Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

ĐẶC ĐIỂM VẬN DỤNG DÃY SỐ THỜI GIAN ĐỂ PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO GIÁ TRỊ SẢN XUẤT XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.02 KB, 39 trang )

ĐẶC ĐIỂM VẬN DỤNG DÃY SỐ THỜI GIAN ĐỂ PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO GIÁ TRỊ
SẢN XUẤT XÂY LẮP.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA XÂY LẮP CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ TRỊ SẢN XUẤT
XÂY LẮP , PHÂN TÍCH DỰ BÁO.
1. Khái niệm sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội, là thành quả
lao động trực tiếp, hữu ích của hoạt động sản xuất xây lắp, do công nhân xây
lắp thi công tại hiện truờng theo thiết kế sáng tạo ra. Từ khái niệm trên cho thấy
sản phẩm xây lắp thì phải đảm bảo các điều kiện sau.
_ Phải là kết quả hoạt động sản xuất xây lắp. Theo điều kiện này, những
sản phẩm không phải là thành phẩm của lao động xây lắp (sản phẩm của các tổ
chức sản xuất phụ trợ, phụ thuộc), những sản phẩm chưa có sự đầu tư lao động
của công nhân xây lắp(nguyên vật liệu, cấu kiện... mua ngoài về hoặc tự sản
xuất trong các phân xưởng sản xuất phụ) đều không đươc coi là sản phẩm xây
lắp.
_ Phải là thành quả trực tiếp hữu ích do hoạt động sản xuất xây lắp, nghĩa
là những sản phẩm do hoạt động xây lắp trực tiếp sáng tạo theo đúng tiêu chuẩn
thiết kế đã quy định mơí được tính là sản phẩm xây lắp. Như vậy sẽ không tính
là sản phẩm xây lắp đối với những sản phẩm phá đi làm lại, những chi phí sửa
chữa do đơn vị thi công gây ra. Về điều kiện này cần lưu ý trong xây dựng cơ
bản, sản phẩm hữu ích của XN xây lắp là những kết quả hoạt động xây lắp đã
đươc bên A kiểm tra xác nhận số lượng và chất lượng của sản phẩm. Do đó khối
lượng phải phá đi làm lại không phải do xí nghiệp xây lắp gây ra vẫn đươc coi là
sản phẩm xây lắp.
_ Phải là thành quả lao động của công nhân xây lắp thi công tại hiện
trường theo thiết kế. Điều kiện này xác định rõ giới hạn của sản phẩm xây lắp
thể hiện ở chỗ, sản phẩm xây lắp phải là kết quả lao động của công nhân xây
lắp thực hiện trong phạm vi thi công và phải là những khối lượng có trong thiết
kế. Do đó những kết quả lao động của công nhân xây lắp thực hiện ngoài cự ly
thi công hoặc vượt thiết kế đều không được tính vào sản phẩm xây lắp như khối
lượng vận chuyển nguyên vật liệu ngoài cự ly thi công, xây dựng các lán trại


nhỏ để phục vụ cự ly thi công.
2. Đặc điểm cơ bản của sản phẩm xây lắp.
_ Đặc điểm của sản xuất xây dựng.
Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo lãnh thổ
kinh tế: vì trong xây dựng, khác với nhiều ngành khác, con người và công cụ
luôn phải di chuyển từ công trường này đến công trường khác, còn sản phẩm
xây dựng (tức là các công trình xây dựng ) đứng yên tại chỗ. Đăc điểm này kéo
theo một loạt các động tác ví dụ như:
Các phương án công nghệ và tổ chức xây dựng phải luôn biến đổi phù
hợp với thời gian và đị điểm xây dựng, do đó làm khó khăn cho việc tổ chức sản
xuất, cho việc cải thiện điều kiện lao động và làm nảy sinh cho nhiều chi phí cho
khâu di chuyển lực lượng sản xuất cũng như các công trình tạm phục vụ thi công
xây dựng.
Tính lưu thông của sản xuất đòi hỏi phải chú ý tăng cường tính cơ động,
linh hoạt và gọn nhẹ các phương án tổ chức xây dựng, tăng cường điều hành tác
nghiệp lụa chọn vùng hoạt động hợp lý, lợi dụng tối đa các lực lượng và tiềm
năng sản xuất tại chỗ, chú ý đến độ xa di chuyển lực lượng sản xuất đến công
trường khi lập phương án tranh thầu.
Đòi hỏi phát triển rộng khắp và đIều hoà trên lãnh thổ các loại hình dịch
vụ dịch vụ sản xuất về cung cấp vật tư và thiết bị cho xây dựng, về cho thuê máy
móc xây dựng...
Vì sản phẩm xây dựng có tính đa dạng cá biệt cao, có chi phí lớn nên sản
xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu
thầu hoặc chỉ định thầu cho từng công trình một. Đặc đIểm này gây nên một số
tác động đến quá trình sản xuất Xây Dựng như:
Trong xây dựng nói chung hình thức sản xuất sẵn hàng loạt sản phẩm để
bán không được phát triển, trừ một số trường hợp có thể xây dựng sẵn căn nhà
để bán hoặc cho thuê.
Sản xuất xây dựng của các tổ chức xây dựng có tính bị động và rủi ro cao
vì nó phụ thuộc vào kết qủa đấu thầu.

Việc thống nhất hoá điển hình các mẫu sản phẩm và cac công nghệ chế
tạo sản phẩm xây dựng gặp nhiều khó khăn, vì cùng một loại công trình xây
dựng, nếu được xây dựng ở các địa đIểm khác nhau và các thời điểm khác nhau
thì chúng sẽ có cách cấu tạo và công nghệ chế tạo khác nhau.
Việc xác định thống nhất giá cả cho một đơn vị sản toàn vẹn cuối cùng
(tức là các công trình nhà cửa) không thể thực hiện được. Giá cả sản phẩm công
trình phảI được xác định trước khi sản phẩm ra đời (ngay khi tiến hành đấu thầu
xây dựng).
Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình thường dài) đặc điểm này
gây lên các tác động như:
Làm cho vốn dầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn tổ chức của sản xuất
xây dựng thường bị ứ đọng lâu dài tại công trình.
Các tổ chức xây dựng dễ gặp phải rủi do do ngẫu nhiên theo thời gian và
thời tiết, chịu ảnh hưởng của biến động giá cả.
Công trình xây dựng dễ bị hao mòn vô hình ngay do tiến bộ nhanh của
khoa học kỹ thuật công nghệ, nếu thời gian thiết kế và xây dựng công trình kéo
dài.
Đòi hỏi phải có chế độ tạm ứng vốn, thanh toán trung gian và kiểm tra
chất lượng trung gian hợp lý, tổ chức dự chữ hợp lý.
Đòi hỏi phải tính đến hiệu quả rút ngắn thời gian xây dựng và chú ý đến
nhân tố thời gian khi so sánh lựa chọn các phương án.
Quá trình sản xuất và xây dựng rất phức tạp đòi hỏi phải có nhiều lực
lượng hợp tác tham gia thực hiện, khác với ngành khác trong lĩnh vực xây dựng
các đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng nhau đến công trường xây dựng
với một diện tích làm việc thường là bị hạn chế để thực hiện phần việc của mình
theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian. Đặc điểm này đòi hỏi:
Khi lập kế hoạch xây dựng phải đặc biệt chú ý đến yếu tố thời tiết và mùa
màng trong năm, có biện phấp tranh thủ mùa khô và tránh mùa gió bão.
Phải có biện pháp để khắc phục ảnh hưởng của thời tiết tối đa giảm bớt
thời gian ngừng việc do thời tiết, cố gắng bảo đảm sử dụng năng lực sản xuất

điều hoà theo bốn quý, áp dụng các loại kết cấu lắp ghép chế tạo sẵn một cách
hợp lý để giảm thời gian thi công ở hiện trường, nâng cao trình độ cơ giới hoá
xây dựng.
Phải chú ý cải thiện điều kiện lao động cho người làm công xây dựng.
Phải đảm bảo độ bền chắc và độ tin cậy của của các thiết bị máy móc xây
dựng.
Phải chú ý đến nhân tố rủi ro do thời tiết gây ra.
Phải quan tâm phát triển phương pháp xây dựng trong điều kiện khí hậu
nhiệt đới. .
Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do địa đIểm
xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình xây dựng nhưng nếu được tiến hành
xây dựng ở những nơI có sẵn nguồn vật liẹu xây dựng nhân công và các cơ sở
cho thuê máy xây dựng thì thì nhà thầu xây dựng trong trường hợp này có nhiều
cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn so với các địa điểm xây dựng khác.
Công nghệ xây lắp chủ yếu là quá trình áp dụng các quá trình cơ học để
giải quyết vấn đề chuyển ngang và vận chuyển lên cao, hoặc để xâm nhập lòng
đất. Việc áp dụng chế độ tự động hoá quá trình xây lắp phát triển chậm, tỷ lệ thủ
công chiếm cao.
- Đặc điểm của sản phẩm xây lắp.
Sảm phẩm xây lắp mang tính cố định.
Có tính cá biệt đơn chiếc cao (do ý chủ quan của đầu tư phụ thuộc vào địa
hình, địa vật)
Thể tích và thời gian sử dụng dài.
Giá trị hao mòn tài sản cố định ít thường tính bằng chi phí sửa chữa lớn
3. Những điều kiện được coi là sản phẩm xây lắp.
Là thành quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp
hay do lao động trong đơn vị xây lắp sáng tạo ra.
Phải là chính thành quả của hoạt động xây lắp không tính các thành quả
không phải sản xuất xây lắp như trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ căng tin, nhà trẻ,
vận tải.

Là thành quả của chính hoạt động sản xuất xây lắp là kết quả trực
tiếp( tức không tính đến các phần công việc hoặc hoạt động phục vụ trong quá
trình đang thi công mà không quy định trong thiết kế dự toán như phần việc tháo
dỡ lắp đặt máy thi công, xây dựng các công trình tạm như lán trại, làm đường
vận chuyển nguyên vật liệu hoặc các phế liệu như gỗ, sắt, gạch.
Là hữu ích: Tức là chỉ bao gồm các thành quả hoàn thành theo đúng yêu
cầu và đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định trong hợp đồng không tính phần phá
đi làm lại do đơn vị xây lắp gây ra.
4. Các hình thức biểu hiện của sản phẩm xây lắp.
_Sản phẩm xây lắp dưới hình thái hiện vật.
Đại bộ phận sản phẩm xây lắp có hình thái biểu hiện dưới dạng vật chất
cụ thể đó là các đối tượng xây dựng với những đơn vị đo lường vật lý cụ thể
như: độ dài, chiều cao, diện tích, công suất, khối lượng.
Nhà của vật kiến trúc chia làm hai loại: phục vụ cho sinh hoạt, phục vụ
cho sản xuất.
_Các phần công việc có tính chất xây lắp.
Khảo sát thăm dò thiết kế phát sinh trong quá trình thi công hay liên quan
đến một công trình, hạng mục công trình cụ thể.
Công tác lắp đặt máy móc thiết bị tạo điều kiện cho máy móc được hoạt
động hay phát huy tác dụng và làm tăng giá trị sử dụng của máy móc, thiết bị.
Là thành quả của công tác khôi phục, sủa chữa nhà cửa vật kiến trúc nhằm
tái tạo lại giá trị sử dụng ban đầu.
5. Nội dung cơ bản của quá trình tổ chức sản xuất xây dựng.
a. Tổ chức quá trình lao động trong thi công xây dựng
Nghiên cứu tổ chức quá trình lao động trong thi công xây dựng nhằm mục
đích chủ động cung cấp một cách hợp lý nhất số lượng và chủng loại lao động
cần thiết cho mỗi giai đoạn thi công tạo ra sự di chuyển nhân công và máy móc
thiết bị theo đúng yêu cầu thi công tránh sự chờ đợi làm gián đoạn sản xuất, tạo
ra việc sử dụng lao động một cách hợp lý nhất nhằm tăng năng suất lao động
từng nơi làm việc và toàn bộ công trường.

Tổ chức quá trình lao động trong thi công xây dựng công trình bao gồm
các nội dung chủ yếu sau:
Bố trí nơi làm việc: Nơi làm việc của công nhân xây dựng là vị trí có
không gian cần thiết để họ thực hiện các thao tác xây dựng hoặc lắp đặt các chi
tiết công trình. Tuy nhiên loại công việc mà mỗi nơi làm việc có các khoảng
không gian khác nhau.
Nếu là lao động thủ công thì không gian nơi làm việc bao gồm chỗ đặt
công cụ sản xuất, chỗ đặt đối tượng lao động và sản phẩm, ở đó phải tạo được
điều kiện cho các thao tác và hoạt động của công nhân thuận tiện nhất, để họ có
thể tăng được năng suất lao động.
Nếu là lao động cơ giới thì nơi làm việc phải đáp ứng được khoảng không
gian hoạt động của máy móc, ở đó đủ để bố trí máy móc thiết bị, vật liệu và
không gian thao tác, có thể có cả lối đi lại của máy. Không gian ở đó phải bảo
đảm tầm nhìn bao quát cho công nhân vận hành máy, bảo đảm nâng cao năng
suất lao động và an toàn khi làm việc.
Như vậy việc bố trí nơi làm việc hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất công
việc, phụ thuộc vào phương pháp tổ chức thủ công cho từng phần việc. Muốn
việc bố trí nơi làm việc có khoa học không thể không nghiên cứu đến thời gian
làm việc của công nhân trong mỗi dự án.
Tổ chức tổ đội sản xuất trong thi công.
Thông thường việc tổ chức tổ đội sản xuất trong thi công có hai dạng, đó
là đội chuyên nghiệp và đội hỗn hợp. Đội chuyên nghiệp là đội sản xuất mà
trong đó chỉ một hoặc hai loại thợ cùng tiến hành một hoặc hai nghề khác nhau.
Đội, tổ sản xuất hỗn hợp là đội, tổ mà ở đó có nhiều công nhân có thể tiến hành
được nhiều nghề khác nhau, cùng nhau tham gia xây dựng và hoàn thành một
phần việc lớn hay một trong hạng mục của công trình.
Căn cứ cơ bản để lựa chọn một trong hai hình thức tổ chức tổ, đội sản
xuất nói trên do tính chất ổn định hay không ổn định của công việc trên công
trường quyết định. Đối với công trường lớn như công trường thuỷ điện Hoà
Bình phải thi công trong nhiều năm, những bộ phận chính tham gia xây dựng

thường được tổ chức theo đội, tổ sản xuất theo hình thức chuyên môn hoá lại
không có hiệu quả cao, lúc đó tổ chức tổ, đội sản xuất theo hình thức hỗn hợp lại
là hợp lý.
Xác định lượng lao động cho mỗi loại công việc:
Việc xác định lượng lao động cho mỗi loại công việc là công việc quan
trọng không thể thiếu nếu muốn tiến hành tổ chức quá trình lao động có hiệu quả
cao. Tuy vậy, muốn xác định lượng lao động cần thiết đòi hỏi phải dựa vào
những căn cứ chính xác và thực tế, những căn cứ đó là: khối lượng công việc thi
công chính xác, dựa vào định mức lao động của từng loại lao động, định mức
lao động có hai loại là định mức sản lượng và định mức thời gian. Nếu công việc
thi công theo phương pháp thủ công thì có thể dùng phương pháp tính trực tiếp,
nhưng nếu công việc thi công bằng máy phải tính ra máy phải sử dụng rồi tính ra
số công nhân sử dụng máy. Căn cứ thứ ba dựa vào đó là thời gian cho phép của
một người làm việc trong giai đoạn thi công theo kế hoạch để tính ra số lao động
làm những công việc thủ công, hoặc dựa vào định mức lao động phục vụ mỗi ca
máy để tính ra số lao động hoạt động ở các khâu thi công bằng máy.
Sử dụng các hình thức tiền lương trong tổ chức lao động.
Thực tế rằng có hai hình thức trả lương cơ bản cho công nhân, đó là trả
lương theo thời gian và hình thức trả lương theo chất lượng và số lượng sản
phẩm hoàn thành, hình thức khoản lương thực chất cũng là tiền lương theo sản
phẩm. Mỗi hình thức trả lương cũng có ưu và nhược điểm của nó, nhưng khi sử
dụng các hình thức tiền lương đều phải bảo đảm những yêu cầu chính sau:
Hình thức trả lương phải làm cho người lao động quan tâm đến kết quả
chung của toàn đơn vị.
Các hình thức tính lương phải đơn giản, để hiểu, người lao động có thể
kiểm tra, giám sát được.
Sổ cán bộ nghiệp vụ tiền lương phải ít nhất
Việc tính lương, chia lương phải công bằng chính xác
b. Tổ chức thực hiện quá trình thi công chính.
Tổ chức quá trình thi công chính là quá trình tổ chức xây lắp những phần

việc chính, những hạng mục chính của công trình trên cơ sở sử dụng những kiến
thức tổ chức sản xuất hiện đại để bố trí trình tự triển khai công việc, sử dụng hợp
lý các nguồn lực đầu vào, đảm bảo cho quá trình thi công xây lắp được tiến hành
liên tục, nâng cao năng suất lao động ở tất cả các khâu nhằm rút ngắn thời gian
thi công, đưa nhanh công trình vào sử dụng.
Thực hiện mục tiêu tổ chức quá trình thi công chính hợp lý nhất, sử dụng
yếu tố các nguồn lực đầu vào đẩy nhanh quá trình thi công xây lắp. Đòi hỏi phải
nghiên cứu tất cả ban đầu có liên quan đến quá trình tổ chức thi công công trình.
những tài liệu thông tin cần được nghiên cứu đó là bản đồ và tình hình cấu tạo
địa chất, thuỷ văn nơi xây dựng công trình, bản vẽ và thuyết minh trình tự lắp
đặt thiét bị trong công trình trong từng giai đoạn thi công yêu cầu về tiến độ thi
công, yêu cầu về chất lượng công trình thông qua các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy
phạm kỹ thuật và định mức hiện hành.
Phân tích đặc điểm cấu tạo công trình để có giải pháp tổ chức cụ thể cho
từng giai đoạn thi công. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm cấu tạo công trình và
trình tự thi công mà tiến hành phân chia quá trình thi công các giai đoạn thi công
cụ thể, thành các đợt cụ thể, tận dụng tối đa khả năng các yếu tố đầu vào, chủ
yếu là vật tư và thiết bị thi công bảo đảm cho quá trình thicông liên tục làm tăng
năng suất lao động, rút ngắn thời gian xây lắp công trình.
Lựa chọn phương án tổ chức thi công: thực chất của việc lựa chọn phương
án thi công là lựa chọn các giải pháp kỹ thuật để tổ chức xây lắp đạt hiệu quả tốt
nhất về mặt thời gian, về chất lượng công trình và chi phí thi công phải thấp
nhất. Vì vậy phải xây dựng được nhiều phương án tổ chức thi công khác nhau
cho cùng một phần việc hay một giai đoạn thi công. Trên cơ sở đó mà lựa chọn
lấy phương án tối ưu về mặt kỹ thuật, về mặt tổ chức sử dụng những yếu tố
nguồn lực đầu vào và về chi phí thi công phải thấp nhất.
Có nhiều yếu tố đầu vào tác động đến quá trình thi công xây lắp công
trình, vì vậy yêu cầu sử dụng vật liệu xây dựng chủ yếu cho công trình, yêu cầu
sử dụng máy móc thiết bị phục vụ thi công và yêu cầu sử dụng lao động cho quá
trình thi công công trình hợp lý.

c. Tổ chức phục vụ trên công trường.
Tổ chức kho bãi trên công trường.
Kho bãi là nơi cất chứa, bảo quản các loại vật tư kỹ thuật, máy móc thiết
bị phục vụ cho quá trình xây lắp của công trình. Có nhiều loại kho bãi khác nhau
dựa vào vị trí, tính năng tác dụng của nó mà chia ra: kho chung chuyển, kho khu
vực, kho chính, kho công trình, kho các xưởng thi công.
Bố trí mạng lưới giao thông trên các công trường
Mạng lưới giao thông trên công trường là hệ thống đường vận chuyển nội
bộ, phục vụ công tác thi công xây lắp, hàng hoá được vận chuyển trên mạng lưới
giao thông này bao gồm các loại vật tư, cấu kiện, thiết bị... phục vụ trực tiếp cho
công trường. Bố trí hệ thống giao thông này phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản
sau:
Đường giao thông không được cắt ngang các dây chuyền công nghệ.
Có khả năng cung cấp tận nơi làm việc những vật tư, thiết bị cần thiết do
công nhân tiến hành các bước công việc.
Đảm bảo cho người và thiết bị an toàn tuyệt đối trong quá trình vận
chuyển thi công trên công trường.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà bên công trường có thể bố trí các đường
giao thông khác nhau như đường goòng, đường bộ, băng tải các loại, tời dây vận
chuyển lên cao theo đường vận thẳng hay cần cẩu...
Cung cấp điện, nước cho thi công.
Nhu cầu sử dụng nước, điện cho thi công phụ thuộc vào quy mô của công
trường nói chung và mức độ cơ giới hóa nói riêng. Việc cung cấp điện nước phải
đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
Cung cấp tận nơi làm việc của từng công nhân hay từng tổ lao động.
Cung cấp liên tục trong suốt thời gian thi công.
Quá trình cung cấp phải liên tục bảo đảm an toàn cho người và cho máy
móc thiết bị.
Tổ chức hệ thống nhà tạm trên công trường.
Các nhà tạm được sử dụng trên công trường để phục vụ cho gia công cấu

kiện, chuẩn bị vật liệu cho thi công, bao gồm các kho chứa, xưởng chộn bê tông,
nhà hành chính tạm ở cho công nhân cán bộ trên công trường.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DÃY SỐ THỜI GIAN
Trong thống kê người ta thường sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để
nghiên cứu sự phát triển của các hiện tượng kinh tế xã hội. một trong những
phương pháp đó là phương pháp phân tích dãy số thời gian, nó cho phép nghiên
cứu sự biến động mặt lượng của hiện tượng.
1. Khái niệm.
Dãy số thời gian là một dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp
theo thứ tự thứ tự thời gian. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc
điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự
phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
Trong dãy số thời gian người ta có thể biểu diễn các chỉ tiêu trong từng
khoảng thời gian hay vào những thời điểm nhất định.Vì vậy dãy số thời gian
được chia làm hai loại:
a. Dãy số thời kỳ.
Dãy số thời kỳ biểu hiện qui mô (khối lượng) của hiện tượng trong từng
khoảng thời gian nhất định. Mỗi mức độ của từng dãy số thời kỳ là sự tích luỹ
về lượng thời gian, vì vậy độ dài của khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp
đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu đó lại để phản quy
mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hơn.
b. Dãy số thời điểm:
Dãy số thời điểm phản ánh quy mô ( khối lượng ) của hiện tượng vào
những thời điểm nhất định. Mức độ hiện tượng của thời điểm sau có thể bao
gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng trước đó. Do đó việc
cộng các trị số của chỉ tiêu đó không phản ánh quy mô của hiện tượng.
2. Kết cấu của một thời gian.
Dãy số thời gian bao gồm 2 thành phần cơ bản:
a. Thành phần thời gian.
Thời gian có thể được xác định bằng những đơn vị đo lường khác nhau:

Ngày, tuần, tháng, quý, năm ... Độ dài giữa 2 khoảng thời gian trong dãy số gọi
là khoảng cách thời gian.
b. Thành phần chỉ tiêu về hiện tượng nghiên cứu:
Nó có thể biểu hiện bằng số tuyệt đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu gọi
là mức độ của dãy số.
Nguyên tắc xây dựng dãy số thời gian:
Để có thể phản ánh đúng đắn sự phát triển của hiện tượng qua thời gian
thì khi xây dựng một dãy số thời gian phải đảm bảo tính chất có thể so sánh
được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể là: Nội dung và phương pháp tính
các chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất: Phạm vi toán của hiện tượng qua thời
gian phải nhất trí, khoảng cách thời gian trong dãy số phải bằng nhau nhất là đối
với dãy số thời kỳ. Trong thực tế có nhiều lý do khác nhau nên các yêu cầu đó
thường bị vi phạm. Để đảm bảo tính chất có thể so sánh được người ta thường
tiến hành chỉnh lý lại tài liệu.
Trong thống kê có thể sử dụng dãy số thời gian để phân tích trên nhiều
gốc độ, nội dung khác nhau.
Phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng bằng các chỉ tiêu phân tích
dãy số thời gian.
Phân tích xu hướng, tính quy luật của sự biến động hiện tượng qua thời
gian bằng các phương pháp biểu diễn xu hướng phát triển cơ bản của hiện tựng.
Trên cơ sở nhận thức được bản chất và tính quy luật của sự phát triển hiện
tượng, tiến hành dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
II. CÁC CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH DÃY SỐ THỜI GIAN.
Để phản ánh đặc điểm biến động qua thời gian của hiện tượng được
nghiên cứu, người ta sử dụng nhiều chi tiêu với các mức độ nghiên cứu khác
nhau. Dưới đây là một số chỉ tiêu thường dùng trong thống kê.
1. Mức độ bình quân theo thời gian.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của các mức độ tuyệt đối trong
một dãy số thời gian.
Tuỳ theo dãy số thời kì hay dãy số thời điểm người ta có các cách tính

khác nhau.Như ta đã biết chỉ tiêu GO là chỉ tiêu theo thời kỳ vì vậy để tính mức
độ bình quân theo thời gian được xác định theo công thức:
n
y
n
yyy
y
n
i
i
n

=
=
+++
=
121
...
Trong đó: y
i
(i=1,2,...,n) là GO của từng kỳ
n: số lượng các mức độ trong dãy số.
2. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối .
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối của GO giữa hai
thời kỳ nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu
mang dấu (+) và ngược lại.
Do đặc điểm của dãy số thời gian và tuỳ theo mục đích nghiên cứu GO,
người ta có chỉ tiêu về lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối như sau:
a.Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
Phản ánh sự tăng (hoặc giảm) tuyệt đối của GO giữa hai thời gian liền

nhau. Nó là hiệu số giữa mức độ nghiên cứu (y
i
) là mức độ của GO kì nghiên
cứu và mức độ đứng liền trước đó.
Ta có công thức:
δ
i
=y
i
- y
i-1
(i=2,n)
Trong đó : δ
i
lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn
b. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc.
Để nghiên cứu mức độ biến động tăng hoặc giảm tuyệt đối của GO trong
một kỳ nghiên cứu nào đó với một năm được chọn làm gốc người ta dùng lượng
tăng giảm tuyệt đối định gốc.
Gọi ∆
DG
: là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc:
( )
niyy
iii
,2
1
=−=∆

Ta thấy lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và định gốc có mối

quan hệ tổng. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc bằng tổng đại số các
lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.

i
=
∑δ
i
c. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân
Phản ánh sự thay đổi bình quân của GO về mức độ tuyệt đối của từng thời
gian trong cả một thời gian dài.
Nó là số bình quân cộng của các lượng tăng hoặc giảm tuyệt đối liên
hoàn.
1
...
32

+++
=
n
n
δδδ
δ
111
1


=


=


=

n
yy
nn
nn
i
δ
δ
Để nghiên cứu mức độ biến động qua thời gian của GO thông qua chỉ tiêu
tương đối ta có các loại chỉ tiêu sau.
3. Tốc độ phát triển
Là số tương đối phản ánh tốc độ và xu hướng phát triển của hiện tượng
qua thời gian. Trong thống kê người ta có thể nghiên cứu tốc độ phát triển của
hiện tượng giữa hai thời gian liền kề nhau, trong một khoảng thời gian dài hay
tốc độ phát triển bình quân.
a.Tốc độ phát triển liên hoàn
Phản ánh sự biến động của GO giữa hai thời gian liền nhau công thức tính
như sau:
),2(
1
ni
y
y
t
i
i
i
==


Trong đó t
i
: là tốc độ phát triển liên hoàn của thời gian i so với thời
gian (i-1).
y
i
: GO ở thời gian i
y
i-1
: GO ở thời gian i-1
b.Tốc độ phát triển định gốc
Nhằm phản ánh sự biến động của GO trong những khoảng thời gian dài
công thức tính.
),2(
1
ni
y
y
T
i
i
==
Trong đó: T
i
: là tốc độ phát triển định gốc
y
i
: là GO ở thời gian i
y

1:
là GO ở thời gian 1
Ta dễ nhận thấy giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định
gốc là quan hệ tích và mối quan hệ thương tương đối chặt chẽ với nhau.

×