Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.05 KB, 67 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA
VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP WTO
1. Hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
1.1. Khái niệm hàng nông sản
Hàng nông sản là sản phẩm của ngành nông nghiệp. Nếu hiểu theo nghĩa
hẹp thì nông nghiệp chỉ có ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trong nông
nghịêp. Theo nghĩa rộng thì nó còn bao gồm cả ngành lâm nghịêp và thủy sản.
1.2. Phân loại hàng nông sản
Các mặt hàng nông sản tạm thời được chia thành hai nhóm:
Nông sản nhiệt đới, chủ yếu từ các nước đang phát triển như: chè, cà phê,
ca cao, bông, chuối, xoài…
Nông sản ôn đới, chủ yếu từ các nước phát triển như: bột mỳ, ngô, thịt,
sữa…
1.3. Đặc điểm của mặt hàng nông sản
Tính thời vụ: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là một đặc thù
điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, vì một mặt quá trình sản xuất nông
nghiệp là qúa trình sản xuất kinh tế gắn liền với quá trình tái sản xuất tự nhiên,
thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không hoàn
toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Mặt khác do sự
biến thiên về điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi loại cây trồng lại có sự thích ứng nhất
định với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Vì vậy mà hàng nông
sản mang tính thời vụ cao.
Tính khu vực: Sản xuất nông nghiệp đựơc tiến hành trên địa bàn rộng lớn,
phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Ở đâu
có đất đai và lao động là ở đó tiến hành sản xuất nông nghiệp. Nhưng mỗi vùng,
mỗi quốc gia có điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết rất khác nhau nên hoạt động
sản xuất nông nghiệp cũng khác nhau, sản phẩm nông nghiệp cũng khác nhau.
Vì vậy sản phẩm nông nghiệp mang tính khu vực rõ rệt.
Tính phân tán: Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực cao,
nên hàng nông sản phân tán ở vùng nông thôn và trong tay hàng triệu nông dân
đã trở thành một trở ngại trong việc thu mua hàng nông sản của các doanh


nghiệp.
Tính tươi sống: Hàng nông sản phần lớn là cơ thể sống cây trồng và vật
nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát sinh, phát triển theo quy luật sinh học. Do
là cơ thể sống nên chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về
thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi,
đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Vì vậy hàng nông sản dễ bị hư hỏng,
kém phẩm chất.
Tính không ổn định: Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều
vào khí hậu, thời tiết nên sản phẩm hàng nông sản không ổn định, lên xuốn thất
thường, có nơi được mùa nhưng cũng có nơi mất mùa, chất lượng hàng nông
sản không đồng đều.
Các mặt hàng nông sản như: Gạo, cà phê, cao su, điều…là những hàng hoá
thiết yếu đối với đời sống và sản xuất của mỗi quốc gia, cho nên đa số các nước
trên thế giới đều trực tiếp hoạch định các chính sách can thiệp vào sản xuất, xuất
khẩu lương thực và nước nào cũng chú trọng chính sách dự trữ quốc gia và bảo
hộ nông nghiệp. Mặt hàng nông sản là mặt hàng chủ yếu của các nước chậm và
đang phát triển, nó chủ yếu được sản xuất và tiêu thụ trong nội địa là chính, có rất
ít quốc gia có khả năng xuất khẩu ra bên ngoài. Hàng nông sản là một trong
những mặt hàng có tính chiến lược, do vậy đại bộ phận buôn bán hàng nông sản
quốc tế được thực hiện thông qua hiệp định giữa các Nhà nước mang tính dài
hạn.
Tình hình buôn bán, sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản phụ thuộc vào tính
thời vụ, mùa màng thu hoạch, phụ thuộc vào nhu cầu và điều kiện thanh toán của
từng quốc gia nhập khẩu là chính, như: lạc, các nước nhập khẩu chủ yếu theo
yêu cầu chất lượng quốc tế nhưng vẫn có một số quốc gia nhập khẩu lạc với chất
lượng theo sự chấp nhận của thị trường như: thị trường Singapore, indonexia…
1.4. Sự cần thiết phải xuất khẩu hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam
1.4.1. Sự cần thiết phải xuất khẩu hàng nông sản
1.4.1.1. Xuất khẩu là điều kiện để mở rộng quy mô xuất khẩu

Trong quá trình hội nhập kinh tế như hiện nay, đẩy mạnh hoạt động thương
mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng trong nền kinh tế mở là việc làm hết
sức cần thiết và cấp bách. Nó mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp và
người tiêu dùng trên thế giới. Nhờ xuất khẩu mà các doanh nghiệp có thể mở
rộng quy mô sản xuất, từng bước tăng trưởng và phát triển, từ đó đáp ứng đầy đủ
các nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước với những đơn hàng có giá trị
lớn, nó làm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế.
Với sự biến động không ngừng của thị trường và nhu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng ngày càng tăng thì đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng thị
trường, đa dạng hoá các loại sản phẩm, tăng quy mô sản xuất, tăng thị phần và
sự ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường…do đó có thể giảm thiểu được
các rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải tăng
cường xuất khẩu để thu lợi nhuận, tăng số vòng quay của vốn, tăng lượng thu
ngoại tệ tù đó giúp doanh nghiệp có điều kiện đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu,
nhập về các máy móc, công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất, thúc
đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập cần phải tăng cường xuất khẩu
Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và liên kết giữa các khu vực, các quốc gia
với nhau đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập và tự do hoá thương mại đang trở
thành trào lưu lôi cuốn nhiều nước tham gia. Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đang
tích cực tham gia, nhưng những đóng góp của Việt Nam trên thị trường quốc tế
còn nhỏ, vì vậy, xuất khẩu là việc làm cần thiết để nâng cao vị thế của ta trên thị
trường quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập cho phép các doanh nghiệp được
hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi của các nước dành cho Việt Nam khi gia
nhập WTO, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường bên ngoài
dễ dàng hơn.
Mặt khác, toàn cầu hoá và hội nhập còn giúp cho các doanh nghiệp có nhiều
cơ hội kinh doanh hơn, mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài, học tập
phong cách quản lý, tiếp thu tiến bộ khoa học và công nghệ quản lý kinh doanh,

xoá bỏ tu duy cũ, tích luỹ nhiều kinh nghiệm qua đó giúp doanh nghiệp hình thành
được tác phong kinh doanh hiện đại. Vì vậy, khi thực hiện xuất khẩu, các doanh
nghiệp cần phải tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi mà toàn cầu hoá và hội
nhập đem lại từ đó không ngừng phát triển đi lên, góp phần đẩy mạnh sự phát
triển của nền kinh tế.
1.4.1.3. Việt Nam có nhiều tiềm năng trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất và xuất
khẩu hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng rất lớn, thể hiện ở:
Về đất đai: tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta khoảng 10-12 triệu ha,
trong đó gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm và 4 triệu ha cây trồng lâu năm, diện
tích đất trồng lúa chiếm phấn lớn, khoảng 5.5 triệu ha. Hiện nay Việt Nam mới chỉ
sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp, còn lại là đồng cỏ tự nhiên và mặt nước.
Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, nhiều chất dinh
dưỡng cung cấp cho cây trồng, nhất là phù xa, đất xám, chủng loại đất cũng rất
phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với nguồn
nhiệt ẩm dồi dào sẽ là điều kiện tốt để phát triển các loại cây trồng, thâm canh
tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác một cách có khoa học và hợp lý.
Về khí hậu: khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng khá
sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt
rõ ràng từ bắc xuống nam, với mùa đông lạnh ở miền bắc và khí hậu kiểu Nam Á,
ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều
kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông nghiệp nhất là cây
trồng nông sản. Không những vậy, Việt Nam còn có tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá
dồi dào, phân bố đồng đều trong nước, với độ ẩm trong năm thường cao hơn
80%, lượng mưa lớn (trung bình từ 1800-2000mm/năm)…đây là điều kiện thuận
lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của các loại động thực vật, nhất là đối với
một số loại cây trồng như: lúa, cà phê, điều, cao su, chè…
Về nhân lực: với dân số hơn 85 triệu người, cơ cấu dân số trẻ và chủ yếu
dân số sống bằng nông nghiệp, có thể thấy Việt Nam có một lực lượng lao động
dồi dào, nhất là lao động phục vụ cho nông nghiệp. Bên cạnh đó, lao động Việt

Nam có tính cần cù, sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học công nghệ nhanh
chóng, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đây là những điều kiện
thuận lợi cho Việt Nam trở thành một nước có nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến,
hiện đại…cung cấp khối lượng lớn các sản phẩm của ngành nông nghiệp nhất là
nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Về các chính sách của nhà nước: ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với
quan điểm của Đảng và Nhà nước, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chính vì
vậy việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu hàng nông sản cũng rất được chú trọng.
Nhà nước ưu tiên đầu tư trong nước và nước ngoài cho sản xuất nông nghiệp
nhất là đối với cây trồng lâu năm như: cà phê, cao su…
Với những tiềm năng to lớn như vậy, triển vọng sản xuất và xuất khẩu hàng
nông sản Việt Nam hiện nay và trong tương lai có nhiều triển vọng.
Việc tăng cường xuất khẩu hàng nông sản sẽ giúp khai thác có hiệu quả các
tiềm lực sẵn có, tạo công ăn việc làm cho ngưởi lao động, tăng thu nhập cho
người dân góp phần xoá đói, giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
1.4.1.4. Nhu cầu về hàng nông sản trên thế giới có su hướng tăng
Theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc
(FAO), từ nay đến năm 2010 nhu cầu về hàng nông sản trên thế giới và Việt Nam
sẽ tăng lên nhanh chóng.
Trước hết, do thời tiết ngày càng xấu, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó
khăn do rét đậm, rét hại kéo dài, ảnh hưởng đến cây công nghiệp và cây lương
thực…Như ở Việt Nam, thời tiết xấu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ gieo
cấy lúa đông xuân ở phía Bắc và duy trì phát triển đàn gia súc…nhất là vào cuối
năm 2007 và những tháng đầu năm 2008. Theo báo cáo của các địa phương và
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến 18/2/2008, toàn miền Bắc có
trên 146 nghìn ha lúa bị ảnh hưởng nặng, trong đó có 10 nghìn ha phải gieo trồng
lại. Tổng số các loại vật nuôi đã bị chết là 63 nghìn con, trong đó bê, nghé non
chiếm 75%; bò, trâu già chiếm 25%. Ước tổng thiệt hại khoảng 400 tỷ đồng.
Thứ hai, do dân số thế giới đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Theo ước
tính năm 2006 của Cục dân số Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2.5

tỷ người trong 43 năm tới, từ mức 6.7 tỷ người hiện nay tới 9.2 tỷ người vào năm
2050 với sự gia tăng đó chủ yếu diễn ra tại các nước đang phát triển. Dân số ở
các nước ít phát triển sẽ tăng từ 5.4 tỷ người trong năm 2007 lên 7.9 tỷ trong năm
2050. Dân số của các nước nghèo như Afghanistan, Burundi, Congo, Guinea -
Bissau, Liberia, Niger, Đông Timor và Uganda dự đoán sẽ tăng ít nhất 3 lần vào
giữa thế kỷ này. Trong khi dân số thế giới ngày cáng tăng thì diện tích đất đai sử
dụng cho nông nghiệp ngày càng giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hóa. Diện tích đất nông nghiệp giảm sẽ làm cho sản lượng các mặt hàng nông
nghiệp cũng giảm theo, trong khi nhu cầu về lương thực, thực phẩm ngày càng
tăng.
Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong nước và thế giới
làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân trong và ngoài nước tăng nên các mặt
hàng nông sản sẽ được tiêu thụ với khối lượng lớn như: gạo, đường, cà phê,
điều, chè, hạt tiêu…Cụ thể như sau:
Tổng mức tiêu dùng gạo thế giới năm 2007/08 dự báo sẽ đạt 423.93 triệu
tấn, điều chỉnh giảm 300 ngàn tấn so với dự báo hồi tháng 11/2007, song tăng
5.08 triệu tấn so với mức tiêu dùng năm 2006/07, và sẽ là năm thứ 2 liên tiếp có
mức tiêu dùng cao hơn sản lượng. Trong đó, mức tiêu dùng của một số nước dự
báo sẽ đạt (đơn vị: triệu tấn): Bănglađét 29.80; Braxin 0.90: Myanmar 10.70;
Cămpuchia 3.78; Trung Quốc 129.10; Ai Cập 3.67; Ấn Độ 88.80; Inđônêxia 36.15;
Iran 3.15; Nhật Bản 8.15; Hàn Quốc 4.75; Nigêria 4.70; Philippin: 12.06; Thái Lan
9.60; Việt Nam 18.72; Mỹ 3.99.
Tổng sản lượng gạo toàn cầu năm 2007/08 dự báo đạt 420.48 triệu tấn, điều
chỉnh giảm 680 ngàn tấn so với dự báo hồi tháng 11/2007, song tăng 2.83 triệu
tấn so với sản lượng năm 2006/07. Trong đó, sản lượng (đơn vị: triệu tấn) của
Bănglađét sẽ đạt 28.50; Braxin 7.99; Myanmar 10.66; Cămpuchia 4.80; Trung
Quốc 129.50; Ai Cập 4.41; Ấn Độ 92.00; Inđônêxia 34.00; Nhật Bản 7.94; Hàn
Quốc 4.50; Nigêria 3.00; Pakixtan 5.40; Philippin 10.01; Thái Lan 18.40; Việt Nam
23.26; Mỹ 6.33.
Tổng dự trữ gạo thế giới cuối niên vụ 2007/08 dự báo đạt 72.17 triệu tấn,

giảm so với 75.63 triệu tấn của cuối niên vụ 2006/07.
Tổng sản lượng đường thế giới năm 2007/08 theo dự báo của Bộ Nông
nghiệp Mỹ sẽ đạt 167.1 triệu tấn (qui đường thô), tăng 3.1 triệu tấn so với năm
2006/07. Trong đó, sản lượng của Braxin sẽ đạt 32.1 triệu tấn, tăng 650 ngàn tấn;
Ấn Độ 31.8 triệu tấn, tăng 1.1 triệu tấn; Trung Quốc 13.9 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn;
và Thái Lan 7.2 triệu tấn, tăng 480 ngàn tấn. Sản lượng của EU - 27 dự báo sẽ chỉ
tăng 40 ngàn tấn, đạt 17.49 triệu tấn.
Tổng mức tiêu dùng đường toàn cầu dự báo sẽ đạt 155 triệu tấn, tăng 5.6
triệu tấn so với năm 2006/07.
Tổng xuất khẩu đường trên thế giới năm 2007/08 dự báo đạt 50.8 triệu tấn,
tăng 1 triệu tấn so với năm 2006/07. Trong đó, xuất khẩu của Braxin sẽ đạt 20.6
triệu tấn, giảm 250 ngàn tấn so với năm 2005/06 do giá tương đối thấp so với chi
phí sản xuất, phí vận chuyển cao, cạnh tranh của Ấn Độ tại thị trường Cận Đông
và nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học (ethanol) ở trong nước cao. Xuất khẩu
của Thái Lan sẽ đạt 5.3 triệu tấn, tăng 200 ngàn tấn; và xuất khẩu của Ấn Độ sẽ
đạt 3 triệu tấn, tăng 1.2 triệu tấn so với năm 2006/07. Trong khi đó, xuất khẩu
đường của Ôxtrâylia sẽ giảm 200 ngàn tấn trong năm 2007/08 đạt 3.7 triệu tấn.
Tổng dự trữ đường thế giới cuối niên vụ 2007/08 dự báo đạt 46.6 triệu tấn,
tăng 5.1 triệu tấn so với cuối niên vụ 2006/07
Thứ tư, tình hình thế giới có nhiều biến động về chính trị,xã hội. Tình hình
xung đột vũ trang đang gia tăng ở nhiều nước, nhiều khu vực vẫn còn tình trạng
đấu tranh quyết liệt nhất là khu vục Trung Đông, nạn đói ở Châu Phi vẫn đang
hoành hành, do đó cần phải có một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm để dự
trữ và viện trợ cho những nước này. Đây chính là nguồn nhu cầu lớn đối với các
nước xuất khẩu nông sản.
1.4.2. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
1.4.2.1. Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước (GDP)
Xuất khẩu các loại hàng hóa nói chung, xuất khẩu hàng nông sản nói riêng
và sự tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xuất khẩu đóng vai
trò quan trọng hàng đầu cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thể hiện

ở chổ nó chiếm phần lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu hút được
nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Xuất khẩu có vai trò rất lớn trong tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia.
Theo kinh tế học thì: GDP = C+I+G+(X-N)
Trong đó: C là chi tiêu của các hộ gia đình
I là đầu tư của các doanh nghiệp
G là chi tiêu của chính phủ
X là xuất khẩu
N là nhập khẩu
Khi mà hiệu số (X-N) tăng cao tức X tăng mạnh thì tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng cao và ngược lại.
Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, có
vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu hàng nông sản càng
lớn thì càng làm cho GDP tăng cao, thể hiện được năng lực cạnh tranh của đất
nước về xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng cao sẽ nâng cao tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo báo cáo của chính phủ, giai đoạn 2002-2007 tất cả các nhiệm vụ phát
triển kinh tế đều được hoàn thành vượt mức đề ra, điểm nổi bật trong 5 năm qua
là tăng trưởng kinh tế găn kết chặt chẽ với ổn định kinh tế. Tốc độ tăng GDP bình
quân trong thời kỳ 2002 - 2007 là 7.8%, cả 3 lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp
và xây dựng, dịch vụ đều đạt mức tăng trưởng cao, liên tục với tốc độ khá ổn
định. Khu vực nông nghiệp tăng trưởng cao, liên tục và đạt mức bình quân
5.4%/năm; sanư xuất công nghiệp tăng khoảng 16.5%/năm; giá trị tăng thêm của
ngành dịch vụ bình quân 7.4%/năm
1.4.2.2. Đối với tăng trưởng nông nghiệp
Chúng ta đều biết, Việt Nam là một nước nông nghiệp, vấn đề sản xuất và
xuất khẩu hàng nông sản giữ vị trí quan trọng đối với tăng trưởng nông nghiệp nói
riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã
nổi lên là một nước xuất khẩu nông sản mạnh so với khu vực và thế giới, có
những mặt hàng Việt Nam còn được coi là đại gia như cà phê, gạo, hạt điều…

Tuy nhiên, mức độ tác động của xuất khẩu nông sản đối với tăng trưởng nông
nghiệp còn bấp bênh, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Sản phẩm của nông nghiệp bao gồm nông sản, thủy sản và lâm sản, trong
đó nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì vậy ta xem xét vai trò của xuất khẩu hàng
nông sản đối với tăng trưởng nông nghiệp qua các vấn đề sau :
Một là, xuất khẩu hàng nông sản tác động đến việc mở rộng quy mô sản xuất
nông nghiệp.
Khi xuất khẩu nông sản tăng, khối lượng nông sản được sản xuất ra ngày
càng lớn, do đó sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp.
Mặt khác, khi xuất khẩu nông sản tăng còn tạo nguồn thu lớn cho người sản xuất,
từ đó họ có thể tăng vốn để tái sản xuất mở rộng, tăng năng xuất lao động, tăng
chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
Hai là, xuất khẩu góp phần giải quyết tốt vấn đề công ăn, việc làm.
Một trong những đặc điểm rất quan trọng của Việt Nam và một số nước đang
phát triển khác là tốc độ tăng lực lượng lao động nhanh, từ đó việc làm luôn là
vấn đề nóng và cần quan tâm của nền kinh tế. Để giải quyết được tình trạng này
phải tăng cầu lao động và xuất khẩu tăng cũng là một trong những biện pháp để
mở rộng quy mô ngành sản xuất nông sản, từ đó tạo thêm việc làm cho người lao
động. Mặt khác, xuất khẩu nông sản tăng kéo theo sự phát triển của ngành công
nghịêp chế biến, công nghịêp phục vụ nông nghịêp, từ đó lao động bổ sung tăng
lên.
Khi người lao động có việc làm, thu nhập ổn định sẽ tạo tâm lý yên tâm phấn
khởi và người lao động (đặc biệt là lao động nông nghịêp) sẽ làm việc ngay tại
quê hương mình, giảm tải tình trạng di cư của lao động ra các khu công nghiệp,
thành thị để kiếm việc làm.
Ba là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực trong nông nghiệp.
Nguồn lực trong nông nghịêp bao gồm: đất đai, cơ sở hạ tầng, người lao
động, kinh nghiệm sản xuất…Mỗi quốc gia đều có những cách thức khác nhau
trong việc sử dụng các nguồn lực của mình sao cho có hiệu quả nhất và tận dụng

hết các lợi thế của vùng. Mỗi vùng khác nhau sẽ có lợi thế về một loại nông sản
khác nhau, do đó khi xuất khẩu nông sản tăng lên, thị trường được mở rộng sẽ
tạo điều kiện cho vùng đó sử dụng nguồn lực đạt hiệu quả cao nhất. Đây cũng là
lý do tại sao Việt Nam lại tạo những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu
gạo của đồng bằng sông Cửu Long, cà phê của các tĩnh miền Trung Tây Nguyên,
vải Lục Ngạn, nhãn Hưng Yên, thanh long Binh Thuận, bưởi Diễn…
Bốn là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường, đua thiết bị và các công nghệ hiện đại vào các
khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin nhằm
nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường.
Vì vậy, xuất khẩu nông sản tạo điều kiện giải quyết tốt vấn đề đầu ra cho nông
sản, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa quy
mô lớn, điều này rất phù hợp với hội nhập kinh tế hiện nay. Mặt khác, xuất khẩu
nông sản còn có vai trò tích cực trong việc cung cấp thông tin cho người sản xuất,
tạo ra sự phù hợp tốt hơn giữa người sản xuất và thị trường.
Năm là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
Xuất khẩu nông sản tăng làm đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm, từ đó góp phần thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị
cao, đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của thị trường thế giới. Xuất khẩu nông sản tăng hình thành càng vùng sản
xuất chuyên môn hóa, tạo thuận lợi cho việc chăm sóc, áp dụng tiến bộ kỹ thuật
và xóa bỏ dần cách thức sản xuất manh mún, nhỏ lẽ trước đây.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy rằng, về mặt lý thuyết xuất khẩu nông sản
và tăng trưởng nông nghiệp có mối quan hệ thuận chiều, nhưng trên thực tế các

quốc gia có phát huy được mối quan hệ này hay không còn phụ thuộc rất lớn vào
tình hình cụ thể của quốc gia đó và tăng trưởng nông nghiệp không chỉ chịu tác
động của một nhân tố đó là xuất khẩu nông sản.
Thực tế, trong những năm qua ngành nông nghiệp Việt Nam đã có những
bước chuyển mình, tạo ra sự thay đổi lớn trong sản xuất, cơ cấu, chất lượng, giá
cả sản phẩm và uy tín của nông sản trên thị trường quốc tế. Chúng ta có thể nhìn
nhận sự thay đổi đó thông qua số liệu ở bảng 1.
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản
(%)
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ tăng trưởng XKNS 11.5 26.6 61.5 26.5 24.5
Tốc độ tăng trưởng NN 3.62 4.36 4.04 3.4 3.25
Nguồn: Niên giám thống kê
Từ bảng 1 có thể thấy, trong giai đoạn từ năm 2003-2006 xuất khẩu nông
sản của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đều đặn từ 11.5% năm 2003 lên 26.6%
năm 2004 và 61.5% năm 2005. Sự tăng trưởng này làm cơ sở cho tăng trưởng
nông nghiệp cũng tăng đều đặn từ 3.62% năm 2003 lên 4.04% năm 2005. Riêng
năm 2006 và năm 2007, kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói riêng gặp
nhiều khó khăn do thời tiết, khí hậu, thiên tai không thuận lợi. Đó là hạn hán, bảo
số 1 (Chin chu), bão số 6 (xang sane), lốc xoáy, mưa đá, dịch cúm gia cầm, dịch
lở mồm long móng…nhất là đợt không khí lạnh cuối năm 2007 và đầu năm 2008
đã gây ảnh hưởng rất lớn và để lại những hậu quả rất nghiêm trọng. Điều này làm
cho việc sản xuất và xuất khẩu nông sản gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng lớn
đến nông nghiệp Việt Nam vì nông nghiệp là ngành chịu tác động lớn nhất của
điều kiện tự nhiên. Kết quả tốc độ tăng trưởng nông sản chỉ đạt 26.5% năm 2006,
24.5% năm 2007 và nông nghiệp cũng chỉ đạt 3.4% năm 2006, 3.25% năm 2007.
Nhưng đạt được kết quả này cũng đã thể hiện sự phấn đấu hết sức mình của
người dân nhằm đạt được mục tiêu năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8.5%.
Như vậy, xuất khẩu hàng nông sản có mối vai trò quan trọng với tăng trưởng
nông nghiệp, sự biến động của xuất khẩu hàng nông sản sẽ kéo theo sự biến

động của tăng trưởng nông nghiệp và muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nông
nghiệp thì cần phải bắt đầu từ các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản.
1.4.2.3. Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu
Hàng nông sản xuất khẩu là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của ta, hàng năm nó góp phần rất lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Xuất khẩu nông sản của nước ta những năm qua tăng mạnh nhất là sau khi
nước ta gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản cũng như kim ngạch
xuất khẩu của cả nước tăng cao.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu của nước ta (tỷ USD)
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng kim ngạch xuất khẩu 19 26 32.5 40 48.38
Trong đó:
Kim ngạch xuất khẩu nông sản 2.9 4 4.6 5.9 6.2
Tỷ trọng 15.2% 15.4% 14.2% 14.8% 12.8%
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
1.4.2.4. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế mà trong đó xuất khẩu là
một trong những hoạt động góp phần trực tiếp làm thay đổi cơ cấu kinh tế đất
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sánh trong
từng ngành. Việc xuất khẩu thu được ngoại tệ và nhập khẩu các loại nguyên vật
liệu, máy móc, thiết bị…tác động mạnh mẽ đến cơ cấu sản xuất, cơ cấu tiêu
dùng, thay đổi cách làm việc, tạo ra sự cạnh tranh từ đó nâng cao hiệu quả của
nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng nông sản cũng góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của đất nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và
đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh.
Kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có
hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động

kinh tế, xã hội.
Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo luật hợp tác xã mới, nhiều hợp tác xã
hoạt động có hiệu quả. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp với
các cơ sở chế biến đã ra đời, thu hút được nhiều lao động ở thành thị và nông
thôn.
Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng
phạm vi hoạt động trong nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất
giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước đang phat triển trong một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có bước phát triển khá, tạo
thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản
phẩm.
Cơ cấu ngành kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành. Tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp và xây dựng, dịch vụ; giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp.
Bảng 3: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế (%)
Cơ cấu ngành kinh tế 2003 2004 2005 2006 2007
Công nghiệp, xây dựng 39.47 40.2 41.0 41.5 41.8
Nông, lâm, ngư nghiệp 22.54 21.8 20.9 20.34 20
Dịch vụ 37.99 38.0 38.1 38.16 38.2
Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê và tạp chí thương mại
Cơ cấu vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các
vùng lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm đang đựợc xây dựng và
hình thành theo hướng phát huy thế mạnh của từng vùng, làm cho bộ mặt kinh tế,
xã hội ở các địa phương, các vùng đều có những thay đổi tích cực.
1.4.2.5. Tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm phát
triển
Nông nghiệp nước ta có vai trò lớn trong sự phát triển của nền kinh tế. Dù tỷ

trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP của cả nước không cao như
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nhưng vẫn tác động lớn tới sự phát triển của
nền kinh tế.
Nông sản là sản phẩm của ngành nông nghiệp, việc xuất khẩu hàng nông
sản sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm phát
triển, khi mà hàng nông sản xuất khẩu tăng mạnh sẽ kéo theo sự phát triển của
nhiều ngành công nghiệp chế biến, bảo đảm nguồn lương thực, thực phẩm cung
cấp đủ, kịp thời cho việc xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Xã hội càng phát
triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về lương
thực, thực phẩm sẽ tăng cao, khi đó ngành công nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm có điều kiện để phát triển.
2. Những cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp có tác động đến việc
xuất khẩu hàng nông sản
Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO
sẽ dẫn đến những thay đổi trong các ngành kinh tế nước ta, trong đó có ngành
nông nghiệp.
Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, các ngành
kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi. Đối với nông nghiệp, những biến đổi do
tác động của việc gia nhập WTO cũng không thể tránh khỏi. Các nội dung dưới
đây sẽ cho thấy những cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực nông
nghiệp và tác động của nó đối với sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.
2.1. Các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực nông nghiệp
Tổ chức Thương mại thế giới đã thấy được sự cần thiết phải đưa vấn đề
nông nghiệp vào trong khuôn khổ những nguyên tắc của mình nhằm chống lại một
thực tế là giá cả trên thị trường nông sản thế giới thường bị bóp méo. Bởi đây là
mặt hàng có tính nhạy cảm cao, luôn được các nước có chính sách duy trì bảo hộ
cao, chặt chẽ và đồng thời tìm cách hỗ trợ cho xuất khẩu. Cụ thể, hiệp định nông
nghiệp (AOA), với mục tiêu cải cách thương mại quốc tế đối với hàng nông sản
theo hướng công bằng, bình đẳng, góp phần củng cố vai trò của thị trường, đã
yêu cầu các nước phải chấp nhận hai điều kiện: Giảm trợ cấp, bao gồm cả trợ

cấp sản xuất và trợ cấp xuất khẩu; Tăng mức độ mở của thị trường hay nói cách
khác là tăng sự tiếp cận thị trường. Vì vậy, khi gia nhập WTO, nước ta cũng phải
thực hiện những cam kết trên.
2.1.1. Về các cam kết cắt giảm trợ cấp
Đối với trợ cấp xuất khẩu: nước ta cam kết bãi bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu
cho hàng nông sản khi được chính thức kết nạp vào WTO. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn được bảo lưu quyền thụ hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho một
nước đang phát triển trong lĩnh vực này trong một thời gian nhất định.
Đối với trợ cấp sản xuất trong nước: Theo thong báo của Việt Nam cho
WTO, tổng mức hỗ trợ sản xuất trong nước (Total AMS) giai đoạn cơ sở 1999-
2001 là 3961.59 tỷ VNĐ/năm. Các chính sách hỗ trợ của chúng ta đa phần nằm
trong diện “hộp xanh” và “chương trình phát triển” dành cho các nước đang phát
triển tầm trung bình. Đây là những nhóm được tự do áp dụng. Tuy nhiên, trong
một số năm tới, ngân sách nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp
ở mức này.
Ở nhóm hỗ trợ “hộp đỏ” nước ta vẫn được phép trợ cấp tối đa 10% giá trị
sản lượng hàng nông sản. Về nguyên tắc, những cam kết về việc loại bỏ trợ cấp
đối với sản xuất hàng nông sản không ngăn cản Việt Nam tiếp tục hỗ trợ cho
ngành sản xuất nông sản của nước ta. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế và ngân
sách của nhà nước còn hạn hẹp nhưng chúng ta hoàn toàn không phải dể dàng
áp dụng được đầy đủ các yêu cầu của Hiệp định nông nghiệp.
2.1.2. Về các cam kết mở cửa thị trường hàng nông sản
Trong tiến trình đàm phán song phương với 28 đối tác và đàm phán đa
phương về mở cửa thị trường, Việt Nam đã cam kết giảm thuế nông sản 20% so
với mức thuế ưu đãi tối huệ quốc.(MFN) hiện hành, tức là từ mức 23.5% như hiện
nay xuống còn 20.9% (tính theo mức thuế trong hạn ngạch của một số mặt hàng)
trong vòng từ 5 đến 7 năm tới. Mức độ giảm có sự khác nhau giữa các sản phẩm
hoặc nhóm sản phẩm. Khái quát chung là các sản phẩm chế biến hiện có mức
thuế cao (40% - 50%) thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so với nông sản thô.
Những nhóm hàng cụ thể phải giảm nhiều là thịt, sữa, rau quả chế biến, thực

phẩm chế biến, quả ôn đới (táo, lê, đào, nho…). Các mặt hàng nông sản thô
chúng ta có khả năng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều…
không giảm hoặc giảm rất ít. Một số mặt hàng vẫn sẽ áp dụng hạn ngạch thuế
quan trong một thời gian nữa là đường, muối, trứng gia cầm, thuốc lá.
Bảng 4: Biểu hàng nông sản
Tên hàng hóa
Thuế suất cam kết tại
thời điểm gia nhập
(%)
Thuế suất cam kết cắt
giảm (%)
Thời hạn thực hiện
(năm)
Cà phê chưa rang,
chưa khử chất ca - phê
- in
Arabica WIB hoặc
Robusta OIB
20 15 2010
Loại khác 20 15 2010
Chưa rang, đã khử chất
ca - phê - in
Arabica WIB hoặc
Robusta OIB
20
Loại khác 20
Đã rang, chưa khử chất
ca - phê - in
Chưa xay 40 30 2011
Đã xay 40 30 2011

Đã rang và khử chất ca
- phê - in
Chưa xay 40 30 2011
Đã xay 40 30 2011
Loại khác 40 30 2011
Chè xanh
Nguyên cánh 40
Loại khác 40
Hạt tiêu Chưa xay hoặc
nghiền
Trắng
30 20 2010
Đen 30 20 2010
Đã xay hoặc nghiền
Trắng 30 20 2010
Gạo thơm
Nguyên hạt 40
Không quá 5% tấm 40
Trên 5% - 10% tấm 40
Loại khác 40
Gạo nếp 40
Loại khác 40
Ngô
Ngô giống 0
Loại khác đã rang
30
Các loại quả
Táo 24 10 2010
Dưa hấu 40 30 2010
Quả nhãn 40 30 2010

Quả vải 40 30 2010
Dừa 40 30 2010
Rau và một số loại củ,
rể ăn được
Cà chua tươi hoặc ướp
lạnh
20
Khoai tây tươi hoặc
ướp lạnh
20
Bắp cải, xu hàp, rau cải 20
Cà rố, củ cải 20
Đậu hạt 30 20 2010
Thịt trâu, bò tươi hoặc
ướp lạnh
35 30 2010
Thịt lợn tươi ướp lạnh
hoặc đông lạnh
30 25 2010
Thịt cừu, dê 10 7 2010
Thịt ngan, gà 15 8 2011
Sữa và các sản phẩm từ 20 18 2009
sữa
Bơ 20 13 2014
Nguồn: Bộ Tài Chính

×