Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỬ DỤNG KINH PHÍ CHO HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.97 KB, 15 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ
SỬ DỤNG KINH PHÍ CHO HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP TẠI BỆNH VIỆN
NHI TRUNG ƯƠNG.
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG TRONG THỜI
GIAN TỚI.
Qua phân tích ở phần thực trạng, có thể nói quản lý sử dụng kinh phí cho
hoạt động sự nghiệp tại Bệnh viện Nhi Trung Ương trong thời gian qua đã bán sát
chủ chương, chính sách chế độ của Đảng và Nhà nước, khắc phục khó khăn về tài
chính để thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. Tuy nhiên
bên cạnh những mặt đã đạt được cũng bộc lộ không ít hạn chế. Những hạn chế này
phần lớn cũng là những hạn chế chung của toàn ngành y tế như:
Công tác cấp phát kinh phí, các khoản chi lương, có tích chất lương. Bên
cạnh đó có nhiều tiêu chuẩn, định mức chi tiêu đã lạc hậu chưa được sửa đổi nên
không còn phù hợp với tình hình thực tế làm cho một số khoản chi bị sử dụng lãng
phí, không hiệu quả trong khi nhiều khoản chi không đủ kinh phí đáp ứng.
Về chế độ chứng từ kế toán: mặc dù trường hợp này sảy ra rất ít nhưng
không phải là không có và đây cũng là mặt hạn chế chung của hầu hết các đơn vị
trong nền kinh tế. Đó là có khi đơn vị còn chưa sử dụng đầy đủ các loại chứng từ
theo chế độ quy định, có nhiều khoản chi chỉ viết bằng tay hoặc không theo mẫu
của cơ quan có thẩm quyền như các khoản chi thưởng, làm thêm giờ, các khoản
phụ cấp,.... chủ yếu chỉ viết tay. Có nhiều chứng từ hợp pháp nhưng khi sử dụng lại
không đảm bảo tính hợp lệ như: ghi chép chưa đầy đủ nội dung, thiếu chữ ký,...
Về trình độ của cán bộ làm công tác tài chính: nhìn chung đội ngũ cán bộ tài
chính của Bệnh viện khá nắm vững chuyên môn. Tuy nhiên, trình độ cán bộ
không đồng đều, bên cạnh một số cán bộ lâu năm có trình độ nghiệp vụ, chuyên
môn cao, còn nhiều cán bộ trẻ kế cận chưa thực sự nắm bắt được nghiệp vụ,
chuyên môn của lớp đi trước. Tuy nhiên, sau khi Bệnh viện sử dụng hệ thống máy
tính nội bộ, sử dụng các phần mềm máy tính để hiện đại hoá Bệnh viện thì lớp trẻ
lại tiếp thu và thích ứng rất nhanh, trong khi đó số cán bộ có trình độ chuyên môn
lâu năm lại rất khó thích ứng và việc đào tạo tin học cho họ rất khó khăn và tốn
kém.


Về phương thức cấp phát hành chính: Cơ chế quản lý và phương thức cấp
phát kinh phí cho hoạt động quản lý hành chính hiện nay được cấp phát theo hạn
mức kinh phí, theo từng mục chi, theo mục lục ngân sách. Hết năm nếu không sử
dụng hết thì mức hạn mức thừa sẽ phải trả lại cho Nhà nước. Cơ chế đó đã làm
phát sinh hiện tượng phải cố sử dụng hết hạn mức kinh phí trong năm, nếu không
khoản dự toán đó sang năm của Bệnh viện phải giảm. Vì vậy khi kinh phí đến cuối
năm còn nhiều thì đơn vị hay thực hiện chạy kinh phí cuối năm,... dẫn đến tình
trạng lãng phí không hiệu quả trong sử dụng ngân sách.
Nhiều tiêu chuẩn, định mức chi tiêu không được sửa đổi kịp thời cho phù
hợp với tình hình thực tế. Dự toán nhiều khoản chi được tính theo đầu người, theo
quỹ lương dẫn đến khó thực hiện được giảm biên chế vì hầu hết các đơn vị đều
muốn được tăng kinh phí vì vậy không giảm được biên chế.
Bệnh viện luôn ở trong tình trạng quá tải, nguồn thu từ viện phí và dịch vụ
giảm hẳn do thực hiện chính sách của Nhà nước miễn giảm hoàn toàn cho trẻ em
dưới 72 tháng tuổi, và giảm một phần cho người nghèo (đối với trẻ em trên 72
tháng). Vì vậy, trước đây Bệnh viện được giữ lại 35% từ nguồn thu viện phí và
dịch vụ để chi cho các khoản như: tiền thưởng, phụ cấp, các khoản chi khác,... Nay
khoản này không còn là bao nhiêu, nên thu nhập của cán bộ nhân viên bệnh viện
giảm hẳn, và nhà nước cần có biện pháp để bù đắp lại nguồn này cho Bệnh viện.
Đứng trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước cũng như Ban lãnh đạo của
Bệnh viện cũng có một số định hướng về quản lý sử dụng kinh phí cho hoạt động
sự nghiệp tại Bệnh viện. Những chủ chương và định hướng đó bao gồm:
- Nghiên cứu, sửa đổi chế độ tiền lương đối với công nhân viên chức sao cho
phù hợp, đảm bảo đời sống cho cán bộ công chức. Trước mắt cần thực hiện ngay
chế độ tiền lương của nhà nước ban hành từ ngay 01 tháng 10 năm 2004, khôi phục
tiền lương thực tế cho cán bộ công nhân viên chức.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng ta do đại hội Đảng lần thứ 7
thông qua đã khẳng định đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế – xã hội, coi con người là nguồn lực lớn nhất, nguồn vốn quý
nhất, con người là chủ thể của mọi sáng tạo. Trong điều kiện ngày nay của nước

ta, nếu tiền lương và thu nhập linh hoạt, mềm dẻo gắn liền với hiệu quả công việc
thì nó thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng kích thích sự sáng tạo của
người lao động. Chính sách tiền lương đúng đắn góp phần tích cực chống quan
liêu, tham nhũng. Chính sách tiền lương cho cán bộ công nhân viên Bệnh viện
trong thời gian vừa qua, mặc dù mức lương tối thiểu đã nâng lên nhưng mức độ
tăng giá cả hàng hoá còn tăng gấp nhiểu lần. Do đó, mặc dù thu nhập có tăng
nhưng lạm phát do giá cả tăng đã kéo lùi tiền lương thực tế. Để giải quyết tình
trạng này ngoài việc phải bù đủ trượt giá vào lương cần phải được ưu tiên trước hết
trong bố trí ngân sách hàng năm để có thể nâng cao thu nhập cho cán bộ công
chức, tạo điều kiện để mỗi cán bộ phát huy hết khả năng của mình, nâng cao hiệu
quả và chất lượng công việc.
- Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị trong Bệnh viện,
ưu tiên phát triển các chương trình dự án ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, triển khai các
hoạt động đầu ngành, ứng dụng các thành quả nghiên cứu khoa học trong công tác
khám chữa bệnh. Nâng cao chất lượng tinh thần thái độ phục vụ người bệnh, tạo
môi trường khám và chữa bệnh tốt nhất cho trẻ em, xứng đáng là đơn vị đi đầu
trong lĩnh vực nhi khoa của cả nước.
- Phấn đấu, duy trì, phát huy vài trò là một Bệnh viện chuyên khoa đầu
ngành Nhi để chỉ đạo hoạt động chăm sóc sức khoẻ trẻ em cả nước. Chú trọng quy
hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu, các chuyên gia kỹ thuật đầu ngành,
các cán bộ quản lý giỏi. Tập trung đào tạo, đào tạo lại, đào tạo liên tục, đào tạo
nâng cao chuyên môn cho cán bộ, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cho
tuyến dưới, giám sát hỗ trợ cụ thể đối với từng khu vực để giảm bệnh nhân phải
chuyển cho tuyến dưới, vượt tuyến, giảm tỷ lệ tử vong và an toàn trong vận chuyển
bệnh nhi.
- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chức năng của Bệnh viện trong mọi hoàn
cảnh và không ngừng nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tăng cường khả năng
cung cấp dịch vụ y tế cho trẻ em đa dạng và hiệu quả. Từng bước xã hội hoá công
tác y tế, đảm bảo cho mọi trẻ em trên cả nước đều được hưởng dịch vụ y tế tốt nhất
của Nhà nước.

- Nâng cấp cơ sở hạ tầng Bệnh viện, quy hoạch tổng thể Bệnh viện với tầm
nhìn 2006 – 2010 và 2020. Từng bước sắp xếp và cũng cố bộ máy Bệnh viện gọn
nhẹ, hoạt động có hiệu quả, nâng cao khả năng quản lý và chuyên môn nghiệp vụ.
- Tiếp tục phát triển một cách rộng rãi những kỹ thuật cao đang áp dụng và
thêm một số kỹ thuật mới như ghép gan, ghép tuỷ xương và ghép tế bào gốc, kỹ
thuật sinh học phân tử và di truyền. Chú trọng việc nghiên cứu các bệnh chuyển
hoá, di truyền, đẩy mạnh công tác y tế cộng đồng. Phấn đầu không ngừng, tăng
cường đoàn kết, xây dựng Bệnh viện xứng đáng là đơn vị anh hùng.
Những phương hướng và nhiệm vụ cơ bản trên đây đã góp phần phục vụ cho
hoạt động khám chữa bệnh trẻ em được tốt hơn. Đồng thời tập chung kinh phí để
đầu tư nâng cấp Bệnh viện, đưa cơ sở vật chất của Bệnh viện chở nên khang trang
sạch sẽ hơn, đáp ứng tốt các nhu cầu về điện nước, trang thiết bị phục vụ công tác
khám và chữa bệnh của Bệnh viện. Mở rộng và nâng cao chất lượng y tế cơ sở, đáp
ứng tuyến đầu. Vì vậy để nâng cao chất lượng của Bệnh viện góp phần đáp ứng
ngày càng cao vào sự nghiệp bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho trẻ em cùng với sự
sắp xếp kiện toàn bộ máy, đổi mới chức năng nghiệp vụ mô hình quản lý thì vấn đề
tăng cường trang thiết bị cho cơ sở khám chữa bệnh là một điều tất yếu.
Để biến những định hướng trên thành hiện thực, Bệnh viện phải có một
lượng vốn không nhỏ. Muốn vậy, thì Bệnh viện phải không ngừng huy động các
nguồn vốn để tăng mức đầu tư cho Bệnh viện mà chủ yếu là đầu tư cho hoạt động
khám chữa bệnh. Nguồn vốn từ NSNN luôn chiếm tỷ trọng lớn và ổn định, tuy
nhiên nguồn vốn từ viện trợ cũng không phải là ít, nếu quan hệ tốt thì đây là nguồn
vốn rất quan trọng quyết định tới việc hiện đại hoá Bệnh viện, giúp Bệnh viện theo
kịp với sự phát triển của y học thế giới. Ngoài ra còn có nguồn từ dịch vụ thu viện
phí và Bảo hiểm y tế.
Đây là những nguồn thu chính để thực hiện những định hướng trên, do đó
chúng ta phải có giải pháp thiết thực để khai thác triệt để các nguồn thu trên cũng
như việc quản lý sử dụng kinh phí từ nguồn trên sao cho vừa tiết kiệm vừa hiệu
quả.
3.2. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ SỬ DỤNG KINH PHÍ

CHO HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG.
Đường lối, chính sách, chủ chương của Đảng và Nhà nước cho dù có hoàn
mĩ đến đâu cũng không thể trở thành hiện thực nếu không được các cấp, các ngành,
các đơn vị thực hiện đúng và có những giải pháp cụ thể.
Quản lý sử dụng kinh phí cho hoạt động sự nghiệp tại Bệnh viện Nhi Trung
Ương trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kích lệ, song cũng
không phải là không có khuyết điểm. Để khắc phục các hạn chế đó cần phải tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
3.2.1. Cần phải xác định rõ nội dung chi cho sự nghiệp y tế tại Bệnh
viện Nhi Trung Ương.
Vấn đề đặt ra ở đây là phải xác định hoạt động y tế nào cần sự tài trợ toàn bộ
của Ngân sách nhà nước, dịch vụ y tế nào là hàng hoá người sử dụng phải trả tiền,
trả tiền toàn bộ hay trả một phần, còn một phần nhà nước tài trợ và đối tượng nào
là đối tượng được hưởng phần tài trợ trên. Trên cơ sở đó xác định nội dung của các
khoản mục y tế mà nguồn ngân sách nhà nước phải bù đắp. Nói cách khác từ nội
dung của y tế công cộng và khả năng cung cấp các nguồn tài chính cho y tế mà đi
đến việc xác định nội dung phân phối ngân sách nhà nước cho các hoạt động y tế.
Cụ thể như các trong hoạt động khám chữa bệnh cho người nghèo, cho trẻ
em dưới 72 tháng tuổi. Vì thực tế Bệnh viện rất có thể là nguyên nhân làm “người
nghèo trở nên nghèo hơn”, theo thống kê thì số lượng người nghèo mắc bệnh luôn
nhiều hơn người giàu tới 4,5 lần và bệnh thường nặng hơn. Trẻ em thuộc các gia
đình nghèo có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn so với trẻ em thuộc gia đình khá giả.
Đứng trên góc độ vĩ mô thì để xã hội ngày một phát triển công bằng văn minh thì
việc Nhà nước và Chính phủ miễn giảm hoàn toàn cho bệnh nhân dưới 72 tháng
tuổi, miễn giảm một phần cho gia đình nghèo, gia đình chính sách là một việc làm
cần thiết. Tuy nhiên, khi thực hiện chính sách này, Bệnh viện đã gặp không ít khó
khăn như: Bệnh viện luôn ở trong tình trạng quá tải đồng thời nguồn thu của Bệnh
viện giảm hẳn so với trước. Dẫn đến thu nhập của cán bộ công nhân viên giảm, mà
cường độ lao động lại tăng, do trước kia Bệnh viện được giữ lại 35% viện phí để
dùng cho các khoản như tiền lương, tiền thưởng. Vậy phải có nguồn thu khác để bù

đắp lại khoản thiếu hụt này cho cán bộ công nhân viên bệnh viện, nếu không thì sẽ
không khuyến kích được tính sáng tạo trong công việc của cán bộ công nhân viên
trong Bệnh viện. Vì một nguyên tắc tất yếu trong quản lý là phải làm cho thu nhập
của cán bộ viên chức luôn tăng, chí ít là bằng so với lúc đầu thì đó với là một chính
sách hiệu quả.
Nguồn kinh phí bù đắp thiếu hụt này có thể được trích từ nguồn Bảo hiểm Y tế. Và
để nguồn Bảo hiểm Y tế này một lớn mạnh thì phải có chính sách bắt buộc 100%
người dân đều phải đóng Bảo hiểm Y tế, có như vậy thì mơi đảm bảo công bằng
trong y tế. Hoặc hàng năm Nhà nước phải trích một phần ngân sách của mình cho

×