Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.38 KB, 26 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
Tổng quan
1.1. Tổng quan về tình hình phát triển đào tạo Đại học ở nước ta trong thời
gian qua:
1.1.1. Đánh giá về những thành tựu đạt được
 Về mạng lưới các trường đại học cao đẳng :
Một trong những chủ trương về phát triển giáo dục đào tạo trong thời gian
qua là sắp xếp lại mạng lưới các trường học. Đối với GDĐH, việc sắp xếp, phát
triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng hướng vào việc hình thành các trường
đại học chuyên ngành, đại học mở, xây dựng các trường đại học địa phương, cao
đẳng cộng đồng, đại học dân lập và bán công.
Bảng 1: Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng ở nước ta.
2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004
Trường 178 191 202 214
Cao Đẳng 104 114 121 127
Công lập 99 108 115 119
Ngoài công lập 5 6 6 8
Đại Học 74 77 81 87
Công lập 57 60 64 68
Ngoài công lập 17 17 17 19
Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ GD&ĐT.
Có thể nói số lượng các trường đại học, cao đẳng không ngừng tăng lên
trong thời gian qua. Theo số liệu thống kê giáo dục - đào tạo, năm 2001 tổng số
trường đại học, cao đẳng trong cả nước là 178 trường, và con số này đã không
ngừng được tăng lên qua từng năm, năm2002 là 191 trường, năm 2003 là 202
trường và trong năm học 2003-2004 đã thành lập thêm 16 trưòng ĐH-CĐ (không
kể khối An ninh-Quốc phòng) nâng tổng số trường ĐH-CĐ lên 214 trường.Nếu
tính cả các trường,khoa thành viên của Đại học quốc gia và Đại học vùngthì sẽ là
237 trường khoa.
Chỉ xét riêng về trường công lập hiện nay cả nước ta có 187 trường,


nếu phân cấp quản lý theo chiều dọc, hệ thống các trường ĐH-CĐ ở nước ta chia
thành 2 khối: khối các trường do Bộ GD&ĐT quản lý (99 trường ) khối các trường
còn lại do các Bộ chủ quản quản lý ( 88 trường ). Nếu xét phân cấp quản lý theo
chiều ngang thì gồm khối các trường do địa phương quản lý và khối các trường do
TW quản lý. Hầu hết các trường đại học, cao đẳng tập trung ở các tỉnh, thành phố
lớn. Thông thường, ở các tỉnh chỉ có trường cao đẳng sư phạm, thậm chí ở nhiều
tỉnh còn không có một trường đại học, cao đẳng nào.
Cùng với sự gia tăng về số lượng các trường đại học, cao đẳng trong cả
nước, các loại hình đào tạo khác cũng được đa dạng hoá, hiện nay nước ta có các
loại hình đạo tào như: chính quy – không chính quy; dài hạn – ngắn hạn; tập trung
– tại chức…
Hiện nay, vấn đề mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đang được nhiều
cơ quan và các giới quan tâm. Việc tiếp tục điều chỉnh, tổ chức lại mạng lưới phải
gắn liền với việc tiếp tục đổi mới quản lý GDĐH theo hướng tăng tính tự chủ của
các trường và trách nhiệm tài sản của các Bộ ngành, Chính quyền tỉnh, thành phố.
 Về phát triển quy mô đào tạo trong thời gian qua :
Quy mô đào tạo của giáo dục đại học trong thời gian gần đây có sự tăng lên
cả về số tuyệt đối và số tương đối, biểu hiện qua sự tăng trưởng số lượng sinh viên
theo học tại các trường ĐH-CĐ. Nếu như trước khi đổi mới, quy mô đào tạo từ
năm 1986 đến 1990 gần như là giữ nguyên (khoảng 130.000 sinh viên) thì đến năm
2003 con số này là 1.032.440, năm 2004 là 1.104.700 và kế hoạch năm 2005 sẽ là
1.160.000. Nếu làm một phép tính so sánh thì ta thấy được tốc độ tăng về quy mô
sinh viên sau khi đổi mới so với trước đây là như thế nào? Sự thay đổi này sẽ thấy
rõ hơn khi ta nghiên cứu bảng số liệu sau:
Bảng 2: Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng công lập
2002 2003 2004 KH 2005
KH 2005
so với
2004 (%)
Tổng số 960.692 1.032.440 1.104.700 1.160.000 5,0

CĐ 213.933 231.107 247.300
ĐH 746.759 801.333 857.400
Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ GD&ĐT.
Như vậy quy mô đào tạo ở các trường ĐH-CĐ không ngừng được tăng lên
trong thời gian qua,điều này còn được thể hiện qua số lượng sinh viên tuyển mới
năm sau luôn cao hơn năm trước.Sự gia tăng SV đặc biệt mạnh từ sau năm 1995 và
với tốc độ cao. Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1991-1995 là 20,6%/ năm; 16,4%
(1996-2000); 10,2% (2004-2005). Do đó, tỉ lệ SV / 1 vạn dân dù còn kém các nước
trong khu vực nhưng cũng không ngừng tăng lên từ 19 (1990 ) lên 118 (2000), 128
(2002) và 138 (2004).Ta có thể thấy rõ sự tăng lên về quy mô đào tạo đại học
thông qua bảng sau :
Bảng 3: Chỉ tiêu tuyển mới ĐH-CĐ năm học 2005:
2003 2004 KH 2005 KH 2005 so
với 2004 (%)
CĐ & ĐH
Chính quy
Không chính quy
Cử tuyển
300.557
187.930
111.189
1.438
319.900
200.900
117.000
2.000
352.500
220.000
130.000
2.500

10,2
9,5
11,1
25,0
Cao Đẳng
Chính quy
Không chính quy
Cử tuyển
95.420
64.338
30.639
443
104.200
72.500
31.000
700
118.500
81.000
36.600
900
13,7
11.7
18.1
14.6
Đại Học
Chính quy
Không chính quy
Cử tuyển
205.137
123.592

80.550
995
215.700
128.400
86.000
1.300
234.000
139.000
93.400
1.600
8,5
8,3
8,6
23,1
Nguồn : Trung tâm thông tin Bộ GD&ĐT
Như vậy qua bảng số liệu trên cho thấy rằng số lượng SV tuyển mới qua 3
năm không ngừng tăng lên: năm 2003 tuyển mới 300.557 SV tới năm 2004 tuyển
mới 319.900 tăng 6,4%,theo kế hoạch năm 2005 số SV tuyển mới là352.500 tăng
10,2% so với 2004.Nét xét theo từng loại hình đạo tạo thì số SV ở cả 3 loạI hình
( chính quy, không chính quy,cử tuyển ) đều tăng.
Bên cạnh đó, chất lượng Đào tạo cũng được nâng lên. Đại bộ phận sinh viên
có khả năng và tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức mọi mặt, tự học thêm kiến
thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp. Hầu hết sinh viên tự học thêm ngoại ngữ, tin
học. Một bộ phận sinh viên đạt kết quả cao cả về học lực và phẩm chất, có ý thức,
ý chí vươn lên, rất năng động sáng tạo, phát huy được truyền thống hiếu học của
dân tộc ta.
 Về phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên :
Trong những năm vừa qua đội ngũ giảng viên ở các trường ĐH-CĐ không
ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng.Đây không chỉ là lực lượng đào tạo ra
nguồn nhân lực cho đất nứớc mà đồng thời, đây cũng là lực lượng nghiên cứu khoa

học hùng hậu. Chính từ lực lượng này đã xuất hiện nhiều nhà khoa học lớn, các
chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực. Họ đã có nhiều đóng góp tích cực, to
lớn trên cả 2 phương diện đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật…Cụ thể, ta có thể
thấy được tình hình phát triển đội ngũ giảng viên trong những năm qua thông qua
bảng số liệu sau:
Bảng 4: Số lượng giảng viên ở các trường ĐH-CĐ trong giai đoạn 2000-
2004
2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004
Tổng số 32.205 35.938 38.608 39.985
Cao đẳng 7.843 10.392 11.215 11.551
Tiến sỹ 109 158 190 182
Thạc sỹ 1468 1960 2272 2509
Chuyên khoa I & II 56 32 94 19
ĐH-CĐ 6083 7987 8346 8557
Trình độ khác 152 255 313 284
Đại học 24.362 35.546 27.393 28.434
Tiến sỹ 4454 4812 5286 5179
Thạc sỹ 6596 7583 8326 9210
Chuyên khoa I & II 569 586 540 529
ĐH-CĐ 12422 12361 12893 13288
Trình độ khác 321 204 348 228
Nguồn : Trung tâm thông tin Bộ GD&ĐT
Như vậy, số lượng giảng viên ở các trường ĐH-CĐ không ngừng tăng lên
trong thời gian vừa qua.Năm 2000 số lượng giảng viên là 32.205 thì đến năm 2004
con số này đã tăng lên 39.985.Tốc độ tăng qua từng năm trong thời kỳ này là: 2002
so với 2001 là 11,6%; 2003 tăng so với 2002 là 7,43%; 2004 tăng so với 2003 là
3,56%. Do đó tốc độ tăng bình quân của cả thời kỳ này là 7,53%, đây là một tỷ lệ
tăng tương đối cao điều này cho thấy sự phát triển mạnh của đội ngũ giáo viên
trong các trường ĐH-CĐ trong những năm qua. Nhờ có sự phát triển mạnh về đội

ngũ giảng viên nên số SV bình quân trên một giảng viên ĐH-CĐ đạt được là 25,8.
Không chỉ tăng về mặt số lượng mà về chất lượng của đội ngũ giảng viên
cũng không ngừng được tăng lên trong thời gian qua. Qua bảng 4 chúng ta có thể
thấy rằng số giảng viên có trình là độ thạc sỹ và tiến sỹ không ngừng tăng lên,nếu
như năm 2000 giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sỹ mới chỉ có 109 người, trình
độ thạc sỹ là 1468 thì đến năm 2004 con số này là 282 người đạt đến trình độ tiến
sỹ và 2059 giảng viên có trình độ thạc sỹ. Ở bậc ĐH số lượng giảng viên có trình
độ cao còn lớn hơn so với bậc cao đẳng, chỉ tính riêng trong năm học 2003-2004 số
giảng viên có trình độ thạc sỹ là 2010 người và trình độ tiến sỹ là 5179 người. Tính
chung cả ĐH-CĐ thì số lượng giảng viên có trình độ thạc sỹ trở lên chiếm 41,2%
trong tổng số giảng viên. Như vậy số lượng giảng viên có trình độ cao ngày một
tăng ở cả 2 cấp đào tạo là ĐH và CĐ đây cũng là một trong những nhân tố quan
trọng góp phân nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay.
 Về cơ sở vật chất và phương tiện dạy học :
Đã có sự thay đổi so với giai đoạn trước. Đa số các trường đã và đang tiến
hành xây dựng mới; nâng cấp hệ thống giảng đường, ký túc xá, khu vui chơi giải
trí…cả về phần về kiến trúc và trang thiết bị nội thất theo hướng hiện đại. Từ năm
1994 đến nay, các trường đại học, cao đẳng bắt đầu được đầu tư nhằm trang bị một
số trang thiết bị theo các mục tiêu như hệ thống máy vi tính, hệ thống phòng học
ngoại ngữ, nâng cấp cải tạo ký túc xá và đặc biệt là biên soạn giáo trình đại học,
một bộ chương trình mẫu cho giai đoạn một theo nhóm ngành đã được ban hành
tạm thời. Các trường đã và đang dựa vào bộ chương trình này để biên soạn lại
chương trình giảng dạy cho phù hợp.
 Về quan hệ quốc tế :
Thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế kết hợp
với chính sách xã hội hoá giáo dục và tăng cường phân cấp quản lý cho các trường
đại học, nhờ sự cố gắng của các Bộ và sự chủ động của các trường đại học, mà
chúng ta đã mở rộng được quan hệ quốc tế, tranh thủ được sự hỗ trợ của nhiều cơ
sở GDĐH, nghiên cứu khoa học nước ngoài và các tổ chức quốc tế, các nhà khoa
học và các tổ chức, cá nhân tri thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Ngành giáo dục đào tạo nước ta đã có quan hệ hợp tác chính thức với nhiều trường
đại học nổi tiếng trên thế giới. Các hình thức hợp tác được mở rộng đã góp phần
tăng cường cơ sở vật chất cho các trường đại học, hiện đại hoá nội dung chương
trình và phương pháp đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao
năng lực quản lý.
1.1.2. Đánh giá về những mặt chưa được:
Tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận như trên, nhưng sự nghiệp
đào tạo đại học ở Việt Nam vẫn còn những yếu kém, bất cập cần phải khắc phục :
Hiện nay, sự nghiệp GDĐH đang đứng trước những mâu thuẫn lớn, đối mặt
với thách thức gay gắt nhất là giữa yêu cầu vừa phải phát triển về quy mô, vừa phải
đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Nguy cơ tiếp tục bị tụt hậu về kinh tế và thiếu
điều kiện để phát triển các lĩnh vực xã hội còn cao, GDP trên đầu người còn quá
thấp, nên đầu tư cho giáo dục đào tạo cũng như GDĐH tính theo đầu người học rất
thấp, không đủ để trang trải những yêu cầu tối thiểu cần thiết về các điều kiện đảm
bảo chất lượng (như trường sở, thư viện, phòng thí nghiệm, trang thiết bị, giáo
trình, điều kiện thực hành, thực tập, ký túc xá, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên…) trong khi xã hội yêu cầu vừa phải phát triển quy mô vừa phải gấp rút nâng
cao chất lượng nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân
lực trình độ cao của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện công cuộc CNH – HĐH.
Sự mất cân đối giữa phát triển quy mô và các điều kiện bảo đảm sự phát
triển qua nhanh về số lượng sinh viên đại học nhất là ở hai khu vực lớn là Hà nội
và TP.Hồ Chí Minh, dẫn đến sự quá tải về trường lớp ký túc xá, đội ngũ giáo viên,
tăng thêm tình trạng dạy chay, không gắn với đào tạo và sử dụng, sau khi tốt
nghiệp phần lớn sinh viên không muốn đi công tác ở các vùng khác mà cố gắng
bám trụ ở thành phố. Hơn thế nữa, là sự mất cân đối về ngành nghề, cơ cấu xã hội,
cơ cấu vùng, miền, tình trạng kém lạc hậu về trang thiết bị, thư viện, điều kiện tiếp
nhận trực tiếp thông tin qua mạng bị hạn chế, điều kiện thực hành, thực tập khó
khăn do kinh phí đào tạo quá hạn hẹp.
Nội dung chương trình đã đổi mới nhưng ở nhiều lĩnh vực sách giáo khoa,

giáo trình còn lạc hậu. Nhiều thông tin mới chưa được cập nhật trong điều kiện
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và kinh tế xã hội. Phương pháp
dạy và học ở đại học quá lạc hậu, yếu kém, chủ yếu vẫn là tiếp thu một chiều, độc
thoại, thầy giảng trò ghi. Một số trường đại học đã chú trọng thúc đẩy việc cải tiến
phương pháp đào tạo nhưng mới chỉ đưa ra những biện pháp chung, chưa có quy
định và cơ chế rõ ràng và chưa áp dụng một cách linh hoạt.
Đội ngũ cán bộ giảng dạy hiện nay thiếu, tuổi bình quân cao và nói chung
còn hạn chế về trình độ, trong khi số lượng sinh viên tăng lên nhanh chóng. Tốc độ
tăng giữa giáo viên và quy mô sinh viên không tương xứng đã ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giảng dạy và học tập của sinh viên. Cường độ lao động của
giảng viên vì thế cũng tăng lên do đó đã làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả
công tác giảng dạy. Hiện nay, tỷ lệ cán bộ giảng dạy/sinh viên xấp xỉ 1/30, nhiều
trường còn cao hơn lên đến 1/60 trong khi tỷ lệ hợp lý chỉ là 1/15. Bên cạnh đó, số
lượng cán bộ đầu ngành tăng chậm, thậm chí còn có xu hướng giảm ở một số
trường. Những yếu kém đã làm không chỉ những cơ quan chức năng, tổ chức và
bất kỳ ai quan tâm đến sự nghiệp GDĐH cũng đều phải day dứt trong lòng và trăn
trở trong trí óc bởi đó chính là nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn đến tình trạng chất
lượng đào tạo vẫn chưa cao ở bậc đại học nước ta hiện nay.
Chúng ta cần phải nói thêm về chất lượng giảng viên vì đó là một vấn đề cần
được quan tâm. Mặc dù chất lượng đội ngũ giảng viên ngày càng được nâng cao
thông qua việc đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên, nhưng thực tế có sự không
đồng đều về trình độ. Cho tới thời điểm hiện nay mới chỉ có 4,28% giảng viên đại
học, cao đẳng có học hàm Giáo sư, phó giáo sư, 14,18% có trình độ Tiến sỹ. Tuy
nhiên, số lượng giảng viên này chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các trường
đại học lớn và các trường chuyên ngành, các viện nghiên cứu. Số lượng giảng viên
trẻ có học hàm học vị còn quá ít. Chính vì vậy, đây là một vấn đề cần quan tâm là
số lượng giảng viên không thiếu nhưng có nguy cơ thiếu hụt các chuyên gia đầu
ngành.
Sức ép của việc thi vào đại học quá lớn, số lượng thí sinh dự thi cứ năm sau
lại cao hơn năm trước khoảng 20%. Hơn nữa, tiêu chuẩn về trường học, phòng học

và phòng thí nghiệm, thực hành của sinh viên chưa được sửa đổi cho phù hợp với
tiêu chuẩn khu vực nên đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém đó, một mặt là do nội dung chương
trình, phương pháp đào tạo của chúng ta quá lạc hậu. Mặt khác, là do các điều kiện
cơ bản để đảm bảo chất lượng thì còn quá nhiều thiếu thốn. Công tác quản lý giáo
dục còn nhiều bất cập, chậm ban hành các chủ trương chính sách vĩ mô đủ sức
định hướng và xử lý kịp thời các mối tương quan lớn trong GDĐH trong cơ chế
kiểu mới như: số lượng – chất lượng, cung – cầu, chi phí – lợi ích, tập trung – phân
quyền. Nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục còn
chậm được ban hành. Năng lực cán bộ quản lý GDĐH các cấp chưa theo kịp thực
tế phát triển của ngành. Công tác thanh tra, kiểm tra trong GDĐH tuy có được tăng
cường nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Hơn nữa, về mặt khách quan, do nước ta
còn nghèo, thu nhập quốc dân trên đầu người còn quá thấp cho nên nguồn lực tài
chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường còn quá thiếu thốn, eo hẹp.
Trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở
cửa. Các thang giá trị đích thực của nó đang bị đảo lộn. Những giá trị mới chưa
được hình thành vững chắc và ổn định, đủ sức định hướng cho sự phát triển nhân
cách người học. Những khó khăn trong việc cải cách hành chính Nhà nước, quản lý
kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương… đang cản trở việc giải
quyết triệt để những vấn đề cụ thể của GDĐH.
2.2. Thực trạng về khai thác và sử dụng nguồn vốn đầu tư cho GD ĐH
công lập ở nước ta.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
trí tuệ cao, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền
giáo dục tiên tiến gắn liền với nền khoa học, công nghệ hiện đại. Đó là nền giáo
dục thấm nhuần sâu sắc tính nhân dân, tính dân tộc và tính hiện đại. Phát triển
GDĐH đang là một nhiệm vụ quan trọng để đạt được mục tiêu về đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ trí tuệ cao. Định hướng của Đảng về phát triển GDĐH nước ta
là quan điểm đúng đắn mà nhiều nước trong khu vực đã thành công trong việc khôi
phục và phát triển kinh tế như Hàn quốc, Indonesia… Phát triển nguồn nhân lực

của GDĐH thắng lợi là cơ sở và yếu tố cơ bản để thực hiện thành công chiến lược
đi tắt đón đầu trong công cuộc CNH – HĐH nước ta từ nay năm 2020 đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp phát triển.

×