh ra “tự do, bình đẳng, bác ái”, nơi sinh ra
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” tại sao lại là nơi đẻ ra ách đô
hộ thực dân. Vì vậy, Hồ Chí Minh từ chối con đường sang Nhật của
Phan Bội Châu.
Vừa đặt chân lên nước Pháp, Người nhận thấy ở nước Pháp cũng
nhiều người khổ như ở Việt Nam, ở đây giai cấp tư sản cũng tàn ác
như ở Việt Nam. Một điều Người không ngờ đến là trên nước Pháp lại
tồn tại hai nước Pháp: Một nước Pháp của giai cấp tư sản và một nước
Pháp của nhân dân lao động. “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng,
Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ
phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân.
Người đọc tun ngơn độc lập của nước Mỹ, tìm hiêu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản Mỹ. Tuy rằng cách mạng thành công đã hơn 150
năm nay, nhưng công nơng vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mạng
lần thứ hai. Vì cách mạng Mỹ là cách mạng tư bản, mà cách
mạng tư bản là chưa phải cách mạng đến nơi.
Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mạng tư
bản, cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hồ và dân chủ, kỳ thực

trong thì nó bóc lột cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách


mạng đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng cịn phải mưu cách
mạng lần nữa mới hịng thốt khỏi vòng áp bức. Cách mạng An Nam
nên nhớ những điều ấy.
_Về cách mạng vô sản Nga (10/1917):
Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái phúc tự do,
bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ
nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được
vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị
áp bức các thuộcđịa làm cách mạng để đập đổ tất cả các đế quốc chủ
nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mạng thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc,
phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
_ Thực tiễn mâu thuẫn tại Việt Nam bấy giờ:
Ở Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết:
+Một là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp
nước.
+Hai là, mâu thuẫn giữa đông đảo quần chúng nhân dân, chủ yếu là
nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Từ những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh
đi đến xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng. Người cho rằng,
chính các giai tầng bị áp bức bóc lột sẽ là người thực hiện cuộc cách
mạng lật đổ các giai cấp thống trị mình, giành lấy quyền sống và
quyền độc lập, tự do cho chính họ. Với Việt Nam, lực lượng cách
mạng chính là giai cấp cơng nhân, nơng dân, tư sản dân tộc, tiểu tư
sản... Trong đó, “...ai mà bị áp bức càng nặng thì lịng cách mạng càng
bền, chí cách mệnh càng quyết...cơng nơng bị áp bức nặng hơn... công

nông là đông nhất nên sức mạnh hơn hết, nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc… nên
cơng nơng là gốc cách mạng”.


Tất cả những luận điểm và sự tổng kết thực tiễn trên đều cho thấy:
Việt Nam khơng cịn con đường giải phóng dân tộc nào khác ngồi
tiến hành cách mạng vô sản.
b, Cơ sở lý luận:
Sau một thời gian đi khắp nơi để quan sát cuộc sống những người
lao động ở Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ, nhất là chứng kiến cuộc
sống của những người nô lệ da đen, Hồ Chí Minh rút ra một nhận
xét: đâu đâu trên thế giới cũng chỉ có hai loại người là thiểu số đi áp
bức bóc lột, cịn đa số quần chúng lao động là những người bị áp bức
bóc lột.
Năm 1918, Hồ Chí Minh trở lại Pháp khi phong trào cơng nhân
Pháp đang có những chuyển biến quan trọng. Người đã tham gia vào
phong trào công nhân Pháp. Người vừa tiếp nhận để trưởng thành, lại
có những đóng góp cho phong trào. Được sự giúp đỡ của các đồng chí
cơng nhân Pháp, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng xã hội Pháp (1919).
Ngày 16/08/1919, Hồ Chí Minh thay mặt những người Việt Nam
yêu nước gửi đến hội nghị Vécxai bản “Yêu sách của nhân dân
Annam”, đòi quyền lợi cho các dân tộc ở Đông Dương. Tuy không
được thực dân chấp nhận, nhưng bản yêu sách đã gây ra tiếng vang
lớn trong dư luận. Cũng từ đây Người rút ra một bài học quan trọng:
Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình phải dựa vào chính sức mạnh của
mình, chứ khơng phải dựa vào các lực lượng bên ngoài.
Năm 1920, Người bắt gặp Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, trong đó có ba vấn đề
quan trọng nhất như sau:

+ Lênin bóc trần lối đặt vấn đề một cách trừu tượng về hình thức của
giai cấp tư sản về quyền bình đẳng trong đó bao gồm cả quyền bình
đẳng dân tộc. Lênin đòi hỏi phải phân biệt rõ nét các dân tộc bị áp


bức, phụ thuộc khơng được hưởng quyền bình đẳng với các dân tộc đi
áp bức. bóc lột được hưởng đầy đủ quyền lợi.
+ Lênin khẳng định điều quan trọng nhất trong Quốc tế cộng sản về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa là phải làm cho vô sản và quần chúng
lao động của tất cả các dân tộc và các nước gần gũi nhau để tiến hành
cuộc cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi
vì chỉ có sự gần gũi ấy mới đảm bảo cho việc chiến thắng giai cấp tư
sản, nếu khơng có chiến thắng đó thì khơng thể thủ tiêu được áp bức
dân tộc và tình trạng bất bình đẳng.
+ Nhiệm vụ quan trọng của các Đảng Cộng Sản là phải ủng hộ tích
cực, trực tiếp đấu tranh cho giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Đặc
biệt Leenin địi hỏi các giai cấp vơ sản ở các nước thống trị các nước
thuộc địa, dân tộc lạc hậu buộc phải ủng hộ tích cực nhất cho phong
trào độc lập, giải phóng ở các dân tộc ấy.
Sau khi nghiên cứu kỹ luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy một con đường cứu nước phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Con
đường đó là muốn cứu nước, muốn giải phóng dân tộc khơng cịn con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Luận cương của Lênin
đã giải đáp cho Hồ Chí Minh con đường giành độc lập cho dân tộc và
tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hồi bão được
ấp ủ bấy lâu nay ở Người.
Trong lịch sử, các giai cấp thống trị thực hiện sự thống trị áp bức
giai cấp và áp bức dân tộc. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới giải
quyết triệt để vấn đề giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Trong
lịch sử, chưa có học thuyết nào bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho giai

cấp bị bóc lột và người lao động. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin hướng
tới khơng chỉ bảo vệ mà cịn đưa người lao động lên làm chủ. Bác đã
tin và theo chủ nghĩa này, Người cho rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và


những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ hay muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản.
II.
Nội dung của luận điểm:
1. Về cách mạng vô sản:
a, Khái niệm:
Theo định nghĩa thì cách mạng vơ sản là một cuộc cách mạng
nhằm thay thế chế độ tư bản chử nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai
cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân
lao động xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
Nếu như các cuộc cách mạng trước đó kết thúc bằng việc giành chính
quyền thì đối với cách mạng vơ sản, việc giành chính quyền chỉ là ước
đầu cho quá trình biến đổi cách mạng tồn bộ đời sống xã hội. Cách
mạng vô sản phải bao gồm cả hai thời kỳ: cách mạng về chính trị với
nội dung chính là thiế lập nhà nước chun chính vơ sản và tiếp theo
là thời kỳ giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động sử dụng nhà
nước của mình để cải tạo xã hội cũ về mọi mặt, chính trị, văn hóa tư
tưởng … xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
b, Mục tiêu của cách mạng vô sản:
Mục tiêu của cách mạng vơ sản là giải phóng xã hội, giải phóng
con người. Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng là giai cấp
cơng nhân phải đồn kết cùng những người lao động khác nhằm thực

hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột. Mục
tiêu giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng là giai cấp công nhân phải
tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động vào công cuộc tổ chức một xã
hội mới về mọi mặt, thực hiện xóa bỏ tình trạng người bóc lột người,
khơng cịn tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác.
c, Lực lượng lãnh đạo, tổ chức lãnh đạo cách mạng vô sản:
Cách mạng vô sản được lãnh đạo bởi giai cấp công nhân là sản
phẩm của nền công nghiệp hiện đại, là lực lượng đại biểu cho sự phát


triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của
phương thức sản xuất tương lai. Do vậy, về mặt khách quan nó là giai
cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột và xây
dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong
chương IV của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác đã chỉ rõ: trong tất
cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp
vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, giai cấp vô sản,
trái lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp… Giai cấp công nhân là
giai cấp tiên phong cách mạng, có tinh thần cách mạng triệt để nhất có
ý thức tổ chức kỷ luật cao và có bản chất quốc tế. Do đó sứ mệnh đánh
đổ giai cấp tư sản được giao vào tay vô sản là điều không thể bàn cãi.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế xã hội của
giai cấp này quy định nhưng để biến khả năng khách quan đó thành
hiện thực thì phải thơng qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân
mà trong những nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập Đảng Cộng sản
là vô cùng quan trọng. Một Đảng trung thành với lợi ích của giai cấp
công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là
nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân hồn thành

được sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị
cao cấp nhất của giai cấp cơng nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ,
quyền lợi của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động. Sự
lãnh đạo của Đảng cũng là sự lãnh đạo của tồn thể giai cấp cơng
nhân. Đảng Cộng sản có lợi ích căn bản giống với lợi ích của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động, vì thế Đảng có thể thực hiện giác
ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia vào cách mạng. Đảng là bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc.


Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn dành được thắng lợi thì phải có
sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân, nông dân và với các
tầng lớp lao động khác nhằm tạo nên khối đại đoàn kết cách mạng,
trong đó nịng cốt là liên minh cơng nơng. Sự liên minh về mặt chính
trị trở thành cơ sở vững chắc cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo
thành nóng cốt trong mặt trạn dân tộc thống nhất, thực hiện khối liên
minh rộng rãi với các tầng lớp khác. Sự liên minh về mặt kinh tế trở
thành một động lực to lớn để thúc đẩy xã hội phát triển, nhất là trong
thời kỳ tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngồi ra liên minh về
kinh tế cịn về cả các mặt nội dung văn hóa, xã hội để đồng thời đặt
được các mục tiêu để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Về cách mạng giải phóng dân tộc:
a, Tính chất, nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau một q trình tìm hiểu và phân tích, Hồ Chí Minh đã nhận hấy
sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống
như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa đều có
chung một số phận giống nhau là mất nước, chịu làm nô lệ, nếu như
mâu thuẫn ở các nước tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giai cấp vơ sản
và giai cấp tư sản thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa
phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực

dân.
Hồ Chí Minh đã lý giải: xã hội phương Đơng có cấu trúc kinh tế,
xã hội khác so với phương Tây vì đặc thù lịch sử, địa lý. Do mâu
thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính chất cuộc đấu tranh cách mạng cũng
khác nhau, nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc
đấu tranh giai cấp thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu và trên hết, trước hết của cách mạng Việt Nam. Giải phóng dân
tộc chính là đánh đổ ách thống trị, áp bức của chủ nghĩa đế quốc tại
đây để dành lại độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước độc lập, tự do, có
con đường phát triển riêng của dân tộc mình sao cho phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại, tiến bộ xã hội. Nếu khơng giành được độc
lập dân tộc thì khó có thể, thậm chí là khơng thể đem lại được quyền
lợi trao trả về tay các tầng lớp bị áp bức, bài học nhãn tiền từ các
phong trào của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh vẫn còn.
Ở các nước thuộc địa thì mâu thuẫn dân tộc chính là mâu thuẫn lớn
nhất và là chủ yếu do đó nó quy định tính chất và nhiệm vụ của cách
mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm ‘’ Đường cách
mệnh’’ Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Người nói rõ: ‘’ Giai cấp nơng
dân là số lượng lớn nhất trong dân tộc nên giải phóng dân tộc chủ yếu
là giải phóng nơng dân, mà nơng dân thì có u cầu về ruộng đất do
đó khi tiến hành đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó sẽ được đáp
ứng vì ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân’’. Đế
quốc và tay sai là kẻ thù số một của nông dân, lật đổ chế độ thuộc địa
sẽ là nguyện vọng hàng đầu của nông dân.
b, Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam:

Tư tưởng trên trải qua thời gian đã khẳng định được tính đúng đắn của
mình, tại hội nghị lần thứ 8 của ban chấp hành trung ương Đảng do Hồ
Chí Minh chủ trì đã quyết định thành lập mặt trận Việt Minh thực hiện
đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở chính là giai cấp cơng nhân, nơng dân,
coi giải phóng dân tộc là vấn đề bức thiết nhất, có giải quyết được vấn
đề này mới có thể tiếp tục thực hiện tồn diện cách mạng ruộng đất,
hiện tại chỉ thực hiện một phần nhằm đáp ứng cho nhu cầu giải phóng


dân tộc. Khẩu quyết: ‘’Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi’’ trở
thành tôn chỉ của cuộc cách mạng Việt Nam với nhiệm vụ đánh đổ chế
độ thực dân Pháp là nhiệm vụ hàng đầu. Nhiệm vụ của cách mạng bây
giờ không phải là tư sản dân quyền hay giải quyết phản đế và điền địa
nữa mà chuyển sang mục tiêu duy nhất là giải phóng dân tộc khỏi ách
thực dân.
Kết quả thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đã một lần
nữa khẳng định tính đúng đắn của quyết định trên.
3. Mối quan hệ giữa con đường giải phóng dân tộc và con đường cách

mạng vơ sản
Qua dịng chảy lịch sử, ta có thể thấy sự thất bại tất yếu của các
phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX bằng các ngọn cờ giải phóng dân tộc phong kiến hoặc tư tưởng
tư sản do không đáp ứng được nhu cầu giải phóng dân tộc ta khỏi
xiềng xích nơ lệ. Hồ Chí Minh một mặt khâm phục tinh thần cứu nước
của cha ông, một mặt không đồng ý với cách làm cách mạng đó,
Người đã quyết định đi ra bên ngồi đi tìm con đường cứu nước mới.
Sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã khẳng định đây mới là con
đường cứu nước đúng đắn của dân tộc ta- con đường cách mạng vô

sản.
Vượt qua tư tưởng của các phong trào yêu nước trước đây, Hồ Chí
Minh đã bước đến với con đường cách mạng vô sản mà theo Người thì
bao gồm những nội dung chính sau:
_ Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước đi lên
xã hội cộng sản.


_ Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của
nó là Đảng Cộng sản.
_ Lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân, nịng cốt là liên
minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và lao động trí óc.
_ Sự nghiệp của cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới, cho nên phải đồn kết quốc tế dưới chung lá cờ
cách mạng vô sản.
Điểm làm nên sự khác biệt và thành công của cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh với các
phong trào yêu nước trước đó là đã tìm được đúng con đường phù hợp
với bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam bấy giờ. Nghĩa là chỉ ra đúng,
lực lượng cần giải phóng chính là giai cấp công nhân, nông dânnhững người bị áp bức chính trong xã hội và kẻ thù của họ- kẻ thù
chung của dân tộc là đế quốc thực dân Pháp. Hồ Chí Minh giải phóng
dân tộc bằng lực lượng vơ sản, và giải phóng dân tộc cho lực lượng vơ
sản, đem lợi ích và quyền lợi chính đáng trao trả đến tay nhân dân các
tầng lớp lao động Việt Nam.
III.

Giá trị, ý nghĩa của luận điểm:
1. Luận điểm mang giá trị độc lập, tự do
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng thực chất là để giải quyết mâu
thuẫn cơ bản trong xã hội. Do đó, để làm cách mạng thành công, trước

hết phải xác định đúng đắn mâu thuẫn xã hội và mâu thuẫn thời đại.
Người nhận thấy ở Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải
quyết:


Một là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước;
Hai là, mâu thuẫn giữa đông đảo quần chúng nhân dân, chủ yếu là
nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Từ đó, Hồ Chí Minh khẳng định: Mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa các giai cấp đi áp bức bóc lột và các giai
cấp bị áp bức bóc lột; mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam cần tập trung giải
quyết là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước
và tay sai của chúng.
Từ những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh
đi đến xác định lực lượng nịng cốt của cách mạng. Người cho rằng,
chính các giai tầng bị áp bức bóc lột sẽ là người thực hiện cuộc cách
mạng lật đổ các giai cấp thống trị mình, giành lấy quyền sống và
quyền độc lập, tự do cho chính họ. Với Việt Nam, lực lượng cách
mạng chính là giai cấp công nhân, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư
sản... Trong đó, “...ai mà bị áp bức càng nặng thì lịng cách mệnh càng
bền, chí cách mệnh càng quyết...cơng nông bị áp bức nặng hơn... công
nông là đông nhất nên sức mạnh hơn hết,... nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc... nên
cơng nơng là gốc cách mệnh”. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, lực lượng
lãnh đạo cuộc cách mạng đó phải là, và chỉ có thể là giai cấp vơ sản,
trên cơ sở đồn kết rộng rãi với tất cả các giai tầng yêu nước. Điều này
được biểu hiện rõ nét trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi
thời cơ cách mạng đến, Hội nghị Đảng tồn quốc tháng 8-1945 nhận
định: “Chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi của ta
và Đồng minh”. Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Tồn quốc đồng bào hãy

đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Bằng sức lực, trí tuệ
của dân ta, chưa đầy một tháng, cách mạng đã thắng lợi trên phạm vi
cả nước, đưa Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên


độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây chính là
bằng chứng hùng hồn nhất cho sự đúng đắn của luận điểm Hồ Chí
Minh đưa ra: ‘’Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản’’.
Từ thắng lợi này đi đến thắng lợi khác, trải qua nhiều gian nan khổ
cực, chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 thành công một lần nữa khẳng
định ý nghĩa, giá trị của việc giải phóng dân tộc bằng sức mạnh tồn
dân, với khung sức mạnh từ giai cấp công, nông dân và lao động trí
thức của một đất nước lạc hậu đánh thắng một đế quốc hùng mạnh bậc
nhất thế giới. Điều này đã cổ vũ tinh thần, niềm tin thắng lợi cho các
cuộc đấu tranh giành độc lập của rất nhiều nước thuộc địa trên thế
giới: các nước châu Phi, châu Mỹ Latinh lần lượt đứng lên mạnh mẽ
đấu tranh cho tự do của dân tộc mình… với họ hình ảnh đất nước Việt
Nam, hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp và
nhân dân Việt Nam quật cường luôn là những người hùng. Đến bây
giờ, khi những người lính mũ nồi xanh của Việt Nam đến hoạt động ở
Trung Phi, Nam Sudan vẫn nhận được sự chào đón nồng nhiệt của
người dân nơi đây, với họ Việt Nam là một tượng đài cho đấu tranh
giải phóng kiếp nô lệ, biểu tượng của sự tự do.
2. Giá trị của luận điểm trong thời đại mới: xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Dẫu biết đất nước ta đang cịn nhiều khó khăn: hậu quả của chiến
tranh cịn nặng nề, kinh kế còn chậm phát triển, …Nhưng, đối với
nước ta để có độc lập dân tộc thật sự, tự do, hạnh phúc cho nhân dân
chỉ có đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, ngồi ra khơng cịn con
đường nào khác như lịch sử đã chứng minh qua các phong trào yêu

nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thất bại. Nhân dân ta dưới
ngọn cờ của Đảng, phát huy cao độ truyền thống yêu nước đã chiến
đấu hy sinh mấy chục năm trời, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ của cuộc


cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã chuyển sang thực hiện nhiệm
vụ cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và
phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì q lâu
cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ
trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư
tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng
Từ thực tiễn cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai
lầm, có thể rút ra những bài học lớn:
_Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là
bài học xun suốt q trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu
cơ với nhau. Tồn Đảng, tồn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trao lại cho thế hệ hơm nay và các thế hệ mai sau.
_Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt
động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính
của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân

dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất
không lường được đối với vận mệnh của đất nước.
_Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết


là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
"Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành công, đại thành công!"
_Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại và q trình quốc tế hố mạnh mẽ nền kinh tế thế giới,
càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu
tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên.
_Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo
đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng khơng có lợi ích nào
khác ngồi việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm
vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh
chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề
do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng
và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan
liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
_Do nhân dân lao động làm chủ.
_Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện

đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
_Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
_Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo


năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân.
_Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ.
_ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới.
Ngay trong thời điểm hiện tại, năm 2020, chúng ta lại một lần nữa
thấy được sự ưu việt trong quyết định của Hồ Chí Minh về con đường
đi theo chủ nghĩa xã hội với dân tộc ta. Khi dịch Sars-Covid2 hoành
hành khắp thế giới, trở thành một đại dịch nguy hiểm toàn cầu đã đồng
thời lột tẩy bộ mặt xấu xí của chủ nghĩa tư bản khỏi lớp vỏ truyền
thông lâu nay vẫn được ca ngợi là y tế phát triển, nhân dân ở các nước
tư bản được hưởng những quyền lợi ích hơn hẳn các nước đi theo con
đường XHCN. Khơng đó chỉ là lời dối trá của truyền thông tư bản,
ngay thời điểm này, những nước chịu ảnh hưởng lớn nhất của dịch
Sars-covid2 lại là những nước TBCN như Mỹ, Anh, Ý, Pháp,… tại
đây y tế chất lượng cao chỉ phục vụ cho một số nhỏ tầng lớp lắm tiền
nhiều của, còn đa phần nhân dân lao động phải chịu mức viện phí đắt
đỏ đến phát khóc, điển hình như ở Mỹ thì trung bình hóa đơn chi trả
cho một bệnh nhân chữa Sars-covid2 là 35000USD (dẫn theo tạp chí
TIME) trong khi thu nhập bình qn một năm của một cơng dân Mỹ
chưa đến 70000USD (số liệu của ngân hàng thế giới năm 2018). Trong
khi ở một đất nước mà truyền thông tư bản liên tục bôi nhọ là Trung
Quốc, Việt Nam, Cuba người dân lại được chữa trị miễn phí Sarscovid2 và cịn đang đi đầu trong công tác chống dịch. Trung Quốc gửi
hàng ngàn tấn thiết bị y tế sang tâm dịch tại Ý để hỗ trợ quốc gia này

dập dịch, Cuba hàng năm vẫn duy trì lượng y bác sĩ tình nguyện đơng
đảo giúp đỡ các nước có nền y tế công cộng kém phát triển, nay lại
một lần nữa thể hiện rõ hơn khi liên tục tăng cường gửi các đội ngũ y


tế của mình đến các nước khác nhằm hỗ trợ dập dịch. Việt Nam đang
đi đầu trong công tác chống dịch lại Đông Nam Á, mới đây thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì hội nghị trực tuyến ASEAN
+3 về tình hình chống dịch Covid19 tại khu vực Đơng Nam Á, ngồi
ra Việt Nam cũng đang thể hiện trách nhiệm của một nước trong cộng
động quốc tế khi gửi hơn nửa triệu khẩu trang cho các nước bùng phát
dịch mạnh ở Liên minh châu Âu (EU), hơn một trăm nghìn khẩu trang
cho Indonesia…
Từ đó ta có thể một lần nữa khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là hồn tồn đúng đắn, vì nó là cách duy nhất có thể
đảm bảo hết thảy lợi ích, phát triển cho tồn thể nhân dân Việt Nam
cũng như đóng góp cho sự nghiệp giải phóng và phát triển nhân loại.
3.Tổng kết:
Ngày nay, trước những biến động lớn của nhân loại, điều kiện thế
giới có thay đổi. Cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật và công nghệ
hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở các mức độ
phát triển khác nhau. Điều đó vừa tạo nhiều thời cơ tốt đồng thời cũng
đầy thách thức đối với các nước đang phát triển. Trong lúc chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, thì trước mắt chủ nghĩa tư bản
cịn có tiềm năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng khoa học – kỹ thuật,
có sự điều chỉnh về mặt xã hội. Nhưng dù sao đây vẫn là chế độ bóc
lột, lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất và tất yếu,
sớm hay muộn cũng phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật, là sự
phát triển tất yếu, là con đường không thể tránh khỏi đối với mọi dân
tộc. Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài

của cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải
phóng dân tộc trong thế kỉ XX.


Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc
Việt Nam. Sự nghiệp cứu nươc của người đã xóa bỏ tất cả những tủi
nhục nơ lệ đè nặng trên đầu dân tộc ta trong gần một thế kỉ nay.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách
thắng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ áp bức
bóc lột vây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp
cách mạng vĩ đại và phẩm chất đạo đứ cao quí đã thống nhất làm một
ở Hồ Chí Minh.
Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi
là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự nghiệp kiến tạo và phát triển
của Việt Nam nói riêng cũng như nhân loại nói chung.



×