Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.16 KB, 57 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG TIẾN
TRÌNH HỘI NHẬP AFTA
1.1. BẢN CHẤT VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ.
1.1.1. Khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế [14], [15], [36]
Hội nhập kinh tế quốc tế (International integration) là một xu hướng vận
động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay khi q trình
tồn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhanh chóng dưới sự
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Tồn cầu hóa - hội nhập kinh
tế quốc tế là thuật ngữ xuất hiện trong một vài thập kỷ gần đây. Xu thế này ngày
càng là một yếu tố quan trọng và tác động rất lớn đến tư duy và chính sách của các
Chính phủ cũng như của các tổ chức quốc tế trong thế kỷ XXI. Theo tổ chức hợp
tác phát triển kinh tế (OECD) thì “ tồn cầu hóa (globalisation) là q trình diễn ra
do sự thay đổi về công nghệ, tăng trưởng dài hạn liên tục về ĐTNN và nguồn lực
quốc tế, và sự hình thành trên phạm vi rộng lớn với qui mơ tồn cầu những hình
thức mới về các mối liên kết quốc tế giữa các công ty và các quốc gia. Sự kết hợp
này làm tăng quá trình hội nhập giữa các quốc gia và thay đổi bản chất của cạnh
tranh toàn cầu…
Toàn cầu hố có thể được hiểu là q trình hồn thiện tính chỉnh thể của nền
kinh tế thế giới để làm cho tính chất thống nhất và duy nhất của nó được gia tăng
khơng ngừng. Tồn cầu hố liên quan mật thiết với q trình tự do hố và việc loại
bỏ dần tính tách biệt, khác biệt thành sự hội nhập tự giác và hình thành những mối
quan hệ kinh tế tương đồng có tính chất quốc tế. Tồn cầu hoá trước hết được xem
xét về mặt kinh tế nhưng nó cũng có những khía cạnh nhất định liên quan đến khía
cạnh chính trị, lối sống, văn hố và xã hội cũng như tâm lý, thói quen.
Cho đến nay có nhiều khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế. Một cách thơng
thường, có thể hiểu: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế
quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song
phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn



trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế”. Theo quan niệm của Hội
đồng khoa học Đại học Kinh tế Quốc dân thì “Hội nhập kinh tế là quá trình loại bỏ
dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các
nhân tố sản xuất giữa các nước”.
Tuy nhiên, khái niệm tương đối phổ biến, được nhiều nước hiện nay chấp
nhận, đó là: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào
các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các
nước thành viên có sự ràng buộc theo những qui định chung của khối”. Nói cách
khác, hội nhập kinh tế quốc tế là q trình thực hiện chính sách kinh tế mở, tham
gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do
hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Theo khái niệm
này, hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một trạng thái, vừa là một quá trình của sự
phát triển nền kinh tế quốc gia trong mối quan hệ thống nhất với nền kinh tế thế
giới. [4], [14], [21]
Tác giả luận án cho rằng, các khái niệm nêu trên cơ bản là thống nhất với
nhau, sự khác nhau có chăng là do chúng xuất phát từ những khía cạnh khác nhau
và nhấn mạnh một đặc trưng nào đó. Với cách tiếp cận của luận án này, hội nhập
kinh tế quốc tế (international integration) được hiểu như là các chính sách, biện
pháp mà chính phủ thực thi nhằm mở cửa kinh tế hay trở thành thành viên của một
hệ thống tổ chức quốc tế. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với “mở
cửa” và “trao đổi nguồn lực”, không những trên cả lĩnh vực kinh tế mà còn trên các
lĩnh vực khác như văn hóa, khoa học kỹ thuật, và sẽ cịn mở rộng sang các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội.
Từ khái niệm trên, đối chiếu vào quá trình diễn biến của hội nhập kinh tế
quốc tế trên thế giới, có thể thấy bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở
một số khía cạnh sau:
- Hội nhập kinh tế quốc tế là xoá bỏ từng bước và từng phần các rào cản về
thương mại cũng như về đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo điều kiện thuận lợi và đòi hỏi hệ thống

doanh nghiệp phải thích ứng nhanh chóng với các đổi thay của nền kinh tế thế giới,
qua đó mà nâng cao sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo điều kiện thuận lợi và đòi hỏi sự cải cách


nhất định về thể chế kinh tế, trước hết là các chính sách và phương thức quản lý
kinh tế vĩ mơ, qua đó phát triển và hồn thiện thể chế kinh tế thị trường.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho
sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế (khơi dậy nguồn lực bên
trong và thu hút nguồn lực bên ngoài, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ
và kinh nghiệm quản lý tiên tiến).
Tuy nhiên, bên cạnh những khía cạnh tích cực trên, hội nhập kinh tế quốc tế
cũng có thể đưa tới tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế quốc gia, tình trạng lệ
thuộc bên ngoài về kinh tế và chủ quyền quốc gia, tình trạng đối xử thiếu cơng
bằng giữa các thành viên cũng như gây sức ép cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp. Từ khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế nêu trên cần xác
định rõ nội dung của quá trình hội nhập kinh tế để từ đó thấy rõ những cơng việc
cần làm ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị. Trong thực tiễn, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế diễn ra rất phong phú và đa dạng nhưng có thể thấy nó tập trung ở
những nội dung chủ yếu sau đây:
- Tiếp cận thị trường thế giới cả về bề rộng và bề sâu với các thơng tin cập
nhật và có khả năng dự báo được. Nội dung này đặt ra không những đối với cơ
quản lý và hoạch định chính sách mà đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị
sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế đề vừa đảm bảo cho sự tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế trong nước, vừa phát huy lợi thế so sánh và chủ
động tham gia vào phân công lao động quốc tế, nâng cao khả năng xâm nhập thị
trường quốc tế của hàng hoá dịch vụ.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, của từng ngành và
từng doanh nghiệp thông qua việc áp dụng mọi biện pháp để giảm thiểu các chi

phí đầu vào, các chi phí trung gian khơng cần thiết, áp dụng cơng nghệ mới để
nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ, thường xuyên cải tiến mẫu mã, kiểu dáng,
bao bì hàng hố để người tiêu dùng trong và ngồi nước chấp nhận.
- Công tác quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế phải tạo nên sự phản ứng
linh hoạt, chuẩn xác trước những đòi hỏi và diễn biến của thị trường thế giới; phối
hợp có hiệu quả giữa định hướng kế hoạch của Nhà nước với cơ chế thị trường;
thực hiện tốt các cơ chế tự vệ, tránh sự lệ thuộc, tránh bị tổn thương trước tác động


của thị trường thế giới.
- Tạo điều kiện về thể chế, chính sách và tâm lý thuận lợi cho sự phát triển
bình đẳng mọi thành phần kinh tế, trong đó một mặt chú trọng tiếp tục cải cách
doanh nghiệp Nhà nước, một mặt khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, lành
mạnh hoá và nâng cao sức cạnh tranh của tất cả các loại hình doanh nghiệp.
- Tăng cường đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực trong đó đặc biệt
chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao.
Các nội dung nêu trên cần được cụ thể hố trong kế hoạch, chương trình hoạt
động của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung
ương đến địa phương sao cho có sự tính tốn phù hợp với lộ trình hội nhập.
1.1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế [14], [25], [30]
Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều hình thức khác nhau, thể hiện qua các biện
pháp tự do hoá và mở cửa kinh tế đơn phương (nhất là về thương mại và nới lỏng
kiểm soát FDI và các luồng vốn) hay qua việc tham gia các cam kết, thoả thuận song
phương, khu vực và đa phương ở phạm vi tồn cầu. Các loại hình liên kết kinh tế song
phương và khu vực có thể bao gồm việc nới lỏng hoặc xoá bỏ rào cản đối với thương
mại hoặc sự luân chuyển các nhân tố sản xuất (như vốn, lao động) cho đến việc thống
nhất các chính sách kinh tế. Chính vì vậy các loại hình liên kết kinh tế quốc tế cũng
chính là các hình thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế này diễn ra sâu rộng và lan truyền trên phạm vi toàn cầu trong những
thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã tạo ra những xu thế mới như xu thế khu vực hóa và

tồn cầu hóa (regionalisation - globalisation). Sau đây là các hình thức chủ yếu của
hội nhập kinh tế quốc tế (hoặc liên kết kinh tế quốc tế).
Bảng 1- Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
Đặc
Đặc trưng

Hàng hố và
dịch vụ di
chuyển tự do

Thống nhất
chính sách
thuế quan với
các nước
không phải
thành viên

Sức lao
động và
vốn đầu tư
di chuyển
tự do

Thống nhất dự trữ
tiền tệ, phát hành
đồng tiền tập thể,
thống nhất giao
dịch tiền tệ và chính
sách hối đối


Thống nhất và kết
hợp hài hồ các
chính sách kinh tế,
tài khố, tiền tệ,
hình thành cơ cấu
kinh tế khu vực



Khơng

Khơng

Khơng

Khơng

Các
loại hình
Khu vực
mậu dịch tự


do
Đồng minh
thuế quan






Khơng

Khơng

Khơng

Thị trường
chung







Khơng

Khơng

Liên minh
tiền tệ










Khơng

Liên minh
kinh tế











Nguồn: Franklin R.Root, International Trade and Investment South - Western Publishing
Company, 1992 [67].

a-Khu vực mậu dịch tự do (The Free Trade Area - FTA)
FTA là hình thức và mức độ hội nhập đầu tiên và thấp nhất của quá trình
liên kết kinh tế quốc tế khu vực. Trong FTA, các hàng rào thương mại giữa các
nước sẽ bị dẹp bỏ, tiến hành tự do trao đổi giữa các nước. Trên thực tế, FTA được
hình thành do loại bỏ hàng rào thương mại đối với một số hàng hóa hay dịch vụ
nào đó. Ví dụ, FTA khơng có hạn chế về mậu dịch đối với các sản phẩm nông
nghiệp. Đặc điểm đáng chú ý nhất của FTA là mỗi nước có quyền định ra chính sách
của chính mình có liên quan đến các thành viên khơng tham gia trong khu vực. Nói
cách khác các thành viên sẽ đặt bất kỳ thuế quan, hạn ngạch, hoặc những hạn chế
khác mà họ lựa chọn để buôn bán với các nước khơng thuộc FTA đó.
FTA nổi tiếng nhất là FTA Châu Âu (European Free Trade Area - EFTA).

FTA Châu Âu được hình thành vào năm 1960 với sự thỏa thuận của 8 nước châu
Âu (Anh, áo, Đan Mạch, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan);
giữa các nước này khơng có hàng rào thương mại. Sau này, EFTA đã mất dần tầm
quan trọng của nó vì sự ra đời của một tổ chức có mức độ hội nhập cao hơn là
Cộng đồng Châu Âu (European Community) và tiếp theo là Liên minh Châu Âu
(EU - European Union) . Hơn nữa, rất nhiều thành viên của EFTA tìm cách để
tham gia vào Liên minh Châu Âu hoặc hợp tác trong khu vực kinh tế Châu Âu nói
chung.


Một Khu vực mậu dịch tự do FTA điển hình khác là NAFTA (Hiệp ước
thương mại tự do Bắc Mỹ - North American Free Trade Agreement) trên cơ sở
hiệp ước thương mại giữa Mỹ, Canada có hiệu lực vào năm 1989, được mở rộng
với sự tham gia của Mêhicô vào hiệp ước này năm 1994, cịn AFTA chính là Khu
vực mậu dịch tự do của các nước ASEAN được khởi đầu từ 1/1/1993 và cơ bản sẽ
hồn tất lịch trình hội nhập của nó vào năm 2003. Một số nước thành viên của khu
vực này do gia nhập chậm hơn nên tiến trình này có thể kéo dài đến năm 2006 và
năm 2008.
Khu vực mậu dịch tự do là hình thức đơn giản nhất của hội nhập kinh tế
quốc tế, tuy nhiên, để đi đến hình thức hội nhập ổn định này, các quốc gia thành
viên có thể áp dụng một hình thức quá độ là xây dựng khu vực ưu đãi thương mại
hoặc những hình thức tương tự.
b- Đồng minh thuế quan (the Custom Unions)
Đồng minh thuế quan là bước cao hơn trong việc hội nhập kinh tế quốc tế.
Giống như các thành viên trong FTA, các thành viên trong đồng minh thuế quan
cũng loại bỏ hàng rào về thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các nước này. Ví
dụ, Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) ra đời vào năm 1957 bao gồm CHLB Đức,
Pháp, Ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Trình độ liên kết cao hơn của loại hình đồng
minh thuế quan cũng thể hiện ở việc thiết lập một chính sách thương mại chung
cho các thành viên khơng thuộc đồng minh thuế quan đó.

Với hình thức liên kết kinh tế này, chính sách mậu dịch của các nước thành
viên trở thành một bộ phận của chính sách mậu dịch của các nước trong cộng
đồng. Ví dụ, một hình thức thuế nhập khẩu từ các nước khơng thuộc đồng minh
thuế quan thì chịu cùng một thuế xuất nhập khẩu khi bán cho bất kỳ thành viên
nào. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT-General Agreement for
Trade and Tariffs) cũng là một hình thức của liên kết này. Việc chuyển từ Hiệp
định chung về thương mại và thuế quan lên thành Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) có thể làm tăng cường hơn đặc trưng và mở rộng phạm vi của loại hình liên
kết này.
c- Thị trường chung (Common Market)
Bước tiếp theo của chuỗi hội nhập kinh tế quốc tế là thị trường chung


(Common Market). Giống như đồng minh thuế quan, thị trường chung khơng có
hàng rào thương mại giữa các thành viên và có một chính sách đối ngoại chung. Tuy
nhiên, các yếu tố lao động, sản xuất, vốn và công nghệ cũng được dịch chuyển tự do
giữa các nước. Vì thế việc cấm nhập cư, di cư và ngăn cản đầu tư ra nước ngoài giữa
các nước thành viên bị bãi bỏ. Tuy nhiên, tầm quan trọng của sự dịch chuyển giữa
các yếu tố cho sự tăng trưởng kinh tế không thể đề cao quá mức.
Mặc dù đạt được các lợi ích cụ thể, các thành viên trong thị trường chung
phải chuẩn bị hợp tác chặt chẽ trong chính sách tiền tệ, tài chính và việc làm. Thị
trường chung sẽ nâng cao năng suất của tồn thể thành viên nhưng khơng hẳn là bản
thân mỗi nước đạt được lợi ích như nhau. Thị trường chung Châu Âu (EEC) trước
đây là một ví dụ cho hình thức hội nhập này.
d-Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Liên minh tiền tệ là hình thức của liên kết kinh tế quốc tế diễn ra trên lĩnh
vực tiền tệ. Liên minh tiền tệ là một hình thức hội nhập trong đó các nước thành
viên cùng phối hợp và thống nhất các chính sách tiền tệ, giao dịch tiền tệ quốc tế,
dự trữ tiền tệ, phát hành đồng tiền tập thể. Đồng thời, các quốc gia thống nhất
chính sách tỷ giá hối đối, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái được điều tiết trong một

giới hạn nhất định và có những biện pháp can thiệp trong những trường hợp nhất
định để ổn định các quan hệ tiền tệ giữa các thành viên.
Đây là hình thức hội nhập cao hơn so với các hình thức trên đây. Liên minh
tiền tệ Châu Âu là một ví dụ điển hình của loại hình này. Liên minh tiền tệ Châu
Âu đã cho ra đời đồng tiền chung của các nước châu Âu (EURO) kể từ 1/1/1999.
Đồng tiền EURO ra đời đã góp phần làm giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy q trình
tự do hố tài chính và tự do hố thương mại, đầu tư và lao động giữa các nước
thành viên. Kể từ 1/7/2002, các đồng tiền quốc gia của các nước thành viên được
thay thế bằng đồng EURO (12/15 quốc gia).
e- Liên minh kinh tế (Economic Union)
Liên minh kinh tế là hình thức phát triển ở trình độ cao của hội nhập kinh tế
quốc tế và cũng là loại hình cao nhất của liên kết kinh tế. Việc tạo ra liên minh
kinh tế cần sự hội nhập chính sách kinh tế hơn là sự di chuyển hàng hóa, dịch vụ
và yếu tố sản xuất qua biên giới. Liên minh Châu Âu (EU - European Union) được


thành lập từ năm 1993 được coi là một liên kết kinh tế. Thông qua liên minh kinh
tế quốc tế, các thành viên sẽ hịa hợp chính sách tiền tệ, chính sách thuế và chính
sách chi tiêu Chính phủ. Hơn nữa, tất cả các thành viên sẽ sử dụng chung một đơn
vị tiền tệ thống nhất. Điều này có thể thực hiện trong thực tế bởi một tỷ giá hối
đoái cố định. Rõ ràng việc hình thành liên minh kinh tế cần đòi hỏi các quốc gia bỏ
qua một phần lớn chủ quyền quốc gia. Hệ thống chính trị tồn cầu cho đến nay vẫn
dựa trên sự tự chủ và quyền lực tối cao của các quốc gia, bởi vậy việc giảm bớt
quyền lực Nhà nước sẽ chắc chắn luôn gặp phải sự phản ứng gay gắt.
Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu diễn ra đối
với các tổ chức dưới góc độ là một quốc gia. Bởi vì hầu hết các nước trên thế giới
đều nhận thức rằng muốn phát triển hệ thống kinh tế xã hội của mình thì phải mở
cửa ra bên ngoài, tức là tất yếu phải tham gia vào hội nhập. Tuy nhiên, hội nhập
kinh tế quốc tế khơng chỉ có những ảnh hưởng tích cực mà cịn có những ảnh
hưởng tiêu cực đến các quốc gia thành viên, và tất nhiên sự tác động tích cực hoặc

tiêu cực này cũng ảnh hưởng tới các tổ chức có qui mơ nhỏ hơn nằm trong hệ
thống quốc gia đó. Do vậy, hoạt động quản lý các tổ chức hiện nay và tương lai tất
yếu phải phân tích và gắn với xu thế tồn cầu hóa này.
Các loại hình liên kết kinh tế quốc tế nêu trên là những nấc thang của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc sau (đây
cũng chính là 5 nguyên tắc hoạt động của WTO):
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử nhằm đảm bảo sự đối xử bình đẳng
giữa các nước thành viên với nhau cũng như trên thị trường mỗi nước. Nguyên tắc
này được cụ thể thành quy chế tối huệ quốc (tất cả hàng hố, dịch vụ và cơng ty
của các nước đối tác đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng) và quy chế
đối xử quốc gia (tức là không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và người
sản xuất của mình với hàng hố, dịch vụ và người sản xuất nước khác trên thị
trường nội địa).
- Nguyên tắc tiếp cận thị trường nhằm tạo ra một môi trường thương mại mà
bất cứ thành viên nào cũng được tiếp cận (mở cửa thị trường cho nhau và công bố
công khai chính sách và luật lệ thương mại).
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng.


- Nguyên tác áp dụng các hoạt động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết (khi
có đe doạ thái quá từ bên ngoài).
- Nguyên tắc ưu đãi giành cho các nước đang và chậm phát triển (kéo dài
thời gian hoặc mức độ cam kết thấp hơn).
1.1.3. Tính tất yếu của q trình hội nhập kinh tế quốc tế
Tự do hóa thương mại được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và nâng cao mức sống cho mọi quốc gia. Hầu hết các nước trên thế giới đều
điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản
thương mại, làm cho việc luân chuyển hàng hóa và các nhân tố sản xuất trên thế
giới ngày càng thơng thống hơn. Để tránh bị tụt hậu, các nước trên thế giới đang
ngày càng nỗ lực hội nhập vào xu thế chung để tăng cường sức mạnh kinh tế. Quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra từ lâu, đi từ thấp lên cao với những mức độ
và phạm vi khác nhau.
Khu vực mậu dịch tự do được hiểu là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ,
trong đó thuế quan và các quy định hạn chế thương mại được xóa bỏ về cơ bản
trong trao đổi thương mại các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành Khu
vực mậu dịch tự do. Các loại hình liên kết kinh tế tiếp theo ra đời phản ánh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu,
chúng là kết quả của quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá mà động lực bên trong là
sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là của khoa học, kỹ thuật và công
nghệ.
Trên thế giới, q trình quốc tế hóa tiếp tục đang diễn ra với quy mô ngày
càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế thế giới. Quá trình quốc tế hóa này diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu
hướng tồn cầu hóa đi đơi với xu hướng khu vực hóa. Xu hướng khu vực hóa thể
hiện ở việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực với các hình thức đa dạng: Liên
minh Châu Âu (EU), Hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn kinh tế
Châu Á -Thái Bình Dương (APEC)... Xu hướng quốc tế hóa đặt ra một yêu cầu tất
yếu: Mỗi quốc gia phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào
phân công lao động quốc tế, tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực để phát
triển bền vững.


Hiện nay, xu thế hồ bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi
bức xúc của các dân tộc và các nước trên thế giới. Các nước đều cần có mơi trường
hồ bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa; các nền kinh tế ngày càng gắn
bó, tuỳ thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế; các thể chể đa
phương trên thế giới và khu vực có vai trị ngày càng tăng cùng với sự phát triển
của ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường của các dân tộc.
Toàn cầu hoá đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ
quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy

mạnh mẽ q trình chun mơn hố và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực
lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ khoa học công nghệ, đặc
biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau, dẫn
tới sự hình thành những mạng lưới tồn cầu. Trước những biến đổi to lớn về khoa
học công nghệ này, tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào
thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao
động và kỹ thuật trên thế giới ngày càng thơng thống hơn, mở đường cho kinh tế
quốc tế phát triển.
Đại diện cho xu thế tồn cầu hố này là sự ra đời của Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại - GATT vào năm 1948 với 23 nước thành viên sáng lập
với mục tiêu xác lập những nguyên tắc điều chỉnh và thúc đẩy thương mại quốc tế
phục vụ cho phát triển kinh tế của mỗi nước thành viên. Kể từ 1/1/1995, GATT đã
được đổi thành Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) có vai trị điều tiết khơng chỉ
thương mại hàng hố mà mở rộng sang cả thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở
hữu trí tuệ. Đến nay, với 143 nước thành viên chiếm trên 90% tổng kim ngạch
thương mại thế giới, WTO trở thành một tổ chức có qui mơ toàn cầu và là nền tảng
pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế, là diễn đàn thường trực đàm phán thương mại
và là thể chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.
Xu thế khu vực hoá xuất hiện ở những năm 1950, cũng đã và đang phát triển
mạnh mẽ cho tới ngày nay, với sự ra đời của trên 40 tổ chức kinh tế, thương mại
khu vực, trong đó đáng chú ý là sự ra đời của Liên minh châu Âu - EU năm 1993
với 12 nước thành viên (số thành viên dự kiến sẽ tăng lên 25 quốc gia), Hiệp hội
các nước Đông Nam Á - ASEAN năm 1967 với 10 nước thành viên, Diễn đàn hợp


tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương APEC năm 1989 với 21 nước thành viên
chiếm trên 60% GDP và 50% kim ngạch thương mại thế giới, Khu vực thương mại
tự do Bắc Mỹ NAFTA năm 1994.
Các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực đều dựa trên nền tảng của WTO,

tuân thủ các nguyên tắc của WTO, được WTO công nhận, đều nhằm mục tiêu đẩy
mạnh hợp tác, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, tạo lập lợi
thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Các tổ chức khu vực đều đề cập tới các nội
dung trùng với WTO, nhưng mỗi tổ chức đều chọn những lĩnh vực mà mình có lợi
thế hơn để tập trung nguồn lực, hợp tác chiều sâu, theo những phương thức đa
dạng nhằm tạo lợi thế cạnh tranh riêng cho khu vực.
Có thể nói bản chất của các tổ chức quốc tế và khu vực là giải quyết vấn đề
thị trường. Xu thế tồn cầu hố và khu vực hố là sản phẩm của q trình cạnh
tranh giành giật thị trường gay gắt giữa các nước và giữa các thực thể kinh tế quốc
tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sức sản
xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách của vấn đề thị trường tiêu
thụ. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở giao lưu thương mại và đầu tư
ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới có xu thế ngày càng trở thành một thị trường
chung.
Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều phải nỗ lực
hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của
chính mình. Đây thực chất là q trình vừa hợp tác vừa đấu tranh phân chia thị
trường. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ ở Châu Á nửa cuối thập kỷ
90 không những không đảo ngược xu thế liên kết khu vực, liên kết quốc tế về
thương mại, đầu tư trên thế giới mà thậm chí cịn có phần kích thích xu thế đó phát
triển. Tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước tăng lên làm cho tất cả các nước phải
thường xuyên có những cải cách kịp thời trong nước để thích ứng với những sự
biến động trên thế giới.
Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp
phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân
tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan
xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các nước khác. [3], [10], [24]


1.1.4. Những tác động của việc tham gia vào khu vực Mậu dịch tự do

[14], [25], [30]
Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do có những tác động nhất định đối với
các nước tham gia. Những biểu hiện của các ảnh hưởng này rất đa dạng. Những
ảnh hưởng chủ yếu của việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do của một nước
được thể hiện ở việc tạo lập mậu dịch và chuyển hướng mậu dịch
1.1.4.1. Tạo lập mậu dịch
Q trình tạo lập mậu dịch thơng qua việc tham gia vào Khu vực mậu dịch
tự do thể hiện ở việc mở rộng khả năng xuất-nhập khẩu giữa các nước thành viên.
Nhờ việc bãi bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước mà giá cả
hàng hoá lưu chuyển giữa các nước trở nên rẻ hơn trước, nhu cầu của người tiêu
dùng ở các nước vì thế có cơ hội tăng lên. Kết quả của q trình này là khối lượng
các hàng hố và dịch vụ trao đổi giữa các nước được mở rộng. Việc mở rộng hoạt
động xuất nhập khẩu đã làm tăng khả năng khai thác các nguồn lực của các quốc
gia một cách có hiệu quả. Việc tạo lập mậu dịch cịn làm tăng thêm phúc lợi của
các ngành sản xuất nội địa do việc thay thế các ngành có chi phí sản xuất cao bằng
các ngành có chi phí sản xuất thấp hơn. Cơ hội có việc làm của người lao động
tăng lên.
1.1.4.2. Chuyển hướng mậu dịch
Việc tạo lập Khu vực mậu dịch tự do cịn góp phần chuyển hướng mậu dịch
giữa các quốc gia. Điều này được thể hiện ở việc các quốc gia thành viên sẽ trở
thành đối tác buôn bán với nhau thay cho cho các quốc gia không phải là thành
viên. Các điều kiện buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực trở nên thuận tiện
cho sự chu chuyển thương mại nội bộ khu vực. Một quốc gia thành viên sẽ thay thế
việc nhập khẩu hàng hố từ các nước ngồi thành viên có mức giá cao hơn bằng
việc nhập khẩu các hàng hoá của các nước trong khu vực.
Quá trình chuyển hướng mậu dịch do điều kiện thương mại ưu đãi đã tạo
điều kiện để gia tăng lượng hàng hoá, dịch vụ được đưa ra trao đổi giữa các nước
thành viên. Vì vậy, quá trình chuyển hướng mậu dịch cịn bao hàm cả q trình tạo
lập mậu dịch. Tuy nhiên, việc chuyển hướng mậu dịch chỉ mang lại lợi ích cục bộ
cho các quốc gia trong khu vực. Xét trên phạm vi toàn thế giới một cách tổng thể,



khu vực mậu dịch tự do có thể làm giảm phúc lợi toàn thế giới nếu việc thành lập
khu vực này khuyến khích phát triển các ngành sản xuất kém hiệu quả.
Như vậy, quá trình thành lập khu vực mậu dịch tự do có thể gây ra những tác
động nhất định cả trong sản xuất lẫn tiêu dùng. Sự thay thế giữa việc sản xuất các
hàng hoá phục vụ nhu cầu nội địa bằng việc sản xuất các hàng hoá phục vụ cho
xuất khẩu sang các nước bạn hàng thể hiện sự tác động đến sản xuất. Việc chuyển
hướng tiêu dùng hàng hoá nội địa bằng hàng hoá nhập khẩu từ các nước đối tác thể
hiện sự tác động đến tiêu dùng.
1.1.4.3. Các tác động khác
Ngoài hai tác động chủ yếu trên đây, việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự
do còn tạo điều kiện để các nước tiếp nhận vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý từ các nước thành viên. Về lâu dài, tự do thương mại góp phần làm tăng
năng suất lao động xã hội và tăng trưởng kinh tế thông qua khai thác các lợi thế so
sánh quốc gia cũng như khai thác các điều kiện thương mại có lợi giữa các nước
trong khu vực. Ngồi ra, tự do hố thương mại góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thông qua tăng xuất khẩu và tăng năng suất cận biên của hai yếu tố sản xuất cơ
bản là lao động và tư bản. Việc đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất của
từng quốc gia thể hiện:
- Khi tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do, các quốc gia có xu hướng chú
trọng phát triển các ngành sản xuất có hiệu quả cao nhất trên cơ sở các lợi thế so
sánh của các quốc gia trong quan hệ với các nước thành viên. Q trình này cịn
được tăng cường thêm khi các ngành sản xuất được mở rộng được thị trường rộng
quy mơ và do đó cịn tạo ra được hiệu quả kinh tế mới do quy mô sản xuất tăng lên
mang lại. Kết quả của q trình này cịn được thể hiện ở việc tái cấu trúc nền kinh
tế và phát huy những lợi thế của cơ cấu kinh tế hướng ngoại.
- Các ngành sản xuất ở các nước có thể tham gia hoạt động thương mại quốc
tế nội bộ khu vực có hiệu quả cần phải tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao
động và hạ giá thành sản phẩm. Để đạt được mục tiêu đó, các ngành sản xuất phải

nhanh chóng áp dụng khoa học – cơng nghệ mới, tiếp thu những kinh nghiệm quản
lý tiên tiến và phải xây dựng các chiến lược kinh doanh thích hợp.


- Việc mở rộng xuất khẩu sẽ góp phần làm thăng bằng cán cân thanh toán
quốc tế của quốc gia, tăng dự trữ ngoại tệ và làm năng động hoá các hoạt động tín
dụng, tài chính trong nội bộ và giữa các nước. Mở rộng xuất khẩu là cơ sở để tăng
nguồn vốn tích luỹ cho đầu tư phát triển. Đây là cơ sở để tăng trưởng kinh tế ổn
định và bền vững của các quốc gia.
Bên cạnh những lợi ích kinh tế chủ yếu do tham gia vào Khu vực mậu dịch
tự do mang lại trên đây, các quốc gia khi tham gia vào liên kết kinh tế khu vực cần
xử lý khơng ít những vấn đề phát sinh bao gồm:
- Điều chỉnh lại các cân đối lớn trong nền kinh tế khi xoá bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, thay đổi chính sách tài khố, chính sách tỷ giá hối đối...
- Giải quyết tình trạng việc làm cho người lao động và tái đào tạo lại đội ngũ
lao động theo những mục tiêu phát triển đạt ra của các nước trong cộng đồng.
- Thiết lập các khuôn khổ chung với các nước thành viên bao gồm hệ thống
pháp luật chính sách, các loại quy định về thủ tục hải quan, tiêu chuẩn kỹ thuật,
môi trường sinh thái, giáo dục đào tạo, văn hoá - khoa học...
- Giải quyết những vấn đề liên quan đến sự bình đẳng, cơng bằng giữa các
thành viên trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ khu vực cũng như xử lý
những vấn đề trong quan hệ giữa các nước thành viên trong khu vực với các nước
ngoài khu vực.
Tóm lại việc tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế nói chung và khu vực mậu
dịch tự do nói riêng ln ln mang lại cho các quốc gia những lợi ích, thiệt hại
cũng như tạo ra cho chúng những cơ hội và những thách thức nhất định. Mỗi quốc
gia cần phải cân nhắc, lựa chọn để đưa ra cách thức tham gia vào khu vực mậu
dịch tự do một cách phù hợp để vừa tối đa hoá được các lợi ích, giảm bớt những
thiệt hại, khai thác được các cơ hội và vượt qua được những thách thức nhằm đạt
được những mục tiêu phát triển của quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Sự khác nhau

về điều kiện phát triển của các quốc gia đưa đến một cách thức hội nhập khác nhau
giữa chúng.
1.2. HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI AFTA


AFTA là tên viết tắt Tiếng Anh của Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
(ASEAN Free Trade Area - AFTA) bao gồm 10 nước ASEAN: Brunei
Darussalam, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippin,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Để hoàn thành AFTA, các nước ASEAN cùng
thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT (Common
Effective Preferential Tariffs). Theo đó, các nước ASEAN sẽ dần dần cắt giảm
thuế quan xuống 0-5%, dỡ bỏ các rào cản thương mại và hài hịa hóa các thủ tục
hải quan trong vịng 10 năm để hàng hóa được tự do lưu thơng giữa các nước thành
viên.
1.2.1. Mục tiêu của AFTA [64], [65]
Xu hướng tồn cầu hố nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thách thức to lớn
đối với ASEAN trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thị
trường quốc tế và tính hấp dẫn đối với đâù tư nước ngồi. Chính vì vậy, tại Hội
nghị thượng đỉnh lần thứ tư tại Singapore, ngày 28/1/1992, nguyên thủ các nước
ASEAN đã có một quyết định quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa mức độ hợp tác
trong lĩnh vực thương mại, đó là thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) thông qua việc ký kết Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung (CEPT).
Những mục tiêu kinh tế trực tiếp của AFTA là:
- Tự do hố thương mại ASEAN thơng qua việc loại bỏ các hàng rào thuế
quan trong nội bộ khu vực và sau đó là các hàng rào phi thuế quan;
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối
thị trường thống nhất;
- Tạo điều kiện để ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế
đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực (RTA)

trên thế giới.
Trong ba mục tiêu trên, mục tiêu đầu tiên không phải và mục tiêu quan trọng
nhất của AFTA bởi vì thị trường của ASEAN khơng lớn vì nguồn cung các sản
phẩm chế tạo nằm ngoài khu vực. Hơn nữa mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao, song
phần lớn các nước trong khu vực vẫn là các nước đang phát triển cho nên phụ
thuộc nhiều vào đầu tư, cơng nghệ, bí quyết quản lý của nước ngồi.


Mục tiêu thu hút đầu tư nước ngo ài là mục tiêu trung tâm của AFTA. Điều
này chủ yếu là do áp lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài của các nước.
Khi AFTA trở thành một khu vực sản xuất thống nhất, q trình chun mơn hố
sản xuất nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế khác nhau
trở nên hợp lý hơn.
Mục tiêu thứ ba gắn với các yếu tố không thuận lợi của môi trường thương mại.
Các nước phát triển trên thế giới thiên về phát triển các thoả thuận thương mại khu
vực để bảo hộ thị trường đối với các sản phẩm của các nước Đông á. Sự ra đời của
AFTA đáp lại khuynh hướng tăng lên của chủ nghĩa khu vực trên thế giới.
Theo xu hướng mở rộng liên kết giữa các nước, đặc biệt là với sức ép của
các tổ chức thương mại khác như tổ chức thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đã đẩy nhanh tốc độ thực hiện
của AFTA và chắc chắn sẽ đưa AFTA tiến tới cấp độ liên kết kinh tế cao hơn theo
đúng quy luật vận động kinh tế quốc tế.
Các quy định chung về AFTA
Khu vực mậu dịch tự do AFTA được hình thành thơng qua các yếu tố sau
đây:
- Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT - The Common
Effective preferential Tariff Scheme);
- Thống nhất và cơng nhận tiêu chuẩn hàng hố giữa các nước thành viên;
- Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau;
- Xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương.

- Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô.
Để thực hành thành công Khu vực mậu dịch tự do AFTA, Hội nghị Bộ
trưởng kinh tế các nước ASEAN (AEM) đã quyết định ký chương trình thuế quan
ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) vào năm 1992. Trong thời kỳ 15 năm kể từ
1/1/1993, thuế xuất - nhập khẩu giữa các nước trong khu vực sẽ được giảm xuống
còn 0-5% và các hàng rào phi thuế quan sẽ được loại bỏ đối với một diện rộng các
sản phẩm chế tạo. Vào năm 1994, ASEAN đã quyết định đẩy nhanh kế hoạch cắt
giảm thuế quan này ở mức 0-5% vào năm 2003. Như vậy, cơng cụ chính để thực


hiện AFTA là cắt giảm thuế quan trong thương mại nội bộ khu vực xuống còn 05%. Gắn với việc cắt giảm thuế quan, việc loại bỏ các hàng rào thương mại và việc
hợp tác trong lĩnh vực hải quan cũng đóng vai trị quan trọng trong khi xây dựng
một khu vực mậu dịch tự do. Điểm cần lưu ý ở đây là AFTA không phải và một
liên minh thuế quan, vì vậy từng nước trong khu vực vẫn có quyền tự do thực hiện
chính sách thuế của mình đối với từng phần còn lại của thế giới.
AFTA được thành lập nhằm đạt được những mục đích kinh tế sau:
- Tăng cường buôn bán trong nội khối ASEAN bằng việc cắt giảm thuế quan
và dỡ bỏ các rào cản thương mại;
- Biến ASEAN thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngồi để hợp lý hóa sản
xuất, chun mơn hóa trong nội khối ASEAN và khai thác các thế mạnh của các
nền kinh tế trong khu vực.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức của AFTA [30], [32], [46], [55], [66]
Hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ tư ngày 28/1/1992 tại Singapore để theo dõi, phối hợp và báo cáo
việc thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Hội đồng
AFTA là cơ quan cấp Bộ trưởng, gồm đại diện của các nước thành viên và Tổng
thứ ký ASEAN. HộiBộ trưởngKinh tế (ASEM)Các nướcnhất mỗi năm một lần và báo
Hội nghị đồng họp khi cần thiết, nhưng ít ASEAN
cáo trực tiếp lên Hội nghị Bộ trưởng kinh tế (AEM). Việt Nam cử Bộ trưởng Bộ
Tài chính tham gia Hội đồng AFTA.

Sơ đồ 1- Cơ cấu thể chế của hợp tác kinh tế ASEAN
UB Điều phối về đầu tư (AIA) Hội đồng AFTA(AFTA Council)
Phịng Thương mại và cơng nghiệpASEAN (CCI)

Điều phối về CEPT để thực hiện nghị các quan chức cấp cao ASEAN UB Điều phối về dịch vụ (CCS)
Hội AFTA (CCCA)
(SEOM)

Ban thư ký ASEAN(ASEAN Secretariat)

Các thể chế khác

Các nhóm cơng tác

Các UB Tư vấn


1.2.3. Những đặc điểm chủ yếu của AFTA
Khối mậu dịch tự do (AFTA) ban đầu gồm những thành viên của Hiệp hội
các nước Đơng Nam Á (ASEAN) và sau đó kết nạp thêm Việt Nam, Lào,
Campuchia và Mianma. Với 430 triệu dân, diện tích 3,5 triệu km2, thu nhập bình
qn đầu người là 1.680USD (số liệu năm 2000), khu vực mậu dịch tự do AFTA
lớn hơn Khu vực buôn bán tự do bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu âu (EU) về
dân số và diện tích nhưng thấp hơn về thu nhập bình quân đầu người từ 10-15 lần.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN nằm trong vòng cung Châu Á- Thái Bình
Dương, là khu vực phát triển năng động nhất thế giới trong hai thập kỷ vừa qua.
với vị trí đầy triển vọng này, khu vực AFTA là nơi thu hút sự chú ý của các liên
minh kinh tế thế giới, các cơng ty, các tập đồn đa quốc gia cũng như cả cộng đồng
quốc tế. AFTA sẽ là khối mậu dịch “hạt nhân” của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á - Thái Bình dương (APEC)

Các nền kinh tế của các thành viên ASEAN vừa bổ sung cơ cấu kinh tế lẫn
nhau, vừa cạnh tranh kinh tế với nhau. Thái Lan xuất khẩu gạo sang Malaysia. Việt
Nam xuất khẩu gạo sang Phipippin. Thái Lan và Việt Nam có sự cạnh tranh với
nhau trong xuất khẩu gạo ngay trong nội bộ khối AFTA. Việc thực hiện Hiệp định
AFTA sẽ vừa mở rộng mậu dịch vừa chuyển hướng mậu dịch trong khối và giữa
khối AFTA với các phần còn lại của thế giới.


Lĩnh vực hợp tác trong khối AFTA rất đa dạng bao gồm hợp tác trong lĩnh
vực thương mại, đầu tư dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giao thơng vận tải, bưu chính viễn
thơng, cơng nghiệp, nơng nghiệp, lâm nghiệp, phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ,
trao đổi thơng tin... nhưng việc thực hiện tự do hố thương mại thơng qua việc tiến
hành cắt giảm thuế quan theo Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) dự kiến sẽ hoàn tất việc cắt giảm thuế quan đến mức 0-5% voà năm 2003
(trừ Việt Nam kéo dài đến năm 2006) quyết định trực tiếp đến tiến trình liên kết
thực thế của khối mậu dịch AFTA trong nền kinh tế thế giới. Chắc chắn rằng,
AFTA không chỉ dừng lại ở một Khu vực mậu dịch tự do mà sự phát triển toàn
diện các lĩnh vực đã được đặt ra sẽ dẫn AFTA đến một Liên minh kinh tế theo
đúng quy luật của sự hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nền kinh tế thành viên trong khối mậu dịch tự do AFTA có sự chênh
lệch về trình độ phát triển, khác nhau về khả năng xuất khẩu, về mức độ cạnh tranh
của hàng hố trên thị trường, tiềm lực tài chính, tiềm lực công nghệ, những nguyên
tắc ứng xử tối cao trong nội bộ khối là nguyên tắc “đối đẳng”, “ tơn trọng lẫn nhau
và các bên cùng có lợi”.
AFTA đang ở trong giai đoạn đầu của sự thành lập và hoạt động do đó sẽ
cịn chịu sự ảnh hưởng của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) có quy mô và phạm vi lớn hơn mà
những tổ chức này đang trong q trình hồn thiện cho nên việc phát triển AFTA
cũng gần với việc tạo ra những khuôn khổ mới cả về chiều rộng và chiều sâu cho
sự phát triển lâu dài của khối thích hợp với điều kiện trong nội bộ khối và thích

hợp với khn khổ chung của cơ chế thương mại liên châu lục và cơ chế thương
mại tồn thế giới.
Tiến trình hội nhập vào AFTA của các nước ASEAN
Tiến trình hội nhập vào AFTA của các nước ASEAN thể hiện tập trung ở
tiến trình cắt giảm thuế quan và các hạn chế phi mậu dịch. Tiến trình cắt giảm thuế
quan được chia làm hai loại:
- Đối với danh mục hàng hố cắt giảm bình thường:
Các loại sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 0% vào ngày
1/11/1998 và sau đó xuống cịn 0-5% vào 1/1/2003.


Các loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dưới mức 20% được giảm xuống
đến 0-5% vào 1/1/2000
- Đối với danh mục hàng hoá cắt giảm nhanh: Các sản phẩm có tỷ lệ thuế
trên 20% được giảm xuống 0-5% vào 1/1/2000. Các sản phẩm có tỷ lệ thuế ở mức
20% hoặc thấp hơn được giảm đến 0-5% vào 1/1/1998.
Điểm cần lưu ý ở đây là tiến trình cắt giảm thuế quan của AFTA đã rút
xuống từ 15 năm đến 10 năm. Các nước trong khối AFTA ứng xử với tiến trình
này ở những mức độ khác nhau.
Đối với các nước như Malaixia, Sigapore, Thái Lan,, Brunei là những nước
phát triển nhất trong khối có thu nhập bình qn đầu người trên 3.000 USD tham
gia vào tiến trình hội nhập AFTA một cách khá thuận lợi. Hầu như sự chuẩn bị của
các nước này đã khá ổn định và được sắp đặt theo một kế hoạch lâu dài và rộng lớn
cho cả việc gia nhập vào AFTA lẫn cho APEC và WTO. Các nước này đang có
khả năng đầu tư lớn ra nước ngồi (Brunây có dự trữ ngoại tệ khoảng 30 tỷ USD).
Đây là những nước khá “bình tĩnh và hăng hái” trong gia nhập vào AFTA. Tiến
trình hội nhập vào AFTA chủ yếu do các nước này thiết kế theo phương châm rút
ngắn tối đa thời gian hội nhập. Hai nước Philippine và Indonesia có thu nhập bình
qn đầu người thấp nhất trong khối trước khi có Việt Nam tham gia, nhưng vẫn
trên 1.000 USD (nghĩa là cao hơn Việt Nam khoảng 4 lần) và mong muốn hội nhập

vào AFTA một cách chậm hơn. Đây là những nước có tiến trình hội nhập sát với
Việt Nam hơn do có những vấn đề của nền kinh tế trong nước phải tiếp tục giải
quyết.
Indonesia có số dân khoảng 200 triệu người, nước có số dân lớn nhất trong
khối AFTA hiện đang có chính sách giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng để giảm bớt
thâm hụt ngân sách quốc gia. Indonesia vẫn còn thâm hụt ngân sách do nhập khẩu
tư liệu sản xuất ở nước nước ngồi tăng lên . Chính sách cổ phần hoá đang được
tăng cường ở Indonesia để tăng thu cho ngân sách của chính phủ.
Philippin có thu nhập bình quân đầu người 1070 USD, dân số tương đương
với Việt Nam đang cố gắng thực hiện cải cách hệ thống thuế và áp dụng thuế giá
trị gia tăng (VAT). Theo tính tốn của các chun gia kinh tế Philippin, 10% lượng
thuế VAT sẽ áp dụng cho các hàng hoá và dịch vụ tính từ thời điểm có hiệu lực của
AFTA (1/1/1996) lượng thuế này dự kiến sẽ thu được 300 triệu USD mỗi năm. áp


dụng thuế VAT là điểm then chốt của cải cách hệ thống thuế của Philippin.
Khoảng thời gian được tính tốn để thực hiện thành cơng chính sách cải cách thuế
này là 5 năm. trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngồi, Philippin quy định một
cơng ty nước ngồi mn tham gia khu vực bán lẻ dưới hình thức doanh nghiệp
100% vốn nước ngồi phải có số vốn ít nhất là 10 triệu USD. Đồng thời, Philippin
còn cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập các chi nhánh trong nước và cải
cách thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư dưới các kênh khác nhau.
1.2.4. Chương trình CEPT [2], [6], [7], [32], [49]
a. Nội dung loại bỏ hàng rào thuế quan:
Những nội dung chính trong việc loại bỏ hàng rào thuế quan của AFTA
được hoạch định như sau:
Các nước thành viên ASEAN sẽ thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu cho hàng
hố có xuất xứ ASEAN theo lộ trình trong vịng 15 năm để xuống tới 0-5%. Việc
cắt giảm thuế bắt đầu từ ngày 1/1/1993 và hoàn thành vào ngày 1/1/2008.
Tuy nhiên, trước xu hướng tự do hố thương mại tồn cầu đang được thúc

đẩy mạnh mẽ và xuất phát từ nhu cầu tăng cường hợp tác phát triển của các thành
viên, ASEAN đã quyết định đẩy nhanh q trình tự do hố thương mại trong khu
vực. Đặc biệt, sau Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 năm 1998, thời hạn này đã được
đẩy nhanh, đến ngày 1/1/2003 cho 6 thành viên cũ, bao gồm Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore, Thailand và Brunei. Với Việt Nam thời hạn hoàn thành cắt
giảm thuế quan là năm 2006.
Phạm vi áp dụng của Hiệp định CEPT trong AFTA bao gồm tất cả các hàng
hố có xuất xứ ASEAN, bao gồm hàng hố công nghiệp, các sản phẩm nông
nghiệp chế biến. Riêng đối với nơng sản chưa chế biến mang tính chất nhạy cảm
với nền kinh tế của các nước ASEAN, tới tận AEM - 26 ngày 22-23/9/1994, các
nước mới đưa loại sản phẩm này vào phạm vi thực hiện Hiệp định CEPT với
những qui định đặc biệt riêng về thời hạn bắt đầu và kết thúc cắt giảm thuế, mức
thuế suất bắt đầu và khi hoàn thành cắt giảm. Các sản phẩm được xác định là cần
thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc
sống của con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật,
lịch sử và khảo cố học của các nước thành viên ASEAN sẽ không được đưa vào
Hiệp định CEPT.




Các danh mục hàng hoá:
Để triển khai AFTA, các nước ASEAN phân loại các hàng hoá trong biểu
thuế nhập khẩu thành bốn danh mục với lộ trình cắt giảm được xây dựng cho từng
danh mục cụ thể. Nội dung và lộ trình cắt giảm thuế của từng danh mục như sau:



Danh mục cắt giảm ngay (IL-Inclusion list): gồm các sản phẩm mà các nước
thành viên đã sẵn sàng cắt giảm thuế. Việc cắt giảm thuế của các sản phẩm thuộc

Danh mục này được chia thành hai lộ trình: lộ trình cắt giảm bình thường và lộ
trình cắt giảm nhanh.
+ Lộ trình cắt giảm bình thường: theo Hiệp định được ký kết, việc cắt giảm
thuế xuống 0 – 5% sẽ được thực hiện trong vịng 15 năm, sau đó đẩy nhanh mốc
hoàn thành vào ngày 1/1/2003 đối với ASEAN-6. Đối với các nước thành viên mới
gia nhập ASEAN, thời hạn này chậm hơn, tới ngày 1/1/2006 cho Việt nam, ngày
1/1/2008 cho Lào, Mianma và ngày 1/1/2010 cho Campuchia.
+ Lộ trình cắt giảm nhanh: Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư đã xác
định 15 nhóm mặt hàng cần cắt giảm thuế nhanh trong vịng bảy năm, đó là: dầu
thực vật, hố chất, phân bón, sản phẩm cao su, giẩy và bột giấy, đồ gỗ và song
mây, đá quí và đồ trang sức, xi măng, dược phẩm, chất dẻo, các sản phẩm bằng da,
hàng dệt, các sản phẩm gốm và thuỷ tinh, điện cực đồng, hàng điện tử (Việt Nam
không tham gia lộ trình cắt giảm nhanh).



Danh mục loại trừ tạm thời (TEL- Temporary Exclusion List): là danh mục
gồm các sản phẩm mà các nước chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay. Theo quyết
định của Hội nghị Bộ trưởng AEM – 26 từ ngày 22 đến 23/9/1994, danh mục này
sẽ được chuyển dần sang Danh mục cắt giảm ngay trong vòng 5 năm, kể từ ngày
1/1/1996 đến ngày 1/1/2000 đối với ASEAN-6.



Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL - General Exception List): là danh mục
các sản phẩm sẽ không được đưa vào tham gia AFTA vì lý do bảo vệ an ninh quốc
gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của con người và động
thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ học.




Danh mục nhạy cảm (SEL - Sensitive Exception List): Hiệp định CEPT khi
được ký kết không bao gồm các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến trong phạm
vi từng nước. Tuy nhiên, xuất phát từ nhận thức về vai trị của hàng nơng sản chưa


chế biến đối với phần lớn các nước ASEAN, cũng như do số lượng các nhóm mặt
hàng lớn, thuế quan nhập khẩu cao được các nước áp dụng đối với những mặt hàng
này, tại hội nghị AEM–26 ngày 22-23/9/1994, các Bộ trưởng Kinh tế đã quyết định
đưa nông sản chưa chế biến vào phạm vi của Hiệp định CEPT để thực hiện AFTA.
Theo quyết định tại Hội nghị này, các sản phẩm nông sản chưa chế biến được phân
loại thành ba danh mục: Danh mục cắt giảm ngay, Danh mục loại trừ tạm thời và
Danh mục nhạy cảm.
Đối với hai danh mục đầu, lộ trình cắt giảm thuế sẽ thực hiện theo lộ trình
chung cùng với các mặt hàng khác thuộc danh mục, tức là sẽ đạt đến mức thuế 0 –
5% vào năm 2002 cho các nước ASEAN-6, năm 2006 cho Việt nam, năm 2008
cho Lào và Mianma.
Đối với các sản phẩm trong Danh mục nhạy cảm, việc cắt giảm sẽ được xử
lý theo cơ chế riêng. Các nước đã nhất trí về sự cần thiết phải có một thoả thuận
đặc biệt đối với việc cắt giảm thuế cho Danh mục này. Tại Hội nghị Hội đồng
AFTA lần thứ 4 năm 1996, các nước đã nhất trí thời hạn để đưa các sản phẩm hàng
hoá trong Danh mục này vào Hiệp định CEPT từ 1/1/2010. Trên cơ sở các tiến
triển từ Hội nghị này, tại Hội nghị AEM-31 tháng 9/1999, các Bộ trưởng kinh tế
ASEAN đã chính thức ký kết Nghị định thư về các sản phẩm nhạy cảm và nhạy
cảm cao để thể chế hố lộ trình cắt giảm thuế quan các sản phẩm nông nghiệp nhạy
cảm theo Hiệp định CEPT.


Vấn đề dành thời gian cho thành viên mới để triển khai các chương trình hợp tác:
Một nguyên tắc được các nước ASEAN chấp thuận đó là căn cứ vào thời

điểm gia nhập, tình hình phát triển kinh tế – xã hội của các thành viên mới mà các
nước thành viên luôn tạo điều kiện về mặt thời gian để các thành viên mới này có
đủ thời gian thực hiện các chương trình hợp tác.
Đối với Việt Nam, vì tham gia thực hiện Hiệp định CEPT chậm hơn các
nước thành viên khác 3 năm (bắt đầu tư ngày 1/1/1996), do đó thời hạn thực hiện
các lộ trình cho các danh mục bên trên, cũng như thời hạn hoàn thành AFTA được
chấp nhận sẽ chậm hơn các nước thành viên cũ ở mức tương ứng. Thời hạn hoàn
thành AFTA (tức là tất cả các dòng thuế trong IL đạt 0 – 5%) của Việt Nam là năm
2006. Cũng như vậy, thời hạn hồn thành chuyển tồn bộ các dịng thuế từ TEL


sang IL là năm 2003, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục này phải được
chuyển vào IL.
Đối với các thành viên mới là Lào và Mianma sẽ bắt đầu thực hiện Hiệp
định CEPT từ ngày 1/1/1998 và kết thúc vào ngày 1/12008. Campuchia bắt đầu
thực hiện CEPT từ ngày 1/1/2000 và kết thúc vào ngày 1/1/2010.


Vấn đề đẩy nhanh AFTA
Hiện nay trong ASEAN có xu hướng thúc đẩy nhanh hơn nữa việc triển khai
thực hiện AFTA để thúc đâỷ thương mại trong nội bộ khu vực, tăng tính cạnh
tranh, thu hút đầu tư nước ngoài và đáp lại thách thức của các khu vực kinh tế
khác. Cho tới nay, nội dung này tập trung vào một số điểm chính như sau:



Đẩy nhanh mốc thời gian hồn thành AFTA, tức là thời điểm mà các thành
viên đạt thuế nhập khẩu CEPT từ 0 – 5% như vừa trình bày ở trên. Từ mốc thời
gian là năm 2008 trước đây, đến nay các thành viên ASEAN đã đẩy nhanh thời hạn
này tới năm 2002 cho ASEAN-6, năm 2006 cho Việt Nam và năm 2008 cho Lào

và Mianma.



Đẩy nhanh việc chuyển các dòng thuế trong Danh mục loại trừ tạm thời sang
Danh mục cắt giảm ngay.



Chuyển các mặt hàng trong Danh mục nhạy cảm sang các danh mục khác,
đồng thời đẩy nhanh việc cắt giảm thuế cho các mặt hàng còn lại trong danh mục
này.



Rà sốt lại và giảm các mặt hàng trong Danh mục loại trừ hoàn toàn, chỉ giữ
lại những mặt hàng được xác định theo Điều 9 của Hiệp định CEPT.



Giảm thuế các mặt hàng theo CEPT xuống 0% vào năm 2010 đối với các
nước thành viên cũ ASEAN-6 và năm 2015 với các thành viên mới.



Thực hiện các chương trình thuận lợi hố thương mại, bao gồm các thoả
thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và hợp chuẩn, hài hồ về hải quan và nhiều
chương trình khác.




Điều kiện để các sản phẩm được hưởng ưu đãi trong khuôn khổ CEPT/AFTA
Để được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu theo Hiệp định CEPT, các sản phẩm
cần phải thoả mãn đồng thời các điều kiện cơ bản sau đây:




Thực hiện nguyên tắc có đi có lại, tức là: một sản phẩm muốn được hưởng ưu
đãi thuế nhập khẩu phải là sản phẩm đồng thời có trong danh mục cắt giảm thuế của
cả nước xuất khẩu và nhập khẩu, và sản phẩm đó phải có thuế suất dưới 20%.



Sản phẩm đó phải thoả mãn qui chế xuất xứ ASEAN, tức là phải có ít nhất
40% thành phần của nó có xuất xứ từ các nước ASEAN (tính gộp các nước). Trên
cơ sở thành phần xuất xứ này, các sản phẩm phải có giấy chứng nhận xuất xứ (mẫu
D) do cơ quan được chính phủ của từng nước cho phép cấp.
b. Nội dung loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (NTBs):
Để tiến tới việc hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định
mục tiêu loại bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn chế số lượng, hạn ngạch giá
trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng… trong vịng 5
năm sau khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan.
Với mục tiêu được đưa ra theo Hiệp định, năm 1995 các nước ASEAN đã
thành lập Nhóm cơng tác về vấn đề các hàng rào phi thuế quan để xác định và xây
dựng chương trình huỷ bỏ các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại
khu vực. Dựa trên kết quả làm việc của Nhóm cơng tác, các nước đã xác định
nhiều biện pháp ảnh hưởng rộng và chủ yếu đối với thương mại hàng hoá trong
khu vực ASEAN là phụ thu haỉ quan và các hàng rào cản trở thương mại (TBT).
Năm 1995, phụ thu hải quan được áp dụng trên 2683 dòng thuế và các hàng rào

cản trở thương mại (bao gồm cả các yêu cầu về đặc điểm sản phẩm) ảnh hưởng tới
trên 975 dòng thuế của các nước. Trên cơ sở đó, tại phiên họp Hội đồng AFTA lần
thứ tám, các nước ASEAN đã thống nhất quyết định thời hạn loại bỏ các hàng rào
cản trở thương mại là hết năm 2003.
Bảng 2 - Các hàng rào phi thuế quan phổ biến nhất của ASEAN theo dòng thuế
Hàng rào phi thuế quan

Số dòng thuế bị ảnh hưởng

Phụ thu hải quan

2683

Phụ phí

126

Nhập khẩu theo kênh độc quyền

65

Điều hành của thương mại nhà nước

10


×